Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng làm văn biểu cảm nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh lớp 7 ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.85 MB, 26 trang )

MỤC LỤC

Nội dung

Trang

1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

1
1
1
2
2
2
2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

3

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm



14

3. Kết luận, kiến nghị

18

1


1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
Trong cuộc sống, bộc lộ tình cảm là một vấn đề thiết yếu. Đó là cách để
mọi người thể hiện, bộc lộ tình cảm với nhau. Có nhiều cách bộc lộ cảm xúc,
một trong những cách bộc lộ cảm xúc phổ biến đó là văn biểu cảm.
Văn biểu cảm là kiểu văn bản có nội dung biểu đạt tư tưởng, tình cảm của
người viết. Tình cảm trong văn biểu cảm có khi bộc lộ thầm kín mà sâu sắc, có
khi bộc trực mà thẳng thắn, mạnh mẽ. Nó khơi dậy ở con người một tình yêu
thương mãnh liệt. Nó đánh thức sự trào dâng của con tim trước sự việc, biết
rung động trước hoàn cảnh hay cái đẹp. Nhưng không phải tình cảm nào cũng
có thể viết ra. Những tình cảm nhỏ nhen tầm thường ích kỷ, tham lam, thói đố
kỵ…viết ra chỉ làm người ta chê cười không có ai đồng cảm. Những tình cảm
trong văn biểu cảm phải là tình cảm đẹp, nhân ái,vị tha, cao thượng. Nó góp
phần nâng cao phẩm giá con người. Văn biểu cảm giúp chúng ta thêm yêu thiên
nhiên, con người, đất nước và biết ý nghĩa của cuộc sống. Có thể nói văn biểu
cảm là một trong các phương thức biểu đạt hay nhất và thấm thía nhất, dạt dào
cảm xúc nhất trong các phương thức biểu đạt. Nó là thể loại khó nhưng cũng là
thể loại hướng tới của những người giàu tình cảm, mang tính nhân văn sâu sắc.
Làm thế nào để giúp học sinh làm tốt bài văn biểu cảm, biết sống nhân ái và
luôn hướng tới cái “chân, thiện, mĩ” đó là điều khiến tôi trăn trở. Tôi quyết định

chọn đề tài “Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng làm văn biểu cảm nhằm nâng
cao chất lượng học tập cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Nga Trường, Nga
Sơn” .
1.2 Mục đích nghiên cứu
Hiện nay có một thực trạng mà ai cũng thấy đó là các phương tiện thông
tin giải trí tràn ngập thu hút giới trẻ rất lớn. Các em thưởng thức rất say mê,
thậm chí cuồng nhiệt nhưng tự mình diễn tả một cách sâu sâc nội dung người
viết muốn truyền đạt là gì thì các em rất lúng túng. Mặt khác văn hóa đọc của
các em rất hạn chế bởi vậy trong bài viết của học sinh thiếu tư duy sâu sắc, tình
cảm hời hợt, thiếu chân thực. Các em không biết phối hợp giữa các phương thức
biểu đạt trong một bài văn bởi vậy bài văn rất cộc lốc. Một bộ phận giới trẻ có
lối sống hưởng thụ, vô cảm, ích kỉ. Lối sống ấy biểu hiện của tâm hồn khô cằn.
Giáo dục học sinh biết sống nhân ái, biết cảm thụ tính nhân văn từ các hiện

2


tượng trong đời sống, các tác phẩm văn chương là nhiệm vụ của người giáo viên
dạy văn. Từ những rung động thực sự các em sẽ biết biểu cảm sống sẽ có chiều
sâu và biết hành động theo những cái tốt đẹp. Tâm hồn các em sẽ rộng mở hơn.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn 7, tôi nhận thấy học sinh thích thể
loại này nhưng khi làm bài các em chưa biết phân biệt rõ văn biểu cảm với các
loại văn khác. Bài viết của các em thường sa vào miêu tả và kể, chưa bộc lộ
được cảm xúc của mình hoặc bộc lộ một cách gượng gạo, khuôn sáo khiến bài
làm rất khô khan.Trong trường phần lớn các năm trước học sinh cũng ở tình
trạng như hiện nay tôi đang dạy. Từ trước tới nay chưa có giáo viên nào áp dụng
đề tài này. Bởi vậy tôi mạnh dạn áp dụng một số phương pháp dạy văn biểu cảm
cho đối tượng lớp 7 và thấy rõ sự chuyển biến rõ rệt trong bài viết cũng như
trong nhận thức của các em.

1.4 Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: nghiên cứu
thực trạng làm văn biểu cảm của học sinh lớp 7 trong trường qua một tiết làm
bài và các bài tập cảm thụ mà giáo viên ra ở trên lớp.Tiếp theo là nghiên cứu tài
liệu tham khảo, chắt lọc những phương pháp hiệu quả để vận dụng phù hợp với
học sinh. Phân tích, tổng hợp vấn đề và rút ra bài học kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Văn biểu cảm là thể loại văn chiếm số lượng khá nhiều trong chương trình
ngữ văn nói chung và ngữ văn 7 nói riêng. Trong thực tế giảng dạy người ta đưa
kiểu văn này thành những bài học riêng để bước đầu hình thành kỹ năng biểu
cảm cho học sinh còn nó sẽ theo suốt các em lên các bậc học cao hơn, các em sẽ
còn phải tiếp cận với những kiểu bài khó hơn, đòi hỏi cảm xúc tốt hơn. Ngồi
trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung
không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm có
hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay tình
mượn ý. Hoặc đọc một tác phẩm mà người khác phải mất bao nước mắt mà
mình thì không mảy may xúc động thì làm sao có khả năng biểu cảm. viết văn
biểu cảm cũng giống như công việc của các nhà thơ mà bí quyết đơn giản chỉ là
“Hãy gõ vào tim anh – Thiên tài ở đó”. Cho nên dạy văn cũng như học văn biểu

3


cảm người giáo viên, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một
tâm hồn, một trái tim yêu nghề, sẵn sàng dốc bầu nhiệt huyết vì học sinh và học
sinh phải sẵn sàng đón nhận bài học với thái độ say mê, yêu thích thì hiệu quả
mới cao.
Với đề tài này tôi vân dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: nghiên
cứu thực trạng làm văn biểu cảm của học sinh lớp 7 trong trường qua một tiết

làm bài và các bài tập cảm thụ mà giáo viên ra ở trên lớp.Tiếp theo là nghiên
cứu tài liệu tham khảo, chắt lọc những phương pháp hiệu quả để vận dụng phù
hợp với học sinh. Tăng cường thực hành qua một số giờ dạy thêm trên lớp,cho
học sinh đọc nhiều, đọc kĩ một số tác phẩm để các em có tác phong ham đọc.Khi
nhận xét bài làm cần khuyến khích hơn là nặng về nêu khuyết điểm.
Để dạy và học tốt văn biểu cảm người dạy và người học cần nắm vững hệ
thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học văn biểu cảm
ở lớp 7 – học kì I ) gồm :
- Tìm hiểu chung về văn biểu cảm
- Đặc điểm của văn biểu cảm
- Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm
- Cách lập ý của bài văn biểu cảm
- Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm
- Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
Ngoài các bài học trên giáo viên cần cho các em cần tham khảo các tài
liệu nâng cao khác như rèn luyện viết đoạn văn, bài văn hay, cảm thụ vẻ đẹp của
các tác phẩm văn chương, bình giảng văn. Trong quá trình dạy giáo viên sử
dụng công nghệ thông tin để truyền tải hình ảnh cho bài học mang tính trực
quan.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thực trạng chung:
Văn biểu cảm làm rung động tâm hồn người đọc, rất được đông đảo người
đọc yêu thích và đồng cảm. Nhưng đó là khi ta đọc. Còn việc viết thì không phải
ai cũng có thể làm người khác đồng cảm được, đó là một thực trạng chung. Đa
số học sinh chưa có khả năng biểu cảm sâu sắc những vấn đề mà các em nhìn
thấy, cảm thấy mà chỉ viết cho xong nhiệm vụ. Bởi vậy, tâm hồn các em chưa
nhạy cảm, chưa có nhiều bài viết đặc sắc, ấn tượng đối với người đọc. Mặt khác

4



vì tính đồng cảm chưa cao, các em chưa thực sự thấm nhuần tư tưởng nhân văn
mà một số tác phẩm văn học đem lại nên học sinh chưa biết cảm thông với một
số hiện tượng nhạy cảm trong xã hội như coi thường người bất hạnh, thờ ơ với
những nỗi đau của người khác. Chẳng hạn các em hay trêu ghẹo những bạn
không có bố, trêu bạn bị khuyết tật bằng những hành vi đáng lên án làm các bạn
bị tổn thương sâu sắc. Đây cũng là một phần lỗi của giáo viên dạy văn chưa có
sức cảm hóa và lôi cuốn học sinh vào bài học nên học sinh còn có lối ứng xử
chưa đẹp với bạn bè và người khác.
b. Thực trạng đối với giáo viên.
Đối với giáo viên việc giảng dạy văn biểu cảm từ trước tới nay đều tuân
thủ theo các mục quy định sẵn, ít có người muốn thử thay đổi phương pháp,
cách truyền thụ vì vậy đôi khi tiết học nhàm không gây hứng thú đối với học
sinh. Mặt khác để học sinh biết biểu cảm rất khó vì nó thuộc năng khiếu văn
chương Vì vậy muốn đạt được hiệu quả trong kiểu bài này đòi hỏi sự công phu
trong giảng dạy của giáo viên. Đặc biệt phải cảm hóa học sinh bằng chính tâm
hồn của mình, là gương cho học sinh noi theo.
c. Đối với học sinh
Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ
năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm
xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu .Văn biểu cảm có
nhiều dạng như biểu cảm về sự vật, biểu cảm về tác phẩm văn chương. Không
chỉ có vậy hầu như chỉ có văn bản hành chính là không sử dụng tới yếu tố biểu
cảm còn hầu hết các kiểu văn ban khác đều sử dụng phương thức này. Điều đó
đủ chứng minh văn biểu cảm hết sức quan trọng. Thế nhưng học sinh làm bài
còn khá sơ sài chưa có sự quan sát tinh tế, chưa biết vận dụng các phương tiện
ngôn từ mang tính biểu cảm và quan trọng hơn là các em thiếu cảm xúc chân
thực bởi cuộc sống của các em được bao bọc quá nhiều. Các em chưa phải nếm
trải nhưỡng khó khăn cay đắng trong cuộc đời mà con người thường trải qua.
Chẳng hạn khi biểu cảm về mẹ các em chỉ tả mẹ, ca ngợi công lao của mẹ

và hứa sẽ chăm ngoan học giỏi để mẹ vui. Kiểu làm này thực sự gây cho giáo
viên cảm giác nhàm chán khi chấm bài, các em không biết cần biểu cảm ở điều
nào.

5


Hoặc khi làm bài văn “Loài cây em yêu” học sinh chưa biết biểu cảm như
thế nào mà chỉ sa vào tả lại loại cây đó một cách sơ sài. Bài văn của hai học sinh
sau đây thể hiện rõ điều đó.

6


7


Những bài văn như vậy khá phổ biến và không gây được dấu ấn đối với
người đọc, cảm xúc không có, chung chung mà ai cũng có thể nói được. Điều đó
chứng tỏ các em chưa biết biểu cảm như thế nào và biểu cảm điều gì. Vì vậy mà
bài viết của các em đạt điểm thấp, hiếm có điểm giỏi, điểm khá cũng hạn chế.
Kết quả thống kê điểm trung bình môn văn học kì I năm học 2015-2016 như
sau:
Tỉ lệ học
sinh giỏi
1,75%

Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh
khá
14,1%


trung bình
58,75%

yếu
20,1%

Tỉ lệ học
sinh kém
5,3%

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
a. Đối với giáo viên: Từ quá trình giảng dạy của các năm học trước, bản
thân tôi đã rút ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy văn biểu
cảm.
* Giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản về đặc điểm của văn biểu
cảm, đề văn biểu cảm. Có nắm được kiến thức cơ bản học sinh mới biết vận
dụng và mở rộng dần.
* Giao bài tập về nhà cho học sinh. Bước đầu là những bài tập nhỏ như
cảm nhận một đoạn thơ, đoạn văn hay một chi tiết nhỏ trong tác phẩm để học
sinh tập cảm thụ, sau đó giáo viên chấm và nhận xét, sửa chưỡ chu đáo cho học
sinh.
* Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong từng tiết dạy. Vì đây
là môn tập làm văn nên nó có phần khô khan hơn văn bản. Giáo viên cần tổ chức
một số hình thức học tập khác như: phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp,
tập độc thoại nội tâm. Ngoài ra giáo viên còn dành thời gian cho việc ngoại
khóa, giao đề tài cho học sinh để cho các em tập làm thơ, bình thơ. Hiện nay
công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi nên khi dạy một số tác phẩm về
thiên nhiên đất nước giáo viên nên sử dụng công nghệ thông tin để các em tận
mắt nhìn và cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước qua một số tác

8


phẩm như “Qua Đèo Ngang”, các bài ca dao về tình yêu quê hương đất nước,
con người, “Sài Gòn tôi yêu”. Giáo viên đưa vào bài dạy cảnh đèo Ngang, cảnh
xứ Huế, phong cảnh Hà Nội, Sài Gòn…(Minh chứng ở phụ lục)
Những bức tranh phong cảnh mà giáo viên giới thiệu sẽ hấp dẫn học sinh
từ đó các em mới có ấn tượng sâu sắc về đất nước nơi mà hầu như các em chưa
từng đặt chân tới.
* Hướng dẫn học sinh phương pháp làm văn biểu cảm cần phải vận dụng
các yếu tố sau:
- Biết quan sát và suy ngẫm.
- Liên tưởng, tưởng tượng.
- Hồi tưởng quá khứ, liên hệ với hiện tại, Yếu tố hồi tưởng giúp bài văn
có chiều sâu là mạch ngầm để cho cảm xúc hiện tại tuôn trào.
-Tưởng tượng tình huống, hứa hẹn, mong ước. Tuy nó có tính chất giả
định nhưng có yếu tố này học sinh sẽ thoải mái bộc lộ được những dự định, ước
mơ khát vọng của bản thân và cảm xúc của các em được bộc lộ hết sức chân
thật, trong trắng hồn nhiên do đó dễ đi vào lòng người. Chẳng hạn khi viết về
mẹ, giáo viên nhắc học sinh cách quan sát, suy ngẫm để biểu cảm về mẹ. Khi
quan sát mẹ cần chú ý những nét tiêu biểu, dễ gây cảm xúc như gương mặt, đôi
mắt, nụ cười, giọng nói, việc làm khiến em xúc động và khâm phục. Khi viết
chú ý so sánh, đánh giá, vận dụng một số những nét đặc sắc trong nghệ thuật
như từ ngữ, câu văn biểu cảm, các biện pháp tu từ… để đạt hiệu quả cao. Khi
biểu cảm về tác phẩm văn học tránh sa vào kể lại tác phẩm hay diên xuôi thơ mà
cần phát hiện những điểm sáng về nội dung và nghệ thuật để cảm nhận. Đặc biệt
chú ý phân tích sâu vẻ đẹp của ngôn từ, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật đặc
sắc có giá trị thể hiện nội dung thì bài viết mới thành công.
* Đổi mới cách ra đề : Đề bài giáo viên ra không chỉ đảm bảo kiến thức
cơ bản mà còn mang tính mở để phát huy tính sáng tạo của học sinh. Đề ít mang

câu lệnh nhưng học sinh vẫn hiểu được yêu cầu và có hứng thú hơn. Ví dụ một
số đề bài như: Kỉ niệm tuổi thơ tôi, Người em yêu dấu, món quà kì diệu…Khi ra
đề cảm nhận về tác phẩm nên chọn những đoạn văn, đoạn thơ đặc sắc cho học
sinh cảm thụ, nên tránh việc cảm nhận cả tác phẩm khiến các em sa vào lối diễn
lại văn bản.
*Đổi mới cách đánh giá:
- Cần đánh giá cao những bài viết mang tính đổi mới với những phát
hiện mang tính thời đại, không gò bó khuôn sáo.
- Lời phê của giáo viên mang tính động viên nhiều hơn là nhận xét
khuyết điểm.
- Khuyến khích học sinh bày tỏ cảm xúc theo cảm nhận riêng của bản
thân ngoài những điều trong sách vở và giáo viên dạy nhưng cảm xúc đó phải
phù hợp với xu thế chung và được sự đồng tình ủng hộ của mọi người.

9


- Yêu cầu bài viết dù sáng tạo đến đâu cũng phải đảm bảo tính chân thực
bởi đó là nguồn gốc tạo nên sự đồng cảm.
* Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con người hay văn biểu cảm về tác phẩm
văn học, giáo viên luôn phải định hướng và hướng dẫn các em nắm vững quy
trình để làm một bài văn biểu cảm tốt. Quy trình đó bao gồm :
. Tìm hiểu đề và tìm ý
- Tìm hiểu đề
Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả đối
tượng học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động
nhằm cá thể hóa đề bài cho từng học sinh. Kết quả của quá trình này là mỗi học
sinh có một đề bài cho riêng mình .Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần
định hướng cho các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau:
- Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật, loài

cây, cảnh vật . . .) nào? Về người nào? Về tác phẩm nào ?
- Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì? (giãi bày cảm xúc, tình cảm nào?)
- Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc? (cô giáo, thầy giáo, bố mẹ , bạn bè…).
Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày
cảm xúc gì ?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật ,có
thể suồng sã; còn viết cho thây cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm
trang).
- Tìm ý
Tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm những chi tiết để biểu cảm. Đây
là sườn cơ bản của bài văn nếu không tìm ý chính học sinh sẽ dễ bỏ sót các ý
dẫn đến bài viết thiếu hoặc lại làm thừa ý khiến bài văn không có sự mạch lạc.
Để tạo ý cho bài văn biểu cảm ,khơi nguồn cảm xúc người viết có thể hồi tưởng
quá khứ, suy nghĩ về hiện tại, tưởng tượng tương lai.
Đối với bài văn biểu cảm về sự vật học sinh cần xác định xem mình biểu
cảm những ý nào, vì sao mình lại xúc cảm trước điều đó. Chẳng hạn biểu cảm
về loài vật: Tại sao em lại yêu quý chú chó chứ không phải là mèo hay là chú
gà? Chú chó có đặc điểm gì nổi bật, những hoạt động nào của chú khiến em yêu
quý chú. Giáo viên gợi cho học sinh hình dung ra nét đáng yêu của chú chó
như đôi mắt tinh nghịch, dáng hình cân đối, những kỷ niệm buồn vui giữa em và
chú, tình cảm của chú dành cho mọi người.
Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học,cảm xúc và suy nghĩ về tác
phẩm văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm .Tìm ý trong trường hợp này
chính là đọc kĩ , đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm
ra triết lí của nội dung, tìm ra cái mới ,cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ
thuật.
. Lập dàn ý

10



Đây là khâu học sinh thường hay bỏ qua vì thấy khó. Giáo viên cần tạo
cho các em có thói quen lập dàn ý để các ý được sắp xếp liền mạch, đầy đủ về
nội dung tránh tình trạng nghĩ đâu viết đấy.
Phần mở bài giáo viên khuyến khich học sinh làm theo khả năng. Đối với
học sinh khá giỏi nên mở bài theo chách gián tiếp, học sinh trung bình mở theo
cách trực tiếp. Giáo viên định hướng mở trực tiếp là giới thiệu thẳng vào vấn đề
mà ta biểu cảm. Ví dụ khi biểu cảm về loài cây hoặc con vật nào thì ta sẽ vào
thẳng vấn đề đó là loài cây ,con vật mà ta yêu quý nhất. Đối với mở bài gián tiếp
thì có nhiều cách. Các em có thể dẫn dắt vấn đề từ nhiều hướng như trích những
câu thơ gần gũi với đối tượng biểu cảm.
Ví dụ: Nếu biểu cảm về mẹ học sinh có thể mở bài như sau :
Con dù lớn vẫn là con của mẹ.
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con
- Hai câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên cho ta thấy được tấm lòng bao la
rộng lớn, tình yêu thương, sự quan tâm sâu sắc của mẹ đối với mỗi đứa con.
- Mẹ của chúng ta thật tuyệt vời, đối với tôi, mẹ luôn là điểm tựa, là
nguồn động lực lớn cho tôi vững bước vào đời..
Phần thân bài giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý chính theo trình
tự hợp lý.Chú ý không để học sinh viết tràn lan không có ý lớn ý nhỏ. Phải lựa
chọn các sự việc để biểu cảm, cần tìm các chi tiết khơi gợi nhiều cảm xúc
Ví dụ :
Vai trò của mẹ:
- Mẹ là ngưới sinh thành nuôi dưỡng tôi khôn lớn , sẵn sàng hy sinh tất cả
vì chồng con.
- Mẹ dạy tôi cách ăn ở, cách sống làm người, an ủi động viên, khích lệ tôi
trong cuộc sống.
Cảm nghĩ về mẹ :
- Mẹ tôi chỉ là người nông dân chất phác hiền lành, quanh năm vất vả
chân lấm tay bùn.
- Mẹ không đẹp nhưng rất có duyên nhất là khi mẹ cười. Nhưng tôi thích

nhất là đôi mắt của mẹ, đôi mắt biết nói.
- Đức tính nổi bật của mẹ là cần cù chăm chỉ, hết lòng thương yêu chồng
con, quan tâm dạy dỗ con rất chu đáo. Mẹ rất nghiêm nhưng dễ gần, luôn chia sẻ
với tôi những tâm sự như người bạn.
- Bận rộn nhưng mẹ thích trồng hoa đặc biệt là hoa hồng, mẹ đã truyền sở
thích này sang chị em tôi.
- Chúng tôi luôn muốn ở bên mẹ, thích được làm cho mẹ cười, mong mẹ
luôn khỏe mạnh và cố gắng ít khi làm mẹ buồn lòng.
Phần kết bài lưu ý học sinh viết hô ứng với mở bài và khếp lại vấn đề, nên
mở rộng một chút.
- Mẹ là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của tôi, công lao của mẹ không gì
sánh nổi.

11


- Tôi ước mong mẹ mãi sống bên tôi để chúng tôi được chăm sóc, nuôi
dưỡng mẹ như ngày nào mẹ đã nuôi chúng tôi.
. Viết câu, dựng đoạn: Văn biểu cảm mà từ ngữ khô khan, câu lủng củng, đoạn
văn thiếu liên kết thì dù có chân tình đến mấy cũng khó tạo được sự đồng cảm
của người đọc.Do đó một yêu cầu quan trọng đối với học sinh là phải biết viết
câu, dựng đoạn. Câu văn phải trong sáng giàu yếu tố biểu cảm thể hiện qua việc
dùng từ ngữ biểu cảm hoặc hình ảnh khơi gợi cảm xúc. Ví dụ khi viết về mùa
xuân nhà văn Vũ Bằng có viết: Đẹp quá đi mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội
thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Hoặc nhà văn Minh Hương trong bài Sài
Gòn tôi yêu lại viết: Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm ấp bóng
dáng mối tình đầu chứa nhiều ngang trái. Bên cạnh dùng các từ ngữ và câu văn
biểu cảm người viết còn sử dụng linh hoạt các kiểu câu, từ láy, điệp từ ngữ hoặc
các biện pháp tu từ. Ví dụ:
- U tôi đã già từ đi bao giờ ? U tôi đã già đi từ lúc nào? Tôi thực không hay

(Duy Khán).
- Mùa xuân của tôi - mùa xuân của Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội- là mùa
xuân có mưa riêu riêu, có gió lành lạnh...( Vũ Bằng).
- Nghỉ hè hoa phượng nhớ nhung mong đợi học trò. Suốt ba tháng trời
phượng buồn, phượng băn khoăn không biết trò có nhớ phượng không ?
Trong dựng đoạn yêu cầu các câu văn phải có sự liên kết chặt chẽ cả về nội
dung và hình thức. Giữa các đoạn vừa có sự liên kết nhưng lại có sự mạch lạc
đảm bảo cho bài văn thông suốt.
. Viết bài
Viết bài văn biểu cảm là việc viết các đoạn văn và nối chúng với nhau ,tạo
thành chỉnh thể thống nhất . Khi viết bài cần thực hành thành thạo kĩ năng hành
văn, đặt câu, sử dụng từ, chọn giọng điệu, cách bộc lộ cảm xúc phù hợp. Khi
viết bài, kết nối các đoạn trong bài văn biểu cảm cần chú ý đến lôgíc phát triển
của cảm xúc, của tình cảm. Theo lôgíc này, mỗi đoạn trong bài đều phải hướng
vào làm nổi rõ lên cảm xúc chính, tình cảm chính. Giáo viên hướng dẫn học sinh
viết như thế nào để không lẫn lộn với văn tả hoặc kể mà hai yếu tố này chỉ có tác
dụng hỗ trợ cho đối tượng biểu cảm được cụ thể sinh động hơn. Giáo viên đưa
ra những bài văn trước đây học sinh đã làm chỉ cho các em thấy hạn chế trong
cách biểu cảm là sa vào kể tả từng đoạn rồi sau đó mới biểu cảm. Những bài như
vậy rất đơn điệu và ít cảm xúc. Giáo viên làm mẫu cho các em những đoạn cần
thiết, dạy các em khi làm bài nên lồng kể tả, biểu cảm xen kẽ nhau.
Ví dụ: Mẹ tôi không đẹp rực rỡ như bao người phụ nữ khác nhưng lại có
nét duyên thầm.nhưng cái duyên thầm ấy lại lăn sâu bởi bao những thăng trầm
lo âu của gánh nặng cuộc đời. Chỉ những khi thật vui tôi mới thấy rõ được nét
duyên dáng của mẹ ẩn trong nụ cười thật tươi và một đôi mắt đẹp luôn ánh lên
sự hiền từ, nhân hậu. Những khi tôi bị ốm nặng nằm miên man khi tỉnh lại điều
tôi bắt gặp đầu tiên là đôi mắt ấy nhưng là đôi mắt nặng trĩu lo âu và đong đầy
nước mắt vì lo lắng. Tôi chỉ muốn ôm chầm lấy mẹ mà kêu lên “Con thương
mẹ quá !” mà chẳng nói nên lời, nước mắt cứ thế trào ra.


12


Từng bước một giáo viên luyên cho các em cách biểu cảm tự nhiên mà
không sáo rỗng gượng ép. Cần kiên trì sửa chữa và khích lệ để các em mạnh dạn
bộc lộ tình cảm suy nghĩ không phụ thuộc nhiều vào văn mẫu.
. Sửa bài
Đa số học sinh khi làm bài không biết cách phân phối thời gian hợp lí nên
viết xong là nộp bài ,thậm chí hết thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Do
đó, khâu tự sửa bài sau khi viết không được coi trọng . Giao viên cần nhắc nhở
các em chú trọng hơn đến việc sửa bài trước khi nộp.
- Để dạy tốt văn biểu cảm, giáo viên nên chú ý trước tiên đến việc đổi mới
cách ra đề. Từ đề tài chung cho cả lớp (có tính định hướng chung), phải thực
hiện quá trình cá thể hóa đề bài (quá trình hướng dẫn mỗi học sinh đi từ đề tài
chung cho cả lớp đến việc xác định đề bài riêng, đề bài cụ thể phù hợp với vốn
sống, với tình cảm, cảm xúc riêng của mỗi học sinh). Một lí luận sư phạm tôi đã
rút ra được trong quá trình giảng dạy, đó là Giáo viên không được bắt học sinh
viết bài văn biểu cảm về đề tài các em chưa được sống, chưa có hiểu biết, có
cảm xúc nếu giáo viên đó muốn học sinh làm tốt yêu cầu mình đưa ra. Trước khi
viết bài cần cho các em sự chuẩn bị chu đáo như dặn các em tập quan sát, lắng
nghe, biết sử dụng độc thoại nội tâm, tham khảo các bài văn mẫu để tìm hiểu
cách viết hay, độc đáo để học tập nhưng không sao chép, cần lưu ý HS tính chân
thực trong bài viết cũng là một yếu tố quan trọng.
- Khi chấm bài làm văn biểu cảm của học sinh, giáo viên nên coi trọng
tính cá biệt, sự độc đáo trong suy nghĩ, rung động có trong nội dung hơn là độ
dài của bài. Nếu bài văn biểu cảm của các em chỉ cần có được một, hai cảm
nhận hoặc một, hai nội dung có sắc thái tình cảm riêng, các thầy cô giáo nên trân
trọng, biểu dương và tỏ thái độ đánh giá cao qua cách cho điểm, lời phê thật
khéo léo khen nhiều hơn chê để các em phấn khởi và tự tin hơn sẽ viết tốt hơn
trong các bài sau.

- Đọc sách cũng là một thao tác cần thiết giúp học sinh có kiến thức và cảm
xúc để làm bài. Những tình cảm tốt đẹp trong các tác phẩm văn chương khiến
tâm hồn các em rung động, bị lôi cuốn và từ đó các em sẽ biết cảm, biết nghĩ sau
đó vận dụng vào bản thân. Giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích và khuyến
khích hơn nữa việc học sinh đọc sách ,bắt đầu từ việc đọc các văn bản trong
SGK .Thực tế cho thấy học sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó
khăn cho việc cảm thụ văn bản. Chính vì thế, giáo viên cần khơi nguồn và nuôi
dưỡng thói quen đọc sách của học sinh bằng cách : trong mỗi tiết dạy giáo viên
lấy dẫn chứng, ví dụ ,trích các câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham
khảo, sách nâng cao, các tác phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy.
Khi GV làm được như thế, không cần phải “Khua chiêng gõ mõ”, tự các em sẽ
tìm đến với sách, làm bạn với sách.
- Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm cần phải có kĩ năng diễn đạt trôi
chảy, hấp dẫn .Giáo viên nên giao các bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau
mỗi tiết học. Đặc biệt, giáo viên nên hướng dẫn các em cách viết nhật kí để giúp
các em nuôi dưỡng tình cảm đẹp khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
13


b. Đối với học sinh.
* Phải nắm vững kiến thức cơ bản.
*Trước khi làm bài phải đọc kĩ đề bài để nắm rõ yêu cầu của đề, xác định
kiến thức trọng tâm.
*Tạo thói quen tìm ý và lập dàn ý trước khi viết bài để tránh viết lộn xộn
thiếu mạch lạc.
*Tạo thói quen đọc sách và suy ngẫm, tập viết hồi kí, nhật kí, tùy bút.
* Để học tốt văn biểu cảm, cần biết tạo nên cảm xúc bởi cảm xúc là sự
cảm thụ của trái tim, của tấm lòng và tình cảm người học. Các em hãy đến với
giờ văn bằng trái tim, bằng tấm lòng của mình thì những cung bậc tình cảm vui,
buồn, yêu thương, hờn giận từ bài giảng của thầy cô sẽ đi vào lòng các em. Các

em sẽ biết thương cảm những số phận bất hạnh ,biết căm ghét sự bất công, cái
xấu, cái ác; biết yêu thiên nhiên hoa cỏ, yêu quê hương đất nước. Muốn vậy các
em cần đọc nhiều nhất là các tác phẩm trữ tình để con tim cùng rung động với
tác giả, văn chương sẽ làm đẹp tâm hồn các em như nhà phê bình Hoài Thanh đã
viết “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những
tình cảm có sẵn”. Các em sẽ có nhiều cảm xúc khi tiếp xúc nhiều với các tác
phẩm văn chương giàu tính nhân văn.
* Để làm tốt một bài văn biểu cảm, khi làm bài, trước tiên, các em cần
định rõ cho mình các yêu cầu cụ thể để biến đề tài chung cho cả lớp thành đề bài
của riêng mình. Sau đó, cần xác định rõ những tình cảm cảm xúc, những rung
động nào là mạnh mẽ, là riêng của mình. Hãy tập trung trình bày những tình
cảm, cảm xúc, suy nghĩ đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua miêu tả cảnh
vật, qua một câu chuyện . . . Các em cần chú ý đến sự riêng biệt, độc đáo của nội
dung hơn là ham viết dài. Đồng thời, cần lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh (so sánh
ví von, so sánh ngầm …) thích hợp để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, suy
nghĩ của mình.
* Điểm quan trọng nhất để làm bài văn biểu cảm đạt kết quả cao là tự bản
thân các em ngoài việc tích cực đọc sách cần tích cực tham gia các hoạt động
trong nhà trường, ngoài xã hội để có thêm vốn sống, vốn hiểu biết .Qua đó, các
em cần chú ý rèn luyện cho tâm hồn mình trở nên chứa chan những tình cảm
yêu, ghét, buồn, thương, hờn giận, nhớ nhung . . . dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ
cao thượng về tình bạn, tình yêu thương cha mẹ thầy cô, yêu quê hương đất

14


nước, tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy thoải mái yêu đời và nhìn đời bằng con
mắt lạc quan.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu

trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở môn văn khối 7 năm
học 2015 - 2016 được nâng cao rõ rệt. Học sinh đã biết biểu cảm tốt hơn, các em
bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn văn, biết bộc lộ cảm xúc của
mình đúng cách, bài viết đã tạo được nhiều ấn tượng, cảm xúc chân thật, trong
sáng. Khi biểu cảm về con người hay về một đoạn văn, tác phẩm văn học các em
đã tránh được lối viết khô khan, máy móc.
Sau đây là một vài minh họa về bài viết của học sinh. Đề bài: cảm nhận
về đoạn văn “Tự nhiên cũng thế ai cũng chuộng mùa xuân………mê luyến mùa
xuân” trích “ Mùa xuân của tôi” của tác giả Vũ Bằng.
Trích đoạn phần thân bài:

15


16


Bài cảm nghĩ về mẹ

17


18


Kết quả thống kê điểm trung bình môn văn học kì I năm học 2015 - 2016
là rất khả quan.
Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh

Tỉ lệ học


giỏi

khá

trung bình

yếu

sinh kém

5,2%

29,%

52,1%

12%

1,7%

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Trong cuộc sống không thể thiếu môn văn vì thiếu nó đời sống con người sẽ
trở nên khô héo biết nhường nào.Và trong đó văn biểu cảm chiếm vị trí số một.
kiểu văn nào (trừ văn bản hành chính) cũng ít nhiều chứa đựng yếu tố biểu cảm
bởi văn học chủ yếu làm cho con người sống tốt đẹp hơn . dạy văn được truyền
thụ cho các em biết yêu môn học,có khả năng biểu cảm tốt là trách nhiệm của
người giáo viên văn đồng thời cũng là niềm vinh hạnh vì chúng tôi đã đào tạo ra
bao lớp người có nhân cách, tâm hồn cao đẹp, sống nhân ái vị tha,biết yêu cái

đẹp ghét cái xấu, cái ác.bản thân tôi sẽ cố gắng tìm tòi, nghiên cứu để có nhiều
phương pháp dạy tốt hơn nữa giúp sự nghiệp đào tạo có nhiều hoa trái ngọt
ngào. Trên đây chỉ là một số những kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã áp
dụng trong năm học và hy vọng đồng nghiệp ủng hộ.
3.2. Đề xuất:

. Đối với phụ huynh
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình ,đầu tư nhiều về thời
gian cho con cái học tập.
- Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn ,định hướng
bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và
phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống.

19


. Đối với phòng giáo dục
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo
viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn.
- Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ
thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy văn.

. Đối với địa phương
Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ
không lành mạnh , làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh .

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2016.

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Lê Thị Huyền

20


PHỤ LỤC

Cảnh Hồ Gươm vào đêm

Tháp Rùa cổ kính
21


Cầu Thê Húc-Đền Ngọc Sơn

Cảnh Đèo Ngang

22


Cảnh sắc xứ Huế

Sông Hương về đêm
23



Cung đình Huế

Chợ Bến Thành

24


Một góc phố Sài Gòn về đêm

Toàn cảnh Sài Gòn
25


×