Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN một số biện pháp tích hợp giáo dục nội dung biển, đảo việt nam trong giảng dạy tác phẩm văn xuôi ngữ văn lớp 6 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.48 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, vấn đề giao thương hàng hải và chủ quyền biển đảo
là vấn đề thời sự "nóng" của cả thế giới, trong đó có Việt Nam. Các tầng lớp
nhân dân ta, từ những người nông dân chân lấm tay bùn cho đến công nhân, rồi
đội ngũ trí thức, người cao tuổi... hầu như ai cũng muốn ra sức chung tay "góp
đá xây Trường Sa". “Ở nơi đảo xa, các chiến sĩ hải quân đang ngày đêm khắc
phục khó khăn, nắm chắc tay súng để giữ "lấy biển lấy trời "; những ngư dân
kiên cường bám biển; nhà sử học nỗ lực tìm kiếm để đưa ra những bằng chứng
thiết thực chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt
Nam”[10]. Thiết nghĩ, trong bối cảnh đó, không có lý do gì để một bộ phận học
sinh của chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước, lại hiểu biết mơ hồ về
chủ quyền biển đảo. “Biên giới, biển đảo là một phần lãnh thổ trọng yếu của đất
nước”[11]. Chủ trương của đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc tuyên
truyền và nâng cao nhận thức về chủ quyền biển đảo, vấn đề này được đẩy mạnh
và triển khai bằng nhiều hình thức phong phú nhằm đem đến những thông tin
chính thống liên quan đến biển đảo và công tác phân giới, cắm mốc chủ quyền.
Do đó công tác tuyên truyền cần tiến hành thường xuyên, liên tục, đi sâu vào các
đối tượng cụ thể, đặc biệt chú trọng lớp trẻ - học sinh các cấp.
Trong các khối THCS trên phạm vi cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hóa và
huyện Thiệu Hóa nói riêng thì trường THCS Thiệu Thành,Thiệu Hóa đã đưa
việc tuyên truyền những nội dung về biển đảo vào chương trình học bằng nhiều
hình thức nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức chủ quyền, làm giàu thêm
tình yêu, niềm tự hào với biển đảo quê hương. Tuy nhiên số giáo viên đã có sự
đổi mới, tìm tòi để truyền đạt nội dung này, đem lại hứng thú và hiệu quả cho
bài giảng của mình lại không nhiều. Việc tích hợp này cũng chỉ dừng lại đối với
học sinh khối 8, 9, chủ yếu ở môn Địa lí còn với học sinh lớp 6, 7 và các bộ môn
khác thì chưa thực sự được chú trọng. Ở các em học sinh lớp 6, 7 sự hiểu biết về
vấn đề biển đảo là rất hạn chế dù ở cấp Tiểu học các em cũng đã được thầy cô
trang bị sơ giản. Trong khi đó sự hiểu biết những kiến thức cơ bản, khoa học về
biển đảo từ nhà trường ngay ở những lớp đầu cấp chính là nền tảng, khởi nguồn


tình cảm và ý thức giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc của tuổi trẻ.
Hơn nữa, “Ngữ văn là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính
công cụ. Con đường giáo dục của văn học là đi từ tình cảm, nhận thức đến hành
động. Nó dễ tác động và thấm sâu trong lòng con người”[2]. Cho nên việc đưa
nội dung biển đảo tích hợp vào bộ môn Ngữ văn là rất hợp lí. Vì nhận thấy đây
là một vấn đề quan trọng và rất cấp thiết nên tôi mạnh dạn đưa ra “một số biện
pháp tích hợp giáo dục nội dung biển đảo Việt Nam trong giảng dạy tác phẩm
văn xuôi Ngữ văn lớp 6 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS
Thiệu Thành, Thiệu Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua quá trình giảng dạy các tác phẩm văn xuôi ở môn Ngữ văn lớp
6 giáo viên áp dụng một số biện pháp để tích hợp nội dung biển đảo vào bài
giảng của mình nhằm trang bị kiến thức cho học sinh về một bộ phận lãnh thổ
rộng lớn của tổ quốc.
1


Kết quả là học sinh có được ý thức trách nhiệm với biển và tài nguyên
môi trường biển, biết có các hành động thích hợp để giúp mọi người xung quanh
hiểu biết thêm về biển, có ý thức bảo vệ vùng biển của Tổ quốc góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục.
Đồng thời các em sẽ có thêm những kĩ năng sống cơ bản, những cách ứng
xử trong thực tế phù hợp; Bồi dưỡng trong tâm hồn học sinh tình yêu biển đảo,
yêu quê hương đất nước.
1.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu chỉ tập trung đề cập đến vấn đề biển đảo có liên quan đến
các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ văn 6.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 6 ở trường THCS Thiệu Thành, Thiệu
Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điều tra, vấn đáp.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm.
- Phương pháp tích hợp, nghiên cứu tài liệu.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Tích hợp trong dạy học văn
Tích hợp: Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại, tiên tiến
đang được vận dụng rộng rãi trên thế giới. “Trong giáo dục hiện đại, tích hợp là
một phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ
của các môn, các phân môn khác nhau theo những hình thức, mô hình cấp độ
khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ thể”[2]. Cùng
với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, coi người học là
trung tâm thì dạy học theo quan điểm tích hợp đang ngày càng trở thành xu thế
dạy học đem lại hiệu quả cao.
Tích hợp trong dạy học văn: Thời gian qua, việc tích hợp trong giờ học
Ngữ văn được thực hiện khá hiệu quả với nhiều nội dung và hình thức tích hợp.
Giáo viên đã gắn bài học với đời sống xã hội như giáo dục bảo vệ môi trường,
giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ di tích lịch sử danh lam thắng cảnh, kĩ năng
sống...Việc tích hợp đã đem đến cho giờ học không khí sôi nổi, hào hứng, mang
tính thực tiễn cao hơn. Cũng vì vậy mà số học sinh có hứng thú với bộ môn cũng
tăng hơn.
2.1.2. Tích hợp giáo dục nội dung biển đảo trong giờ dạy- học Ngữ
văn 6
Tiếp cận vấn đề về biển - đảo quê hương:

Theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước ta
có “diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm
gần 30% diện tích Biển Đông”[8]. “Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo
lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, có vị trí đặc biệt quan
trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông đất nước;
một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc
quốc gia trên biển”[11]. Thế nhưng khi nói đến toàn vẹn lãnh thổ, rất nhiều
người vẫn đơn giản nghĩ tới vùng đất liền chứ rất ít chú ý đến vùng biển đảo. Sự
thiếu sót trong suy nghĩ và nhận thức này bắt nguồn từ việc những nội dung về
biển đảo ít được đề cập một cách bài bản nghiêm túc trong chương trình giáo
dục các cấp. Để khắc phục điều này, các giáo viên trong các nhà trường đã tích
hợp nội dung biển đảo Việt Nam vào các môn học trong đó có môn Ngữ văn.
Mục tiêu tích hợp giáo dục nội dung biển đảo:
Việc tích hợp nội dung biển đảo trong giờ học Ngữ văn sẽ giúp học sinh
nâng cao nhận thức về chủ quyền biển đảo, về thế mạnh, vị trí chiến lược của
biển đảo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các em còn
nắm được những cơ sở pháp lí về chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo
Hoàng Sa,Trường Sa; biết thêm về chủ trương đường lối của Đảng, nhà nước về
vấn đề biển đảo; hưởng ứng các phong trào, các cuộc vận động hướng về
Trường Sa, Hoàng Sa. Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của học sinh đối với
đất nước.
Nội dung vấn đề biển đảo Việt Nam tích hợp trong giờ dạy - học Ngữ văn:
Căn cứ vào những định hướng và các hướng dẫn nội dung tuyên truyền về
3


biển đảo Việt Nam của Đảng, Nhà nước ta; căn cứ vào nội dung chương trình
Ngữ văn 6 THCS, qua thực tế dạy học bản thân tôi thấy có thể tích hợp nhiều
nội dung khác nhau của vần đề biển đảo Việt Nam vào các tiết học phần văn
xuôi. Như:

+ Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, tiềm năng thế mạnh của biển đảo.
+ Tuyên truyền các chủ trương của Đảng, các văn bản pháp luật liên quan đến
biển đảo, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
+ Vẻ đẹp của biển đảo Việt Nam; Cuộc sống của con người nơi đảo xa…
2.1.3. Nguyên tắc tích hợp
Sau khi đã xác định được mục đích tích hợp, nội dung và địa chỉ tích hợp,
giáo viên cần có phương pháp dạy học phù hợp. Để có những giờ dạy theo quan
điểm tích hợp đạt kết quả cao, theo tôi:
- Giáo viên phải thấm nhuần quan điểm tích hợp, có cái nhìn tổng thể về mục
tiêu chương trình Sách giáo khoa, phương pháp dạy bộ môn.
- Sử dụng nội dung phù hợp và căn cứ vào kiến thức chuẩn môn Ngữ văn 6.
- Khai thác nội dung chọn lọc, không tràn lan, phù hợp với từng bài, từng phần.
- Phát huy tính tích cực của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề
Trước khi thực hiện đề tài này tôi đã làm một cuộc khảo sát đối với học
sinh khối lớp 6 năm học 2016 - 2017 ở trường THCS Thiệu Thành, Thiệu Hóa.
Nội dung khảo sát tập trung vào những kiến thức liên quan đến những hiểu biết
cơ bản về biển đảo, về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Kết
quả bài làm của học sinh như sau:
Lớp
6A
6B

Sĩ số
31
28

Giỏi
SL
4

3

%
12.9
10.7

Khá
SL
6
4

%
19.4
14.3

Trung bình
SL
%
15
48.4
14
50.0

Yếu- kém
SL
%
6
19.4
7
25.0


Theo kết quả khảo sát thì số học sinh có hiểu biết về biển đảo nói chung,
tình hình hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, tên các đảo, quần đảo lớn ở Việt
Nam nói riêng và thể hiện tốt trong bài viết không nhiều. Số còn lại không biết
hoặc biết rất lơ mơ. Trong số các em đã biết thì cũng chỉ dừng lại sự hiểu biết
chung chung mà chưa hiểu thế nào là chủ quyền về biển đảo, vị trí và vai trò
của biển đảo Việt Nam ra sao. Vậy nguyên nhân do đâu?
Thời gian qua, cùng với quá trình tuyên truyền rộng rãi về chủ quyền biển
đảo và những tin tức luôn được cập nhật trên các bản tin thời sự thì giáo viên
Ngữ văn nói riêng và các bộ môn khác nói chung trong nhà trường đã đưa nội
dung này vào bài dạy của mình. Riêng bộ môn Ngữ văn cũng có nhiều kinh
nghiệm hay được phổ biến. Nhưng các kinh nghiệm chưa đi sâu vào từng khối
lớp, chưa trải rộng tới từng phân môn nên chưa có sức lan tỏa.
Trên tinh thần quán triệt công văn số 633/KH- SGDĐT của Sở Giáo dục
và Đào tạo Thanh Hóa về “Kế hoạch công tác tuyên truyền biển, đảo năm
2016”[12] Ban giám hiệu và các tổ chuyên môn trường THCS Thiệu Thành,
Thiệu Hóa cũng đã thường xuyên nhắc nhở cán bộ giáo viên nâng cao trách
4


nhiệm của mình trong công tác tuyên truyền giáo dục về biển đảo cho học sinh.
Tuy nhiên các tổ chuyên môn cũng mới chỉ dừng lại ở việc gợi ý và
khuyến khích cán bộ giáo viên thực hiện mà chưa có hướng dẫn cụ thể. Một số
giáo viên chỉ có ý đối phó khi được kiểm tra nên chưa có sự đầu tư, nghiên cứu.
Đối với môn Ngữ văn do số lượng bài đề cập đến nội dung biển đảo có nhưng ít,
lại sợ dạy không hết bài nên giáo viên cũng chưa thực sự chú trọng. Một số
khác tích hợp chỉ mang tính ngẫu hứng và tự phát. Nội dung tích hợp chưa
phong phú, chưa mang tính hệ thống liên tục. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến
sự hiểu biết về biển đảo của các em bị hạn chế.
Một nguyên nhân nữa là học sinh lớp 6 chưa chủ động cập nhật các vấn

đề thời sự, kĩ năng tư duy còn yếu, chưa có thói quen tìm hiểu kiến thức ngoài
môn học.Trong khi đó những kiến thức này các em đã được cập nhật ở Tiểu học
nhưng chưa sâu, lên lớp 8, lớp 9 các em mới được tiếp cận bài bản ở môn Địa lí.
Đây là nguyên nhân khiến các em không lí giải được biển có tiềm năng thế
mạnh gì, nguồn lợi kinh tế ra sao, có vị trí vai trò gì? Vậy vấn đề cơ bản mà các
em còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng đắn thì hậu quả sẽ ra sao khi các em sẽ là
những chủ nhân xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tương lai? Câu hỏi đó tôi luôn
đặt ra khi đứng trước thực trạng hiểu biết về biển đảo của học sinh lớp 6 trong
trường. Tôi thiết nghĩ cần phải có biện pháp thiết thực, gần gũi phù hợp với các
em. Và một trong các biện pháp đó là giáo dục về biển đảo cho học sinh bằng
cách tích hợp trong giờ dạy - học tác phẩm văn xuôi ở môn Ngữ văn lớp 6. Vậy
tích hợp như thế nào vấn đề này đối với học sinh lớp 6? Đề tài của tôi sẽ là một
gợi ý nhỏ.
2.3. Giải pháp, cách thức thực hiện
2.3.1. Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở
nhà
Để học sinh lĩnh hội tốt kiến thức biển đảo, trước hết tôi hướng dẫn học
sinh chuẩn bị chu đáo ở nhà. Khi đã xác định được kiến thức trọng tâm bài học,
tôi đã định hướng mở rộng liên hệ tích hợp về kiến thức biển đảo để các em
nhận thức được đây là vấn đề quan trọng cần phải biết và từ đó có cách ứng xử,
thái độ đúng đắn. Những yêu cầu đối với học sinh là:
- Đọc kĩ tác phẩm.
- Nghiên cứu địa chỉ tích hợp.
- Tìm nội dung tích hợp phù hợp.
- Sưu tầm các tài liệu, hình ảnh về biển đảo có liên quan đến nội dung
bài học.
Trước đó, tôi đã nêu câu hỏi vào cuối tiết học để các em về nhà tìm hiểu
trước qua sách báo truyền hình, qua ông bà, cha mẹ…
Ví dụ 1: Dạy bài Sông nước Cà Mau ( Bài 18, tiết 77. Ngữ văn 6 tập 2).
GV gợi dẫn để học sinh tìm hiểu và nhớ lại những kiến thức đã biết về địa

lí Việt Nam liên quan đến vùng đất Cà Mau như: “Cà Mau là vùng đất cuối cùng
cực Nam Tổ quốc, với 2 mặt giáp Biển Đông và Vịnh Thái Lan, có tiềm năng
lớn về du lịch biển, đảo. Nơi đây có cột mốc toạ độ quốc gia Mũi Cà Mau là một
địa điểm có ý nghĩa thiêng liêng của bất cứ người dân Việt Nam nào”[8].
Bên cạnh đó GV cho các em sưu tầm một số hình ảnh về vùng đất và con
5


người Cà Mau; Tìm hiểu về kiểu rừng ngập mặn, về cây đước, về khái niệm cửa
biển.
Từ đó giúp các em có cái nhìn bao quát hơn về vùng đất cuối cùng cực
Nam Tổ quốc, hình thành ý thức bảo vệ chủ quyền, bảo vệ giá trị của các vùng
biển cũng như hiểu hơn về hệ sinh thái biển.
Ví dụ 2: Dạy bài: Cô Tô (Bài 25, tiết 103-104. Ngữ văn 6, tập 2).
GV yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà theo gợi ý: Xem bản đồ nước ta và
trao đổi với người thân về chủ đề biển đảo của Tổ quốc.
? Hãy cho biết, biển và đảo có vai trò gì về kinh tế và giao thông biển, an ninh quốc phòng?
? Là học sinh, em có thể làm gì để góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng
liêng của Tổ quốc?[9].
Tìm thêm các tư liệu nói về quần đảo cô Tô để hiểu thêm về vùng biển này.
Nội dung biển đảo tích hợp rất phong phú, có thể tích hợp trong từng thời
điểm (tích hợp ngang), từng vấn đề hoặc tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng
những kiến thức liên quan ở các bộ môn khác để lí giải rõ một số chi tiết, hình
ảnh nghệ thuật… Điều quan trọng giáo viên phải thực sự linh hoạt, phải nghiên
cứu kĩ nội dung cần tích hợp, tích hợp với môn nào để có định hướng chuẩn bị
kiến thức phù hợp. Với các đơn vị kiến thức các em đã biết, giáo viên yêu cầu
các em nhớ lại nhằm củng cố ôn tập, so sánh đối chiếu, đồng thời rèn cho học
sinh ý thức và kĩ năng vận dụng. Còn các đơn vị kiến thức sẽ hình thành, giáo
viên gợi mở, yêu cầu các em tìm sự hỗ trợ của phụ huynh, các nguồn khác để
khơi gợi sự ham hiểu biết, muốn khám phá ở học sinh.

2.3.2. Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh học trên lớp.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy có một số văn bản có thể tích hợp
nội dung liên quan đến biển đảo khá hay và dễ như: Con Rồng cháu Tiên, Sông
nước Cà Mau, Cô Tô. Ta có thể thực hiện tích hợp theo nhiều cách thức. Lựa
chọn cách thức nào là tùy thuộc vào nội dung cụ thể từng phần, từng văn bản.
Giáo viên có thể thông qua việc kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài, tìm hiểu về tác
phẩm, tổng kết - luyện tập để cung cấp thêm kiến thức về biển đảo, đồng thời
giáo dục cho các em tình yêu vẻ đẹp và sự giàu có của biển đảo quê hương;
những công việc và con người lao động miền biển; thấy được vẻ đẹp trong cuộc
sống và tâm hồn của họ cũng như những giá trị kinh tế mà biển đem lại cho con
người.
Khi thực hiện đòi hỏi người dạy phải khéo léo để không làm ảnh hưởng
đến nội dung của bài, đặc trưng thể loại. Cách thức tích hợp chủ yếu là liên hệ
mở rộng hoặc tiến hành phát vấn - đàm thoại, thảo luận, tranh luận. Thời gian
ngắn.Vì đây là tiết dạy văn bản nên nội dung khá nhiều và tương đối khó. Muốn
việc tích hợp có hiệu quả cả giáo viên và học sinh đều phải có tâm thế chủ động.
Tôi hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
Bước 1: Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ:
Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy
học một bài cụ thể. Mục đích là kiểm tra việc học bài ở nhà cũng như mức độ
hiểu bài của học sinh. Ngoài ra nó cũng có tính chất kết nối giữa các bài đã học
và bài đang học. Thông thường giáo viên sẽ kiểm tra những kiến thức liên quan
6


đến nội dung ở bài học trước đó. Thành thử tiết học rất nặng nề, đôi khi tạo áp
lực cho học sinh. Việc làm mới hoạt động này là rất cần thiết đối với những bài
có liên quan đến vấn đề biển đảo. Bởi những kiến thức liên quan đến biển đảo
các em tiếp nhận trong thực tế cuộc sống và sẽ không khó để các em có thể trả
lời khi gắn vào bài học.

Ví dụ: Dạy bài: Cô Tô (Bài 25, tiết 103-104. Ngữ văn 6, tập 2).
GV có thể kiểm tra bài cũ của học sinh thông qua hệ thống câu hỏi sau:
? Trong chương trình ngữ văn 6, chúng ta đã học một văn bản viết về một vùng
đất phương Nam của tổ quốc. Đó là văn bản nào? Em hãy giới thiệu đôi nét về
vùng đất đó? Nêu cảm nghĩ của em?
Bước 2: Tích hợp thông qua phần giới thiệu bài:
Giới thiệu bài là thao tác nhỏ, chiếm lượng thời gian không đáng kể trong
tiết dạy nhưng lại có ý nghĩa khá lớn trong việc chuẩn bị hứng thú cho học sinh
khi bắt đầu bài học. Giáo viên có thể vận dụng thao tác này để tích hợp. Để làm
tốt điều này tôi hướng dẫn các em như sau:
- Cho học sinh xem tranh ảnh về các vùng biển nước ta, cuộc sống của
quân và dân trên các vùng đảo. Yêu cầu các em nêu suy nghĩ của mình sau khi
xem tranh.
- Chỉ cho các em giới hạn vị trí của vùng biển Việt Nam, hình ảnh hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các đảo lớn khác và nêu vị trí quan
trọng của chúng cũng như của biển Đông với kinh tế, giao thương trên thế giới.
- Cung cấp các kiến thức về biển đảo khác có liên quan đến bài học.
Căn cứ vào nội dung kiến thức cụ thể của từng văn bản để gợi dẫn và liên
hệ tới những nội dung biển đảo gần gũi phù hợp. Giáo viên có thể giới thiệu
bằng lời giảng hoặc sử dụng tranh ảnh, lược đồ để cung cấp thêm kiến thức. Các
kiến thức này đều thuộc lĩnh vực môn Địa lí nên cần có sự tìm hiểu và chuẩn bị
chu đáo. Trong quá trình thực hiện sáng kiến tôi đã tích hợp nội dung biển đảo ở
phần giới thiệu bài và thấy học sinh hứng thú, có tâm thế hứng khởi khi bắt đầu
bài mới.
Ví dụ: Dạy bài: Cô Tô (Bài 25, tiết 103-104. Ngữ văn 6, tập 2). GV hỏi:
? Em biết gì về vùng đảo Cô Tô?
Sau khi học sinh trả lời, GV vừa cho học sinh xem một số hình ảnh về
cảnh và cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đảo Cô Tô vừa giới thiệu thêm:
“Cô Tô là một quần đảo có nhiều đảo lớn nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long
(thuộc vịnh Bắc Bộ), cách bờ biển Quảng Ninh 100km. Biển Cô Tô rất đẹp và

giàu tài nguyên”[3]. -> Giúp HS thêm yêu cảnh sắc đất nước, thêm yêu bà con
làng chài trên miền đảo xa, được biết thêm nét đẹp trong cuộc sống sinh hoạt
của người dân vùng đảo.
Bước 3: Tích hợp thông qua câu hỏi tìm hiểu bài kết hợp giảng, bình:
Trong hoạt động dạy học Ngữ văn, hình thức hỏi - đáp đóng vai trò rất
quan trọng, thể hiện tính tích cực chủ động của người học cũng như vai trò của
giáo viên. Nếu lồng ghép tích hợp nội dung biển đảo thông qua hệ thống câu hỏi
thì hiệu quả tích hợp sẽ được nâng cao. Ta có thể gắn một chi tiết, một hình ảnh
hoặc một hình tượng, hoàn cảnh sáng tác… của tác phẩm để tích hợp. Hoặc
trong quá trình phân tích có thể liên hệ, mở rộng, giảng bình thêm. Thực tế dạy
7


học, do đối tượng học sinh, do kiến thức của bài nhiều và đôi khi là chủ quan
của giáo viên mà tiết giảng văn thiếu đi lời bình. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc giờ giảng văn mà thiếu chất văn. Cho nên, để giờ dạy học văn bản thêm
sinh động tôi đã thường xuyên đưa thêm lời bình. Không chỉ thu hẹp trong phạm
vi kiến thức môn học, tôi muốn thông qua những lời bình để mở rộng kiến thức
cho học sinh và tôi đã lồng thêm kiến thức về biển đảo.
Ví dụ1: Dạy bài: Con Rồng cháu Tiên (Bài 1, tiết 1.Ngữ văn 6 tập 1).
Sau khi hỏi về nguồn gốc của Lạc Long Quân, giáo viên kết luận:
Những lời mở đầu câu chuyện vừa gợi không khí huyền thoại với những
chi tiết kì ảo về gốc tích hình dạng nhân vật Lạc Long Quân vừa mở ra không
gian sống cội nguồn của người Việt cổ - không gian nước nôi biển cả. Từng sống
gắn bó với biển từ thuở sơ khai, biển đã đi sâu vào tâm thức người Việt, in dấu
đậm nét trong lời kể mở đầu truyền thuyết như một không gian khởi sinh quen
thuộc, gần gũi của nhân vật chính. Phải chăng từ thời rất xa xưa ấy, “nước nôi”
đã có ý nghĩa chỉ hình tượng cái “nôi” thủy sinh của thủy tổ tộc Việt: biển
Đông? Gốc tích Rồng biển cũng làm nên nét riêng biệt độc đáo của hình tượng
thủy tổ người Việt[4].

Khi phân tích chi tiết “Cuộc chia tay, chia con” giáo viên hỏi: Vậy thông
điệp mà người xưa muốn gửi gắm qua câu câu nói của Lạc Long Quân là gì?
Thông điệp mà truyền thuyết muốn gửi qua câu nói của Lạc Long Quân là
ý nguyện đoàn kết, thống nhất của người Việt ở mọi miền đất nước. Nhưng sâu
xa hơn, từ thuở sơ khai người Việt đã có ý niệm sâu sắc về chủ quyền lãnh thổ,
lãnh hải, những không gian sinh tụ cội nguồn[4] .
GV cần làm rõ chủ quyền ở đây là chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ bao gồm
vùng đất, vùng trời, vùng biển của đất nước chúng ta, từ đó các em mới hiểu
được thế nào là chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giúp các em có cách ứng xử trong
thực tế về bảo vệ chủ quyền.
Ví dụ 2: Dạy bài: Sông nước Cà Mau (Bài 18, tiết 77. Ngữ văn 6 tập 2).
Khi phân tích hình ảnh rừng đước, GV hỏi: Em biết gì về cây đước?
Cho HS quan sát hình ảnh cây đước, rừng đước và nhấn mạnh: Rừng
đước là biểu tượng cho vẻ đẹp hoang dã, sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ của Cà
Mau. Đây cũng là “kiểu rừng ngập mặn thường gặp ven biển”[8]... “Màu xanh
của đước là vẻ đẹp là sức sống của Cà Mau. Giữa màu xanh bao la là tiếng rì rào
của sóng biển Đông”[7].
GV giới thiệu thêm: Đất Mũi được nhắc đến như một vùng đất thiêng
liêng trong tâm thức người Việt Nam và trong đời, ai cũng ước một lần được
đến. Khi đến với Cà Mau, ta sẽ được thăm cột mốc toạ độ quốc gia, ngắm rừng,
ngắm biển, chiêm ngưỡng ráng chiều ẩn hiện trên vùng trời biển bao la. Nơi đây
có hệ sinh thái rừng ngập mặn rất đa dạng và phong phú[11]… Qua đó định
hướng, hình thành ý thức bảo vệ giá trị của các hệ sinh thái biển và lòng tự hào
về vẻ đẹp của quê hương đất nước.
Ví dụ 3: Dạy bài: Cô Tô (Bài 25 tiết 103-104. Ngữ văn 6, tập 2).
Ở đoạn phân tích cảnh mặt trời mọc GV hỏi:
? Em đã bao giờ ngắm cảnh mặt trời mọc trên biển chưa? Tình cảm của em đối
với vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc như thế nào?
8



GV cho HS quan sát cảnh bình minh trên biển ->Yêu mến, trân trọng, gắn bó
với vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc.
Bước 4: Tích hợp thông qua tiểu kết từng phần và phần tổng kết:
Đây là hình thức tích hợp thông qua lời thuyết giảng vừa có ý nghĩa khái
quát vấn đề vừa có ý nghĩa chuyển tiếp. Ta có thể tích hợp dưới dạng liên hệ so
sánh, đối chiếu. Ở đây tôi đã lồng kiến thức về biển đảo vào phần tiểu kết và
tổng kết đối với các văn bản có nội dung liên quan. Làm như vậy không chỉ giúp
các em nắm chắc bài học mà còn củng cố, mở rộng thêm kiến thức.
Ví dụ 1: Dạy bài: Con Rồng cháu Tiên (Bài 1, tiết 1.Ngữ văn 6 tập 1).
GV củng cố bài: Lung linh, kì vĩ hiện cùng sóng nước biển Đông, hình
tượng truyền thuyết cha Lạc Long Quân từ lâu đã in đậm trong tâm thức mỗi
người Việt như một biểu tượng vô cùng linh thiêng, cao quý về cội nguồn, giống
nòi… Từ câu chuyện kì ảo, đầy ắp chất thơ kể về buổi đầu cha Rồng Lạc Long
Quân và mẹ Tiên Âu Cơ mở nước, ta có thể tìm thấy ngọn nguồn cội rễ một nét
bản sắc văn hóa vẫn dạt dào, thấm đẫm trong tâm thức dân tộc Việt từ bao đời
nay[4].
Ví dụ 2: Dạy bài: Cô Tô (Bài 25 tiết 103-104. Ngữ văn 6, tập 2).
Phân tích đoạn 2 GV tiểu kết: Nếu ở đoạn thứ nhất, màu xanh nước biển
là trung tâm của mọi so sánh, như hải đảo Cô Tô giữa biển trời vịnh Bắc Bộ, nơi
sóng bể tràn vào rồi lại lan rộng ra xa, thành những vòng sóng thì ở đoạn hai,
mỗi so sánh lại tạo thành những con sóng nối tiếp, tạo thành nhịp sóng, nơi
những người chài lưới Cô Tô vượt sóng ra khơi. Đó là vẻ đẹp trong sáng, kĩ vĩ
của Cô Tô[6].
-> Giáo dục lòng yêu biển quê hương
Sau khi phân tích cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi
sáng:
GV bình: Cảnh đám đông xúm xít quanh một cái giếng nước ngọt; cảnh
đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi và những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng
xuống thuyền. Ở ngoài đảo thì mọi sinh hoạt thường ngày hầu như đều tập trung

quanh cái giếng nước ngọt ấy, do đó “cái giếng là cả một xã hội thu nhỏ, đứng từ
cái giếng có thể quan sát, có thể nghe được toàn bộ cảnh cuộc sống, hơi thở của
cuộc sống nơi đây”[6].
-> GV liên hệ và giới thiệu thêm về cuộc sống của con người trên các các
miền đảo xa, gợi dẫn đến cuộc sống của các chiến sĩ ở Hoàng Sa, Trường Sa qua
hệ thống tranh ảnh.
Khi khái quát phần ghi nhớ GV hỏi đề củng cố: Cảm nghĩ của em đối với
đảo Cô Tô nói riêng và với biển đảo Việt Nam nói chung như thế nào?
Yêu mến tự hào vì Việt Nam có biển đảo đẹp, có ý thức bảo vệ môi
trường và chủ quyền biển đảo.
Bước 5: Tích hợp thông qua phần luyện tập.
Đây là điều kiện thuận lợi nhất để giáo viên tiến hành tích hợp nội dung
biển đảo sau khi học xong một tiết, một bài, giúp học sinh nắm chắc kiến thức
này để vận dụng trong việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Nếu trên lớp
không có thời gian thì yêu cầu các em về nhà tiếp tục làm hoàn chỉnh.
Ở phần luyện tập giáo viên nên có những gợi ý và các bài tập phù hợp
9


nhằm giúp học sinh củng cố bài học đồng thời bổ sung kiến thức về biển đảo
cũng như phát huy những năng khiếu về âm nhạc, hội họa... Ngoài ra các em
phải thấy được trách nhiệm của mình đối với biển đảo quê hương.
Ví dụ 1: Dạy bài Con Rồng cháu Tiên (Bài 1, tiết 1.Ngữ văn 6 tập 1).
GV ra bài tập: Bố là Rồng nơi miền biển, mẹ là Tiên ở nơi núi cao. Nguồn gốc
xuất thân của hai nhân vật này có liên quan gì đến đặc điểm địa lí của nước ta?
[4].
Ví dụ 2: Dạy bài Cô Tô (Bài 25, tiết 103-104. Ngữ văn 6, tập 2).
Bước 1: GV treo bản đồ nước ta.
Bước 2: Tiến hành phát vấn, đồng thời cung cấp các kiến thức mà các em
chưa biết.

? Ở Việt Nam, ngoài quần đảo Cô Tô em còn biết thêm những đảo, quần đảo
nào nữa?
GV gợi dẫn đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đảo Bạch Long Vĩ,
đảo Phú Quốc, đảo Côn Sơn … GV giới thiệu, chỉ rõ “vùng biển của nước ta là
một bộ phận của Biển Đông và thuộc đại dương Thái Bình Dương”[8]. Từ đó
cho các em quan sát thấy “nước ta có chung biển với nhiều nước ở khu vực và
biển nước ta có vị trí rất quan trọng trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và thế
giới nói chung”[11]. Khi cho HS quan sát lược đồ cần nhấn mạnh “hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam đã được quốc tế công
nhận”[8] để các em thấy vai trò và giá trị của biển đảo nước ta.
? Hãy cho biết biển và đảo có vai trò gì về kinh tế và giao thông biển, an ninh
quốc phòng?
? Quần đảo nào của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm, và họ
chiếm vào năm nào?
? Trung Quốc chiếm đoạt như vậy có đúng luật biển năm 1982 không? Vì sao?
? Qua những điều vừa được biết em thấy mình cần phải làm gì để phát triển và
bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc?
GV kể thêm những mẩu chuyện về chủ quyền và cuộc đấu tranh bảo vệ
biển, đảo Tổ quốc. Nên cho HS biết thêm về Hải đội Hoàng Sa, Hải quân nhà
Nguyễn; Trận hải chiến đầu tiên của Hải quân Việt Nam (1964); Trường Sa khúc bi tráng 14/3; Mắt thần trên Biển Đông… để học sinh thấy được cha ông
ta đã phải cố gắng và hy sinh rất nhiều để bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Bài tập về nhà:
GV yêu cầu học sinh viết một đoạn văn nêu cảm nhận của mình về một
thắng cảnh vùng biển và đề xuất bài học của bản thân trong việc bảo vệ, giữ
gìn, phát huy ý nghĩa tốt đẹp của thắng cảnh.
Hoặc GV giới thiệu thêm vẻ đẹp của biển Việt Nam qua một số hình ảnh
và các đoạn văn tiêu biểu .
Ví dụ: Thiên nhiên Hạ Long chẳng những kì vĩ mà còn duyên dáng. Nét
duyên dáng của Hạ Long chính là cái tươi mát của sóng nước, cái rạng rỡ của
đất trời. Sóng nước Hạ Long quanh năm trong xanh. Đất trời Hạ Long bốn mùa

sáng nắng. Bốn mùa Hạ Long mang trên mình một màu xanh đằm thắm: xanh
biếc của biển, xanh lam của núi, xanh lục của trời. Màu xanh ấy như trường cửu,
lúc nào cũng bát ngát, cũng trẻ trung, cũng phơi phới. Núi non, sóng nước tươi
10


đẹp của Hạ Long là một bộ phận của non sông Việt Nam gấm vóc mà nhân dân
ta đời nọ tiếp đời kia mãi mãi giữ gìn[5].
2.3.3. Tích hợp thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Do điều kiện thời gian nên giáo viên không thể truyền tải tất cả các vấn đề
liên quan đến bài học trong một tiết học. Do đó có những kiến thức sẽ được
củng cố thêm ở các hoạt động khác như hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trong quá
trình thực hiện đề tài, ở các hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi đã phối hợp với
Đoàn - Đội để triển khai kế hoạch.
Trước một tác phẩm văn xuôi, mỗi học sinh sẽ có cách tiếp cận riêng theo
cảm xúc, quan điểm, nhận thức của bản thân. Tuy nhiên để chiếm lĩnh và khám
phá được hết các lớp nghĩa của văn bản không phải là điều dễ với đối tượng học
sinh lớp 6. Hơn nữa, hầu như phần văn bản được học trong sách giáo khoa chỉ là
một đoạn trích. Nhằm giúp học sinh có cái nhìn bao quát tác phẩm được học tôi
đã cho các em tiếp cận toàn văn bản. Chẳng hạn, văn bản“Sông nước Cà Mau”
là một đoạn trích từ truyện “ Đất rừng Phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi
hay văn bản “Cô Tô” trích từ tùy bút“Cô Tô” của nhà văn Nguyên Tuân nên tôi
sẽ đọc cho các em nghe toàn tác phẩm. Ngoài ra, tác phẩm “Đất rừng phương
Nam” đã được dựng thành phim nên tôi cũng cho các em xem. Trong quá trình
tương tác với học sinh ở buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi luôn lồng ghép nội
dung biển đảo trong giới hạn cho phép. Bên cạnh đó tôi còn cung cấp thêm các
tư liệu khác liên quan đến biển đảo, chủ quyền biển đảo để các em có cái nhìn
toàn diện hơn. Sau đó tôi sẽ đưa ra một số yêu cầu để khắc sâu kiến thức trước
khi kết thúc.
Ví dụ 1: Khi xem xong bộ phim “Đất phương Nam”. GV hỏi:

? Em có cảm nhận gì về Cà Mau - vùng đất cực nam của Tổ quốc.?
? Cảnh rừng U Minh qua lời văn của tác giả Đoàn Giỏi và qua phim gợi cho em
suy nghĩ gì? Liên hệ trách nhiệm của học sinh trong việc bảo vệ rừng nói chung
và rừng ngập mặn ven biển nói riêng.
Ví dụ 2: Sau khi học sinh nghe xong toàn văn bài kí “Cô Tô”. GV hỏi:
? Với tư cách là người chủ tương lai của đất nước, với tình yêu biển đảo, em sẽ
làm gì cho biển đảo quê hương ?
Yêu cầu học sinh vẽ một bức tranh về cảnh bình minh trên biển.
Thông qua hoạt động này các em có điều kiện mở rộng hiểu biết qua các
câu chuyện, các bộ phim liên quan đến biển đảo của quê hương. Các em sẽ được
thể hiện thái độ tình cảm của mình qua những việc làm cụ thể nhất như vẽ tranh
về biển đảo, viết những suy nghĩ cảm xúc sau khi xem xong một bộ phim hay
nghe truyện… Như vậy học sinh một lần nữa được tiếp cận với các thông tin về
biển đảo, được trải nghiệm thực tiễn và sẽ hình thành được các kĩ năng sống, kĩ
năng nhận định một vấn đề. Hơn thế nữa các em biết được trách nhiệm của mình
là muốn bảo vệ biển đảo của đất nước trước hết phải biết, phải hiểu rõ về nó sau
đó là thể hiện tình yêu quê hương đất nước, yêu từng tấc đất, từng hòn đảo ngoài
khơi xa.
2.3.4. Giáo án thực nghiệm.
Do phạm vi đề tài nghiên cứu rộng, bản thân dự định sẽ nghiên cứu sâu
hơn ở những năm tiếp theo nên tôi xin đưa một giáo án thực nghiệm như sau:
11


Tiết 103-104: Văn bản:
CÔ TÔ
A. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Cảm nhận được vẻ đẹp trong sáng, sinh động của bức tranh thiên nhiên ở vùng
đảo Cô Tô sau trận bão được miêu tả trong bài văn[1].

2. Kĩ năng:
- Đọc diễn cảm văn bản.
- Đọc - hiểu văn bản kí có yếu tố miêu tả[1].
3. Thái độ:
- Giáo dục học sinh tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam[1].
B. Chuẩn bị:
1. GV: Ảnh chân dung nhà văn Nguyễn Tuân; Lược đồ về biển Việt Nam. Tranh
ảnh về cuộc sống của quân và dân trên các đảo…; Máy chiếu.
2. HS: Đọc và soạn bài theo câu hỏi SGK, tham khảo thêm kiến thức về Quần
đảo Cô Tô.
C. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học:
HĐ1: Khởi động:
1. Ổn định lớp, kiểm tra bài cũ:
Tích hợp nội dung biển đảo: ? Trong chương trình ngữ văn 6, chúng ta đã học
một văn bản viết về vùng đất phương Nam của tổ quốc. Đó là văn bản nào? Em
hãy giới thiệu ngắn gọn về vùng đất đó? Nêu cảm nghĩ của em?
2. Bài mới:
Tích hợp nội dung biển đảo: ? Em biết gì về quần đảo Cô Tô?
GV chiếu hình ảnh Cô Tô phóng to. GV vừa chỉ lược đồ vừa giới thiệu:
Cô Tô là một quần đảo gồm nhiều đảo lớn nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long
(thuộc vịnh Bắc Bộ), cách bờ biển Quảng Ninh 100km. Biển Cô Tô rất giàu tài
nguyên. Nhưng cảnh sắc và con người nơi đây như thế nào, chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu…
Hoạt động của thầy và trò
HĐ2: Hướng dẫn tìm hiểu chung:
- HS: Đọc chú thích * SGK
? Em hiểu gì về tác giả Nguyễn Tuân?
- GV treo ảnh chân dung Nguyễn Tuân; giới
thiệu thêm về tác giả.
- Là một nghệ sĩ giàu lòng yêu nước, rất mực

tài hoa; Am hiểu nhiều ngành nghệ thuật khác
nhau như hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm
nhạc, sân khấu...
- Ông đã để lại một sự nhiệp VH phong phú
với những trang viết độc đáo và tài hoa. Ông
xứng đáng được coi là một nghệ sĩ lớn, một
nhà văn hóa lớn.
? Em hãy nêu hiểu biết của em về tác phẩm?
- GV giới thiệu thêm về đoạn trích: đoạn kí

Nội dung cần đạt
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả: (1910-1987)
- Quê ở Hà Nội
- Có sở trường về tùy bút và thể


2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ:
12


trích trong bút kí cùng tên ghi lại những cảnh
sắc thiên nhiên tuyệt mĩ và hình ảnh con
người lao động đáng yêu.
GV: Nêu yêu cầu HS đọc. Giọng vui tươi, hồ
hởi. Đọc mẫu, gọi HS đọc.
GV: Yêu cầu HS giải thích chú thích 1,4,6,7,8.
? Văn bản thuộc thể loại gì?
GV: VB là bài kí đầu tiên trong cụm bài kí

hiện đại (Cô Tô; Lao xao; Cây tre Việt Nam;
Lòng yêu nước). Giới thiệu qua về thể kí.
? Văn bản trên tả cảnh gì? Văn bản được tả
theo trình tự nào?? Dựa vào trình tự trên, em
hãy tìm bố cục văn bản?

HĐ3: HD HS tìm hiểu văn bản.
? Vẻ đẹp của đảo Cô Tô được miêu tả với
không gian và thời gian nào?
? Vẻ đẹp trong trẻo, sáng sủa của Cô Tô được
tác giả miêu tả thông qua những chi tiết nào?
? Những hình ảnh ấy gợi lên với màu sắc như
thế nào? Nhận xét về từ ngữ được sử dụng (từ
loại? Tác dụng?).
-> Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi
trong buổi sáng đẹp trời, biển Cô Tô được rửa
sạch, được tái tạo để hóa thành một cảnh sắc
trong sáng tuyệt vời.
? Để tả được cảnh đẹp ấy tác giả đã chọn vị trí
quan sát như thế nào? Vị trí quan sát đó có lợi
gì?
? Tác giả có cảm xúc gì khi ngắm đảo Cô Tô?
(Càng thấy yêu mến hòn đảo như bất kì người
dân chài nào -> đoạn văn dạt dào cảm xúc gắn
bó, yêu thương của tác giả với Cô Tô)
? Qua miêu tả cảnh đảo sau cơn bão, em có
nhận xét gì về cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam
quanh ta?
GV: Khi cơn bão đi qua bất kì một vùng nào
thường gây ra sự tàn phá và đổ vỡ nhưng đảo


b. Đọc và tìm hiểu chú thích
c. Thể loại: Bút kí

d. Bố cục: 3 phần
+ Đ1: Từ đầu ->ở đây: Cảnh Cô
Tô sau khi trận bão đi qua.
+ Đ2: Tiếp ->nhịp cánh: Cảnh
mặt trời mọc trên biển.
+ Đ3: Đoạn còn lại: Cảnh sinh
hoạt trên đảo.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Vẻ đẹp đảo Cô Tô sau trận
bão
+ Thời gian: Sau cơn bão
+ Không gian: Trong trẻo, sáng
sủa -> cao, rộng, thoáng đãng
+ Cảnh vật:
- Cây cối: Xanh mượt
- Nước biển: Lam biếc, đậm đà.
- Cát: Vàng giòn.
- Lưới: Thêm nặng mẻ cá.
-> Tính từ chỉ màu sắc, chính
xác, hình ảnh miêu tả đặc sắc ->
tài năng quan sát, chọn lọc từ
ngữ.
Vị trí quan sát -> Trèo lên nóc
đồn -> cao.
Quan sát rộng, bao quát toàn
cảnh.


-> Bức tranh phong cảnh biển
đảo Cô Tô tươi sáng, tinh khiết
mà phóng khoáng, lộng lẫy

13


Cô Tô khi cơn bão đi qua lại càng tươi ngời
hơn.
- HS đọc đoạn 2 từ: Mặt trời mọc lên -> là
nhịp cánh.
? Ngày thứ sáu trên đảo, tác giả có ý định gì?
? Tác giả chọn vị trí quan sát như thế nào?
? “ Rình” là hành động như thế nào? Có thể
thay bằng từ nào? Tại sao tác giả không chọn
từ đó?
? Trước khi mặt trời mọc, cảnh thiên nhiên trên
đảo được nhận xét như thế nào?
? Cảnh mặt trời mọc được miêu tả ra sao?

2. Cảnh mặt trời mọc trên
biển
Vị trí quan sát: -> Đứng đầu mũi
đảo sẽ nhìn rõ cảnh mặt trời từ từ
lên trên vùng đảo.

Chân trời, ngấn bể…hết bụi
- Bầu trời: Như chiếc mâm bạc.
- Mặt trời: Tròn trĩnh phúc hậu

như long đỏ quả trứng thiên
nhiên; hồng hào thăm thẳm và
? Tác giả sử dụng nghệ thuật gì? So sánh như đường bệ.
thế nhằm mục đích gì?
-> Hình ảnh so sánh giàu chất
Tích hợp nội dung biển đảo.
tạo hình và hài hòa màu sắc
GV tiểu kết: Nếu ở đoạn thứ nhất, màu xanh khiến mặt trời sáng rực lên vẻ
nước biển là trung tâm của mọi so sánh, như đẹp huyền ảo kì vĩ.
hải đảo Cô Tô giữa biển trời vịnh Bắc Bộ, nơi
sóng bể tràn vào rồi lại lan rộng ra xa, thành
những vòng sóng thì ở đoạn hai, mỗi so sánh
lại tạo thành những con sóng nối tiếp, tạo
thành nhịp sóng, nơi những người chài lưới
Cô Tô vượt sóng ra khơi. Đó là vẻ đẹp trong
sáng, kĩ vĩ của Cô Tô.  giáo dục lòng yêu
biển quê hương.
? Em có nhận xét gì về cách sử dụng từ ngữ ,
-> Liên tưởng độc đáo, từ ngữ
cách liên tưởng của tác giả?
? Theo em vẻ đẹp của mặt trời lên được đánh hình ảnh vừa trang trọng vừa
nên thơ tạo nên cảnh đẹp hùng
giá như thế nào?
vĩ, đường bệ, phồn thịnh và bất
Tích hợp nội dung biển đảo:
? Em đã bao giờ ngắm cảnh mặt trời mọc trên diệt.
biển chưa? Tình cảm của em đối với vẻ đẹp
của thiên nhiên Tổ quốc như thế nào?
( yêu mến, trân trọng, gắn bó với vẻ đẹp của
thiên nhiên Tổ quốc). GV cho HS xem một số

cảnh bình minh trên các vùng biển khác
nhau.
? Em biết có những bài văn bài thơ nào miêu tả
cảnh mặt trời mọc? So sánh với cảnh mặt trời
mọc trên đảo Cô Tô?
? Cảnh mặt trời mọc như một bức tranh em
hãy trình bày cảm nhận của em?
14


GV: Cảnh mặt trời mọc như một bức tranh có
không gian ba chiều: Mặt trời màu đỏ nằm
trong nền trời xanh in xuống biển màu nước
xanh, tạo thành một tấm gương lớn phản chiếu
cả một góc trời rộng lớn, tạo cảm giác hung vĩ
tráng lệ.
? Em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ của - Sử dụng ngôn ngữ chính xác,
tác giả?
độc đáo, rất riêng, có nhiều sáng
? Vì sao tác giả có thể miêu tả hay như vậy?
tạo.
->Tài quan sát, miêu tả, sử
dụng ngôn ngữ chính xác, tinh tế
của tác giả.
-HS đọc đoạn 3.
3. Cảnh sinh hoạt và lao động
? Miêu tả cảnh sinh hoạt trên đảo, tác giả tập
trên đảo.
trung tả hình ảnh nào?
- Anh hùng Châu Hòa Mãn gánh

nước ngọt ra thuyền.
- Chị Châu Hòa Mãn dịu dàng
địu con bên cái giếng nước ngọt.
? Quanh cái giếng trên đảo mọi việc diễn ra -> Như trong đất liền.
như thế nào? Cảnh đó được tác giả đánh giá ra
sao?
- Cảnh lao động, sinh hoạt vừa
? Quan sát bức tranh trong SGK và nêu cảm khẩn trương tấp nập, nhộn nhịp
nhận của em về cuộc sống trên đảo?
thanh bình.
? Hình ảnh anh hùng Châu Hòa Mãn gánh
nước ngọt ra thuyền, chị Châu Hòa Mãn dịu
dàng địu con bên cái giếng nước ngọt…gợi
cho em cảm nghĩ gì về cuộc sống con người
nơi đảo Cô Tô? (Thanh bình ấm êm).
Tích hợp nội dung biển đảo:
GV bình: Cảnh đám đông xúm xít quanh một
cái giếng nước ngọt; cảnh đoàn thuyền chuẩn
bị ra khơi và những người dân chài gánh nước
ngọt từ giếng xuống thuyền. Ở ngoài đảo thì
mọi sinh hoạt thường ngày hầu như đều tập
trung quanh cái giếng nước ngọt ấy, do đó
“cái giếng là cả một xã hội thu nhỏ, đứng từ
cái giếng có thể quan sát , có thể nghe được
toàn bộ cảnh cuộc sống, hơi thở của cuộc sống
nơi đây”.->GV liên hệ và giới thiệu thêm về
cuộc sống của con người trên các các miền
đảo xa, gợi dẫn đến cuộc sống của các chiến
sĩ ở Hoàng Sa, Trường Sa: Khi cuộc đối đầu
giữ con người và thần biển kết thúc, mặt biển

lại lặng sóng và thiên nhiên lại ban tặng
nguồn tài nguyên giàu có của nó.
15


HĐ4: Hướng dẫn học sinh tổng kết văn bản.
? Đoạn kí giúp em hiểu gì về thiên nhiên và
con người trên đảo Cô Tô?
Tích hợp nội dung biển đảo.
? Cảm nghĩ của em đối với đảo Cô Tô nói
riêng và với biển đảo Việt Nam nói chung như
thế nào? (Yêu mến tự hào vì Việt Nam có biển
đảo đẹp, có ý thức bảo vệ môi trường và chủ
quyền biển đảo).
? Em có nhận xét gì về cách quan sát và tả
cảnh của tác giả?
? Cách sử dụng từ ngữ có đặc điểm gì?

HĐ 5: Hướng dẫn học sinh luyện tập

III. Tổng kết.
1. Nội dung
- Bài văn viết về vẻ đẹp độc đáo
của thiên nhiên và cuộc sống con
người trên đảo Cô Tô
- Thể hiện tình yêu sâu sắc của
tác giả dành cho thiên nhiên,
cuộc sống.
2. Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm, giàu

màu sắc.
- So sánh táo bạo, bất ngờ, giàu
trí tưởng tượng.
- Lời văn giàu cảm xúc.
*Ghi nhớ : SGK
IV. Luyện tập.

Tích hợp nội dung biển đảo
Bước 1: GV treo bản đồ Việt Nam.
Bước 2: Tiến hành phát vấn, đồng thời cung cấp kiến thức mà các em
chưa biết.
? Ngoài quần đảo Cô Tô em còn biết thêm những đảo, quần đảo nào của nước
ta?
GV gợi dẫn đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Đảo Phú Quốc …
Cho các em thấy nước ta có chung biển với nhiều nước ở khu vực và biển nước
ta có vị trí rất quan trọng trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và thế giới nói
chung. GV cần nhấn mạnh hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam đã được quốc tế công nhận. Từ đó để học sinh thấy được vị
trí và giá trị của biển đảo nước ta.
? Hãy cho biết biển và đảo có vai trò gì về kinh tế và giao thông biển, an ninh
quốc phòng?
? Quần đảo nào của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm, và họ
chiếm vào năm nào? Trung Quốc chiếm đoạt như vậy có đúng luật biển năm
1982 không? Vì sao?
? Qua những điều vừa được biết em thấy mình cần phải làm gì để phát triển và
bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc?
GV kể thêm những mẩu chuyện về chủ quyền và cuộc đấu tranh bảo vệ
biển, đảo Tổ quốc của dân tộc. Nên cho HS biết thêm về Hải đội Hoàng Sa, Hải
quân nhà Nguyễn; Trận hải chiến đầu tiên của Hải quân Việt Nam (1964);
Trường Sa - khúc bi tráng 14/3; Mắt thần trên Biển Đông… để các em thấy

được cha ông ta đã phải cố gắng và hy sinh rất nhiều để bảo vệ chủ quyền biển
đảo.
Bài tập về nhà: Viết một đoạn văn nêu cảm nhận của em về một thắng cảnh
vùng biển và đề xuất bài học của bản thân trong việc bảo vệ, giữ gìn, phát huy
16


ý nghĩa tốt đẹp của thắng cảnh.
4. Củng cố, hướng dẫn học ở nhà.
- Củng cố bằng sơ đồ tư duy:

- Đọc lại đoạn văn, học phần ghi nhớ.
- Tìm thêm các tư liệu từ sách báo, mạng in-tơ-nét… nói về quần đảo Cô Tô để
hiểu thêm về vùng biển này.
*Điều chỉnh bổ sung………………………………………………………
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong năm học 2016 - 2017 tôi đã tích hợp liên tục có hệ thống với nội
dung khá phong phú về biển đảo Việt Nam trong các giờ học Ngữ văn ở trường
với các lớp 6A, B. Có thể nói, sau một năm thực hiện, đề tài đã góp phần thay
đổi cơ bản nhận thức của học sinh về biển đảo. Đồng thời đã khơi dậy trong toàn
thể các thầy cô giáo và các em học sinh lòng tự hào và tình yêu biển đảo quê
hương, đặc biệt là hướng về Trường Sa, Hoàng Sa thân yêu với tất cả tấm lòng
yêu thương. Được sự phối hợp của Đoàn - Đội và ủng hộ của đồng nghiệp nên
tôi đã huy động được nhiều học sinh tham gia một cách hào hứng, giúp các em
học tập một cách chủ động tích cực góp phần hình thành những kĩ năng sống cơ
bản, những cách ứng xử trong thực tế cho phù hợp.
Sau khi áp dụng đề tài này, tôi đã tiến hành kiểm nghiệm để đánh giá
những chuyển biến trong nhận thức của học sinh về vấn đề biển đảo. Kết quả cụ
thể:
Lớp

6A
6B

Sĩ số
31
28

Giỏi
SL
9
6

%
29.0
21.4

Khá
SL
12
10

%
38.7
35.7

Trung bình
SL
%
10
32.3

12
42.9

Yếu- kém
SL
%
0
0
0
0
17


Qua bảng số liệu có thể thấy nhận thức về biển đảo của các em đã có
những chuyển biến tích cực. Hầu như các em đều đã có những hiểu biết cơ bản
về biển đảo quê hương. Vấn đề tình hình biển đảo Việt Nam đã được các em cập
nhật thường xuyên. Đặc biệt nhiều em đã có niềm đam mê tìm hiểu về vẻ đẹp
biển đảo nói chung và biển đảo quê hương nói riêng. Học sinh hứng thú hơn với
tiết học vì được trải nghiệm, được tiếp cận với những vấn đề mới, được phát huy
hết khả năng tư duy, sáng tạo. Trong sổ tay văn học của các em, có rất nhiều bài
hát, câu thơ, câu văn hay về biển đảo. Một số em còn ghi lại những cảm xúc của
mình và bài học thu được khi đọc những câu chuyện về biển đảo như: “Những
câu chuyện về tình yêu biển đảo” của tác giả Trương Đức Thành hay “Hai vạn
dặm dưới biển” của tác giả Jules Verne…
Trong một thời gian thực hiện các giải pháp tích hợp giáo dục nội dung
biển đảo, những kiến thức về biển đảo của bản thân cũng được mở rộng. Đặc
biệt khi thấy học sinh hứng thú với giờ học hơn bản thân càng có động lực tìm
tòi ứng dụng các phương pháp đổi mới trong quá trình dạy học.
Qua trao đổi với đồng nghiệp, hầu hết các ý kiến đều cho rằng việc tích
hợp nội dung biển đảo vào các môn học đặc biệt là môn Ngữ văn là rất cần thiết

và mang tính khả thi. Bởi cùng với môn Địa lí, Lịch sử thì việc tích hợp này sẽ
góp phần nâng cao hiểu biết của các em về biển đảo quê hương và giờ học cũng
sẽ sôi nổi, hào hứng hơn, gắn với thực tiễn hơn. Từ kết quả này các giáo viên
trong tổ, trong trường đã tích cực tích hợp nội dung biển đảo với bộ môn mình
giảng dạy với dung lượng phù hợp. Việc tích hợp các kiến thức về biển đảo và
các kiến thức nhật dụng khác trong quá trình giảng dạy đã trở thành yêu cầu bắt
buộc và thói quen của hầu hết các giáo viên ở trường THCS Thiệu Thành, Thiệu
Hóa trong đó có cá nhân tôi.

18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Kể từ bao đời nay, Biển Đông chưa ngừng dậy sóng. “Sự ngang ngược
của Trung Quốc thời gian qua, bất chấp luật biển của Quốc tế đã làm mỗi trái
tim con dân đất Việt lên án và căm phẫn”[11]. Do vậy, giáo dục nội dung biển
đảo trong nhà trường có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài việc giáo dục tình yêu
quê hương đất nước, biển đảo quê hương còn giúp các em thấy được vai trò của
từng hải lý, từng bãi đá ngầm trên biển, nhận thức được ý nghĩa của biển đảo
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước nhà. Các em còn thấy được
trách nhiệm của mình là ra sức gìn giữ và bảo vệ toàn vẹn phần lãnh thổ quê
hương như lời Bác Hồ năm xưa đã dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Vì thế tuyên truyền, giáo dục chủ quyền
biển đảo trong trường học là một hoạt động có ý nghĩa lớn khơi gợi sự quan tâm
của học sinh, giúp các em biết chia sẽ khó khăn với cán bộ, chiến sĩ đang canh
giữ vùng biển đảo của Tổ quốc; có động cơ học tập tốt và có suy nghĩ, hành
động đúng đắn để góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, cách thức tích hợp giáo dục nội
dung biển đảo vào quá trình dạy - học tác phẩm văn xuôi Ngữ văn lớp 6 tôi thấy:

Các em học tập tích cực, có hứng thú với bộ môn, đặc biệt là rất quan tâm
đến vấn đề biển đảo. (100% số HS được hỏi đều có ý kiến như vậy).
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, ngoài việc nắm được vấn đề kiến thức
của môn Ngữ văn, các em còn nắm được và hiểu thêm vấn đề về biển đảo Việt
Nam. Nhiều em đã quan tâm tìm hiểu thêm về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên,
tiềm năng, vai trò của biển đảo, sự nhận thức sâu sắc về chủ quyền biển đảo
cũng tăng lên, góp phần tích cực trong việc chuyển biến về nhận thức của các
em. Các em biết quan tâm hơn đến tình hình thời sự của đất nước, thêm quý, tự
hào về những người lính đảo, về biển Việt Nam và biển Sầm Sơn quê hương.
Sau khi thực hiện đề tài này tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Để dạy tốt một tiết học có tích hợp nội dung biển đảo cần:
Thống kê một cách có hệ thống những bài, những vấn đề có thể tích hợp
để chủ động kiến thức.
Đảm bảo tính hợp lí: Về kiến thức, khi tích hợp lồng ghép cần đúng trọng
tâm, lựa chọn đúng địa chỉ phù hợp để tích hợp, không sa đà, lan man. Phải căn
cứ vào kiến thức chuẩn môn Ngữ văn. Tránh biến giờ học Ngữ văn thành giờ
học Địa lí, Lịch sử; Về dung lượng, không phải bài nào, giờ nào cũng tích hợp
mà chỉ tích hợp khi thật phù hợp, tránh sự áp đặt.
Đảm bảo tính cân đối về mặt thời gian: Thời lượng cho việc lồng ghép
giáo dục không chiếm nhiều thời gian của tiết học. Phải lồng ghép trong nội
dung của các bài học không tách riêng thành các đề mục.
Phạm vi và mức độ đưa nội dung về biển và hải đảo tích hợp phải đảm
bảo tính phổ thông, vừa sức và cần thiết, có hệ thống.
Cung cấp một số địa chỉ trang web về biển, đảo tạo điều kiện thuận lợi
cho các em tìm tư liệu, tập cho học sinh tính độc lập chủ động.
Tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để họ giúp đỡ
con em mình trong quá trình tìm hiểu thông tin.
19



Ngoài ra, đây là một vấn đề mang tình thời sự chính trị, để giảng dạy tốt
đòi hỏi người dạy phải luôn nắm vững quan điểm, tư tưởng của Đảng, có lập
trường kiên định vững vàng, phải cập nhật và nhận thức đúng đắn những thông
tin tư liệu tiếp nhận được, phải tích cực tìm hiểu, tham khảo về biển, đảo.
Từ quan điểm tích hợp và thực tế từng bài trong chương trình Ngữ văn 6,
bản thân tôi đã vận dụng tích hợp giáo dục về biển đảo Việt Nam với nội dung
phù hợp và linh hoạt trong từng bài dạy cụ thể. Tôi thấy tích hợp nội dung này
trong giờ dạy học Ngữ Văn là rất phù hợp và có tính thực tiễn cao. Với thời gian
nghiên cứu có hạn, tôi chỉ dừng lại ở một số biện pháp tích hợp nội dung biển
đảo Việt Nam trong giảng dạy tác phẩm văn xuôi cho học sinh khối 6 nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Thiệu Thành, Thiệu Hóa. Qua tầm
quan trọng của nội dung biển đảo, chắc chắn tôi sẽ hướng tới các đối tượng học
sinh khối 7, 8, 9. Hy vọng rằng cùng với các bộ môn khác trong nhà trường,
môn Ngữ văn sẽ giúp các em nắm vững kiến thức về biển đảo quê hương và góp
phần bồi đắp tâm hồn các em - những công dân Việt Nam tương lai.
Những vấn đề tôi trình bày ở trên chỉ là một vài biện pháp nhỏ, mong
được đón nhận những đóng góp xây dựng của đồng nghiệp để tôi thực hiện tốt
hơn việc tích hợp giáo dục nội dung biển đảo cho học sinh trong quá trình dạy học.
3.2. Kiến nghị:
- Nhà trường: Bổ sung các đầu sách có nội dung về biển, đảo vào thư
viện.
- Địa phương: Để nâng cao hiệu quả giáo dục tình yêu biển đảo cho học
sinh rất cần sự chung tay của các bậc cha mẹ học sinh cũng như của cộng đồng.
Nhận thức của một bộ phận không nhỏ nhân dân còn rất hạn chế nên địa phương
cũng cần có những buổi tuyên truyền trong quần chúng nhân dân, giúp mọi
người hiểu tầm quan trọng của biển đảo quê hương đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 4 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Quỳnh Liên

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ văn 6. NXBGD Việt Nam.
2. Phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và
tích cực. Đoàn Kim Dung. NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh –
2006.
3. SGK Ngữ văn 6. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên). NXBGD Việt Nam
2012.
4. Văn học và tuổi trẻ. NXBGD Việt Nam - Bộ giáo dục và đào tạo. NXB
2013.
5. Văn học tuổi thơ. NXBGD Việt Nam - Bộ giáo dục và đào tạo. NXB
2012.
6. SGV Ngữ văn 6. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên). NXBGD Việt Nam
-Năm 2003.
7. Giảng văn văn học Việt Nam trung học cơ sở. Trần Thị An- Phan Huy
Dũng - Đoàn Ánh Dương - Đỗ Kim Hồi - Nguyễn Hữu Sơn - Phạm Xuân
Thạch. NXB GD Việt Nam - 2010.
8. SGK Địa lí 8. NXBGD Việt Nam. NXB 2014.
9. Hướng dẫn học Ngữ văn 6 tập 2 (sách thử nghiệm). NXBGD Việt Nam.
NXB 2016.
10. Báo Giáo dục và Thời đại.

11. Các trang Websie như: Cổng thông tin Chính phủ, Vietnamnet…
12. Công văn số 633 của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa về “Kế hoạch
công tác tuyên truyền biển, đảo năm 2016”.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Quỳnh Liên
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Thiệu Thành, Thiệu Hóa.

TT

Tên đề tài SKKN

1

Quy trình giảng dạy bài mở rộng vốn
yếu tố Hán Việt lớp 6.
Kinh nghiệm dạy T.L.V miệng ở trường
T.H.C.S.
Tổ chức hoạt động dạy học phân môn
Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp
trong sách Ngữ văn 6.
Phương pháp sử dụng hình thức hoạt
động nhóm trong dạy học Ngữ văn.
Phương pháp dạy học truyện cổ tích

theo loại thể trong trương trình Ngữ văn
6.
Một số biện pháp dạy phần từ khó trong
phần đọc hiểu văn bản Ngữ văn lớp 9.
Một số biện pháp rèn kĩ năng viết bài
văn biểu cảm hay cho học sinh lớp 7
trường THCS.

2
3

4
5

6
7

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh
giá
(Phòng, Sở,
(A,
B, xếp loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng GD
C

2001-2002
Phòng GD

C

2002-2003

Phòng GD

C

2004-2005

Phòng GD

B

2005-2006

Phòng GD

C

2006-2007

Phòng GD

C

2010-2011


Phòng GD

B

2014-2015

22



×