Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN nâng cao hiệu quả phân môn tiếng việt cho học sinh lớp 6 thông qua việc vận dụng sơ đồ tư duy trong một số hoạt động dạy – học ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 25 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu

Trang
1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2: Mục đích nghiên cứu

1

1.3: Đối tượng nghiên cứu

2

1.4: Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1: Cơ sở lí luận

3


2.2: Thực trạng vấn đề

5

2.3: Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân và

17

đồng nghiệp
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

19
19
19

1


1.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Môn Ngữ văn là một bộ môn chính trong nhà trường. Nhà văn hóa lớn của
nhân loại đã từng nói: “ Văn học là nhân học”. Vậy mà một thực trạng đáng lo
ngại là học sinh bây giờ không còn thích học Văn. Môn Văn đang dần dần mất
vị trí là một môn học chính. Các em thờ ơ với môn văn và dồn tâm huyết cho

một số môn học khác được coi là thực tế hơn, dễ thi tuyển sinh vào các trường
đại học như Toán, Lí, Hóa, Anh…Môn Ngữ văn thực tế là một môn học khó bởi
dung lượng kiến thức nhiều, tâm lí thực dụng nặng nề nên nhiều em thấy học
văn là một công việc mệt mỏi, khó khăn. Đôi khi giờ học Văn đối với các em
thật vất vả. Thực tế cho thấy một thời gian dài, hầu hết các trường đều áp dụng
phương pháp dạy học truyền thống thụ động, một chiều, vừa quá tải về kiến thức
vừa gây nhàm chán cho người học. Chính vì lẽ đó mà khi giao tiếp, nhiều học
sinh không biết diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ, đặt câu rất tùy tiện và kém hiệu quả.
Vậy làm thế nào để vực dậy hứng thú học văn cho học sinh, đó là trăn trở trong
nhiều giáo viên chúng ta.
Đất nước đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Để bắt kịp với bước
tiến của thời đại, con người phải biết hành động một cách năng động và sáng
tạo, thích ứng nhanh với những thay đổi và một khả năng tiếp cận, giải quyết
vấn đề mềm dẻo, linh hoạt. Hơn thế nữa, ta cũng biết rằng: tri thức của tuổi trẻ
là diện mạo của đất nước trong tương la, vì vậy đòi hỏi ngành giáo dục phải có
sự đổi mới kịp thời để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. A. Kômenxki đã
nói: "Giáo dục có mục đích là đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng
đắn, phát triển nhân cách...Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít
hơn, học sinh học nhiều hơn". Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng, giáo viên (GV) không chỉ
căn cứ trên nền tảng của một số phương pháp dạy học truyền thồng vẫn có hiệu
quả mà cần vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để đáp ứng
yêu cầu đào tạo con người mới trong xu thế chung của thời đại hiện nay.
Đó là lí do mà tôi trăn trở, tìm ra một số biện pháp trong phương pháp dạy
học để gửi tới các đồng nghiệp của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Năm học 2016-2017, tôi được phân công dạy môn Ngữ văn 6. Tôi nhận thấy
trong khi nói và viết, các em còn lẫn lộn trong việc dùng từ, đặt câu, sử dụng
chưa thuần thục các từ loại Tiếng Việt trong giao tiếp, bố cục và lời văn hết sức
1



lủng củng. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa. Bởi thế nhằm
đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương pháp, đáp ứng tốt hơn những tiêu
chuẩn về kiến thức và kĩ năng mà mục tiêu môn học đã đề ra, tạo không khí
hứng thú trong giờ học, giúp học sinh yêu thích say mê môn học kiểu như: “có
thích mới nhích tư duy” thì việc làm phong phú, sinh động, khắc sâu vấn đề
bằng kỹ thuật dạy - học mới là rất cần thiết. Chương trình Tiếng Việt lớp 6 hiện
nay được biên soạn theo hướng tích hợp, đồng tâm là luyện. Muốn tiếp thu bài
nhanh học sinh phải có khả năng về tư duy logic, biết khái quát vấn đề một cách
hệ thống. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học phân môn Tiếng Việt
lớp 6. Bản thân tôi thực sự tâm đắc với phương pháp trực quan Sử dụng bản đồ
tư duy trong quá trình dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh
mà nó còn là một phương pháp dạy học rất hiệu quả, khoa học, rất dễ sử dụng.
Để tiến đến sử dụng sơ đồ tư duy lâu dài và đem lại hiệu quả tối ưu, tôi tiến hành
viết đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: “Nâng cao hiệu quả học tập bằng phương
pháp sử dụng bản đồ tư duy cho phân môn Tiếng Việt ( Lớp 6 ), tại trường
THCS Minh Khai, TP Thanh Hóa”. Mong rằng với những kinh nghiệm này có
thể giúp quý đồng nghiệp ít nhiều trong việc làm phong phú thêm phương pháp,
kĩ thuật dạy học phân môn Tiếng Việt nói riêng, môn Ngữ văn nói chung. Rất
mong có sự góp ý chân thành của quý vị để đề tài này được sâu sắc hơn về giá
trị khoa học và tính hiệu dụng của nó.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong phân môn Tiếng Việt lớp 6.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: Hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ
đồng nghiệp, từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu, nhược điểm của đồng
nghiệp để lấy kinh nghiệm cho bản thân.
- Phương pháp so sánh: Với phương pháp này, tôi có thể phân loại, đối chiếu

kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh,
trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Môn Ngữ văn trong trường THCS được xem là môn chủ đạo chiếm thời
lượng số tiết trong tuần khá nhiều so với các môn học khác trong cấp học. Môn
Ngữ văn gồm ba phân môn là Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Ba phân môn
này có quan hệ gắn bó mật thiết hữu cơ với nhau: có kiến thức Tiếng Việt học
sinh mới khai thác hết được giá trị của các tác phẩm văn chương; Học Tiếng
Việt, Văn học để có thể làm tốt bài Tập làm văn…Tuy nhiên mỗi phân môn lại
mang những đặc thù riêng. Đối với phân môn Tiếng Việt, kiến thức phải dựa
trên cơ sở khoa học vững chắc chứ không thể tiếp nhận bằng tư tưởng chủ quan
duy lí trí. Tiếng Việt đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực tư duy
(tư duy hình tượng và tư duy logic), phát triển ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ
khoa học tự nhiên. Dạy-học Tiếng Việt phải hình thành ở học sinh năng lực sử
dụng thành thạo tiếng Việt với bốn kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết để qua
đó mà rèn luyện tư duy. Giúp cho các em yêu quí Tiếng Việt, có ý thức giữ gìn,
bảo vệ, phát triển tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách, bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm. Tuy nhiên xu thế hiện nay cho thấy một thực trạng đáng buồn
là đa số học sinh, kể cả học sinh có năng khiếu văn chương thường ngại học
Tiếng Việt. Các em chưa hiểu thấu đáo giá trị của kiến thức phân môn đối với
việc học Văn. Đã thế phân môn Tiếng Việt lại vừa khô vừa khó. Một đơn vị kiến
thức Tiếng Việt đưa vào bài học thường ngắn nhưng tiếp thu và hiểu thấu đáo,
chuẩn xác về nó thì không đơn giản. Để hiểu một đơn vị kiến thức nhiều khi học
sinh phải huy động kiến thức của nhiều bài đã học trước đó. Chẳng hạn khi học

một đơn vị kiến thức là Từ và cấu tạo của từ Tiếng Việt trong bài “Từ và cấu
tạo từ Tiếng Việt” học sinh phải nắm vững kiến thức về Từ, cấu tạo của từ, phân
loại từ…. Hay khi xác định thành phần phụ của câu nhiều học sinh sẽ khó phân
biệt rõ nếu không nắm vững kiến thức về cụm từ, câu, cách phân tích câu, thành
phần câu… Đây là vấn đề mà chúng tôi - những người đang trực tiếp đứng lớp,
hết sức trăn trở.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những
phương pháp, kĩ thuật dạy - học mới trong đó có việc sử dụng sơ đồ tư duy. Có
thể nói, đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới phương pháp dạy - học
hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng
nổ của ngành Công nghệ thông tin. Để lôi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại”
niềm đam mê, yêu thích môn Ngữ Văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói
3


riêng, sơ đồ tư duy là một trong những kĩ thuật dạy học tích cực mà chúng ta có
thể vận dụng.
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là
phương pháp dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học
nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một
mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét,
màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ
thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm
1960. Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc
xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung
tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng
chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn,
nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ
thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết
này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và

rõ ràng. Việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh dễ hình dung
các đơn vị kiến thức, dễ ghi nhớ những vấn đề phức tạp khi nó được đưa lên sơ
đồ từ đó các em hiểu vấn đề một cách có hệ thống. Tạo cho học sinh thói quen
nhận thức thế giới bằng lối tư duy quan hệ, tính logic của một vấn đề. Với sản
phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” cách học này còn phát triển được năng lực
riêng của từng học sinh về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều
đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), đồng thời còn phát triển khiếu thẩm
mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm
ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập,
không rập khuôn một cách máy móc, các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát
triển ý tưởng riêng của mình, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc
sống. Vì thế,sẽ tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong
học tập. Sử dụng phương tiện dạy học và các thủ thuật dạy học phù hợp sẽ giúp
tiết kiệm thời gian để truyền tải hết nội dung cần thiết. Sơ đồ tư duy, một công
cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật
chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ
tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ… bằng cách sử dụng bút chì màu,
phấn màu, tẩy… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy (Mind
Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như Máy chiếu Projecto,
phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần mềm (Mind Map) để
phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng Công nghệ thông tin
4


2.2. Thực trạng vấn đề
- Về phía giáo viên: thực tế trong nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã
tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, có những tìm tòi trong công tác soạn
giảng. Tuy vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn nhiều hạn chế,
nhất là cách thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức lâu. Giáo viên
chưa đổi mới cách ghi chép nội dung kiến thức bài học theo kiểu kích thích tư

duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Trong một số tiết
học, dù vẫn cố gắng thực hiện theo chủ trương giảm tải nhưng cách tổ chức các
đơn vị kiến thức vẫn còn rườm rà, kiểu như phải ghi chép thành câu, đoạn hoàn
chỉnh, có khi phải nhiều câu dài dòng, trong khi đó chỉ cần một sơ đồ là học sinh
có thể hiểu vấn đề thông suốt. Giáo viên chưa thật sự quan tâm trong việc hình
hóa kiến thức bài học hoặc nếu có thì chủ yếu mới chỉ dừng lại sử dụng mô hình
bảng biểu... trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương, các phần, các
mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng không được
sử dụng đại trà cho tất cả các bài học. Cách làm này có thể nói đã đem lại những
hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho
học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng, bên cạnh những ưu điểm
ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định. Cách làm này chưa thật sự
phát huy hết được tư duy sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lôi cuốn được các em
trong việc tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài
học bởi chủ yếu học sinh trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài
liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng
biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét .
- Về phía học sinh: còn nhiều em học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần
là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý
thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài
ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức
với nhau giữa các bài học, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic và tư
duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Nhiều
em học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học
trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe
giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng
tâm vào trí nhớ của mình.
Bởi vậy, sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Tiếng Việt, rèn luyện cho các
em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong quá trình dạy
5



học Tiếng Việt sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính
độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Các bước thiết kế một SĐTD:
Bước 1: Vẽ trung tâm. Trung tâm bản đồ là nội dung chính chúng ta cần
dùng một hình ảnh hay một bức tranh để thể hiện ý tưởng thay vì chỉ có một
dòng chữ.
Bước 2: Tạo nhánh: Luôn dùng hình ảnh, màu sắc để nhấn mạnh nội dung
quan trọng. Vẽ nhiều đường cong hơn đường thẳng. Vẽ bằng các hình tượng
khác nhau mà vẫn thể hiện được các mối quan hệ không nhất thiết theo các
đường nối.
Bước 3: Trình bày ý tưởng và nội dung bản đồ tư duy đã vẽ.
2.3.2. Cách thức vận dụng sơ đồ tư duy trong quá trình tổ chức các hoạt
động dạy học phân môn Tiếng Việt:
Trong một giờ dạy học theo tinh thần đổi mới giáo viên là người tổ chức,
hướng dẫn để học sinh thực hiện tốt vai trò của chủ thể hoạt động học: tự chiếm
lĩnh tri thức, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo... Điều này đòi hỏi giáo
viên không chỉ vững vàng kiến thức chuyên môn mà còn phải có phương pháp
sư phạm. Vẫn biết rằng, vận dụng kĩ thuật vẽ sơ đồ tư duy có rất nhiều ưu điểm
nhưng vấn đề là phải vận dụng như thế nào, khi nào, cách thức vận dụng ra sao
để đạt hiệu quả tối ưu nhất.
2.3.2.1. Vận dụng linh hoạt, hợp lí sơ đồ tư duy khi tổ chức các hoạt
động dạy học:
Chúng ta có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu
dạy học kiến thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập
hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ,
kiểm tra 15 phút... Tuy nhiên không nên lạm dụng mà cần có sự vận dụng phù
hợp tùy theo nội dung yêu cầu của từng tiết học. Có những tiết sử dụng sơ đồ tư

duy khi kiểm tra bài cũ, có những tiết là khi dạy bài mới, có những tiết vận dụng
sơ đồ tư duy khi học xong nội dung bài học... Không phải ở hoạt động nào trong
một bài cũng vận dụng sơ đồ tư duy. Ta hãy từng bước vận dụng hình thức tổ
chức kiến thức bằng sơ đồ tư duy để hỗ trợ khi cần thiết và thấy hợp lí nhất,
tránh lạm dụng.
- Vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu kiểm tra bài cũ đối với những bài mà nội
dung kiến thức có sự liên hệ với các bài đã học trước đó, người học phải nhớ
được kiến thức bài cũ mới học được bài mới.
6


- Vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu dạy học kiến thức mới đối với những bài
có dung lượng kiến thức dài.
- Vận dụng sơ đồ tư duy vào việc kiểm tra: chủ yếu kiểm tra những kiến thức
lí thuyết mang tính hệ thống, xâu chuỗi. Đề bài cũng nên đưa trước từ khóa để
học sinh dễ dàng nắm bắt yêu cầu của đề.
- Vận dụng sơ đồ tư duy sau mỗi tiết học, trong tiết ôn tập, tổng kết: nhằm
củng cố, khắc sâu, hệ thống kiến thức nhanh nhất.
2.3.2.2. Đối tượng thiết kế sơ đồ tư duy:
- Việc vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu nào, vận dụng như thế nào sẽ phản
ánh tài năng sư phạm của mỗi giáo viên. Đây là kĩ thuật dạy - học không chỉ đòi
hỏi giáo viên phải hiểu kĩ, nắm vững phương pháp mà học sinh cũng phải được
làm quen, nắm vững cách thức, phương pháp vẽ sơ đồ tư duy. Đối với giáo viên,
để hiểu kĩ, nắm vững phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy thì ngoài việc
tham dự các lớp tập huấn chuyên đề cần đọc thêm tài liệu, tập vẽ, ứng dụng vào
quá trình dạy học. Học sinh được làm quen với sơ đồ tư duy trên cơ sở hướng
dẫn của giáo viên trong các tiết phụ đạo, buổi học ngoại khóa. Giáo viên có thể
chọn vẽ sơ đồ tư duy theo mạch kiến thức bài học để vừa hướng dẫn học sinh
cách vẽ sơ đồ tư duy vừa giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách cô đọng,
nhanh gọn, sau đó cho các em dựa vào sơ đồ tư duy đã vẽ thuyết trình lại nội

dung bài học. Mục đích cuối cùng là học sinh tự vẽ sơ đồ tư duy (tự đặt từ khóa
hoặc từ khóa giáo viên cho sẵn).
+ Giáo viên có thể giúp học sinh thiết kế sơ đồ tư duy khi vận dụng vào khâu
dạy học bài mới, bài ôn tập tổng kết ngay trên lớp: Qua hệ thống câu hỏi dẫn dắt
của giáo viên học sinh rút ra kết luận. Giáo viên lần lượt chốt lại vấn đề bằng sơ
đồ tư duy. Sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi
chép có hiệu quả.
+ Học sinh tự thiết kế sơ đồ tư duy theo ý tưởng của mình để trình bày kiến
thức ở khâu kiểm tra bài cũ, củng cố kiến thức sau mỗi bài học hoặc khi làm bài
kiểm tra. Sơ đồ tư duy củng cố kiến thức sau mỗi bài học có thể được thực hiện
ngay trên lớp hoặc giao cho học sinh về nhà tự vẽ, tiết học sau trình bày khi
kiểm tra bài cũ. Học sinh tự làm được điều này có nghĩa là giáo viên đã thực sự
đạt mục đích khi áp dụng kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy. Bởi vì, người thiết
kế bản đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục, để ghi thông
tin cần thiết và lô gic. Học sinh muốn xây dựng một bản đồ tư duy cần phải quan
sát, đọc, tư duy và vẽ. Trong khi vẽ, để thể hiện mối liên hệ kiến thức các em
còn tưởng tượng sáng tạo ra các cách thể hiện khác nhau, cách phối hợp màu sắc
7


để nhấn mạnh các kiến thức quan trọng. Từ đó khi nhìn vào bản đồ tư duy sẽ có
ấn tượng mạnh, khả năng ghi nhớ sẽ nhanh hơn, lâu hơn. Sử dụng bản đồ tư duy
còn giúp các em rèn luyện kĩ năng lựa chọn từ ngữ (từ khóa) để chốt vấn đề, kĩ
năng diễn đạt, trình bày vấn đề, hiểu bản chất vấn đề. Như thế ta đã giúp học
sinh tự rèn luyện bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, học sinh cũng cần
hình thành thói quen tốt: nên lập sơ đồ tư duy trong quá trình chuẩn bị bài mới ở
nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình
đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Bài
học nào học sinh cũng nên vẽ một sơ đồ tư duy và lưu các sơ đồ tư duy lại, đóng
thành từng tập, có thể chia ra từng mảng nếu cần, để sau này tiện cho việc ôn

tập, hệ thống kiến thức. (Có sơ đồ tư duy do học sinh vẽ để minh họa ở phần
sau)
- Sơ đồ tư duy có thể được thiết kế bởi một cá nhân hoặc một nhóm học
sinh. Với những bài ôn tập cần hệ thống một lượng kiến thức khá lớn, toàn diện
các nội dung đã học hoặc những bài khó, giáo viên nên giao việc cho nhóm. Sử
dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm giúp sẽ giúp các em phát huy được tính
sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em, đồng thời kết hợp sức mạnh của các
cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách
hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và
phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn. Sau khi thảo luận thống nhất,
hình thành ý tưởng chỉ cần nhìn vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của
nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học.
2.3.2.3. Kết hợp kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy với các kĩ thuật,
phương pháp dạy học khác
Mỗi kĩ thuật, phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới đều có những
ưu điểm nhất định. Giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, chủ động, sáng
tạo trong từng tiết học cụ thể. Có thể vận dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các kĩ
thuật, phương pháp dạy - học tích cực khác như vấn đáp, gợi mở, thuyết trình…
để giờ học không cứng nhắc, đạt hiệu quả cao.
2.3.2.4. Một vài yêu cầu cần lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét, hình ảnh hợp lý để vừa làm rõ các ý trong
sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa, cuốn hút cho sơ đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết. Nếu
viết dài dòng sẽ dễ làm rối sơ đồ, hơn nữa sẽ dập tắt khả năng gợi mở, liên
tưởng của bộ não. Não sẽ mất hứng thú khi tiếp nhận một thông tin hoàn chỉnh.
Nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn. Khi đó sẽ viết nhanh và khi đọc lại
8


não sẽ được kích thích làm việc để kết nối thông tin, nhờ vậy mà thúc đẩy năng

lực gợi nhớ và dần dần nâng cao được khả năng ghi nhớ.
- Cần chuẩn bị chu đáo dụng cụ.
- Sơ đồ tư duy là sơ đồ mở, vì vậy giáo viên cần tôn trọng sự sáng tạo của
học sinh. Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho các em về mặt kiến thức, góp ý thêm
chứ không nên phủ nhận chê bai về đường nét vẽ, màu sắc, hình thức... Cần
khuyến khích, tuyên dương những sơ đồ tư duy đảm bảo kiến thức trọng tâm,
trình bày khoa học, đẹp, hài hòa về dường nét, màu sắc.
2.3.3. Các hình thức hoạt động vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
Tiếng Việt
2.3.3.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ
đề của kiến thức cũ mà các em đã học cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ sơ đồ tư
duy thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy
kết hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và
định hình được cách vẽ sơ đồ tư duy theo yêu cầu.
* Ví dụ :
Sau khi các em học xong bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt”(Tiết 3 theo phân
phối chương trình), trước khi tìm hiểu các kiến thức mở rộng có liên quan đến từ
và cấu tạo từ, giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập SĐTD để củng
cố, hệ thống kiến thức đã học ở tiết học trước thông qua câu hỏi sau: Từ là gì?
Từ có cấu tạo như thế nào? Từ được chia làm mấy loại?
+ Giáo viên ghi cụm từ khóa lên bảng: “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt”.
+ Học sinh lên bảng vẽ sơ đồ tư duy theo ý tưởng của mình .
+ Học sinh thuyết trình kiến thức qua sơ đồ tư duy đã vẽ.
+ Cả lớp lắng nghe, quan sát, nhận xét. Giáo viên kết luận, cho điểm.

9


HÌNH 1:SƠ ĐỒ MINH HỌA CHO BÀI “TỪ VÀ CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT”


2.3.3.2. Sử dụng sơ đồ tư duy để dạy bài mới và ghi bảng:
- Việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy - học bài mới sẽ giúp học
sinh từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một
cách khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm
thể hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt bởi câu hỏi của
giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý
lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống. Khi học sinh rút ra kết luận giáo viên
giúp các em vẽ nhánh chính, phụ và ghi bài trên sơ đồ một cách ngắn gọn đến
khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và
10


trình bày một cách sinh động, khoa học, sáng tạo và hoàn thiện. Với cách làm
này khi bài học kết thúc học sinh đã có ngay một sơ đồ tư duy để hệ thống hóa
bài học một cách nhanh nhất. Sơ đồ tư duy ấy không chỉ cung cấp cho các em
“bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ
dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Việc kết hợp sử dụng sơ đồ tư
duy trong việc tổ chức dạy - học bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến
thức thay cho việc ghi bảng vừa tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại
vừa có tác dụng hình thành cho học sinh thói quen ghi chép bằng sơ đồ tư duy.
Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ sơ đồ tư duy
cho các em, nhất là những bài học nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức. Do đó,
giáo viên có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng để học sinh ghi chép. Tuy
nhiên, ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép chứ không
nên lạm dụng sơ đồ tư duy để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác,
việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi ta sử dụng phần mềm Mind
Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Giáo viên nên đánh số thứ tự vào các
khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý chính trong mỗi đơn vị kiến
thức của bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở.

Giáo viên cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát sơ đồ tư duy
và thuyết trình - “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.
* Ví dụ: Học bài “Danh từ” tiết 32, Ngữ văn 6 tập 1.
- Giáo viên ghi từ khóa “Danh từ”.
- Cho học sinh đọc, phân tích ví dụ trong sách giáo khoa.
- Qua việc tìm hiểu ví dụ giáo viên chốt kiến thức theo từng phần cho học
sinh nắm được Danh từ là gì? Đặc điểm của Danh từ? Phân loại Danh từ?
- Giáo viên giúp các em vẽ nhánh chính, nhánh phụ và ghi bài trên sơ đồ tư
duy.
- Học sinh có thể vẽ theo mô hình sơ đồ tư duy trên bảng hoặc trên cơ sở
kiến thức đã hệ thống tự vẽ sơ đồ tư duy theo ý tưởng của mình.

11


HÌNH 2:SƠ ĐỒ MINH HỌA CHO BÀI “DANH TỪ”

2.3.3.3. Sử dụng sơ đồ tư duy sau mỗi bài học, mỗi phần của bài học:
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi bài
học, giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ sơ đồ tư duy để củng cố, hệ
thống phần kiến thức đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.
* Ví dụ : Khi dạy xong bài “Phó từ” tiết 75 Ngữ văn 6 tập 2, giáo viên yêu
cầu học sinh tóm tắt lại nội dung bài học trên sơ đồ câm hoặc tự vẽ một sơ đồ tư
duy. Trên cơ sở đó học sinh đã rèn cho mình kĩ năng khái quát hóa, hệ thống hóa
kiến thức đã học một cách ngắn gọn, cô đọng, súc tích nhất. Học sinh sẽ ghi nhớ
kiến thức lâu hơn, phát huy được tính sáng tạo riêng.

12



HÌNH 3: SƠ ĐỒ MINH HỌA CHO BÀI “PHÓ TỪ”

2. 3.3.4. Sử dụng sơ đồ tư duy khi dạy học bài ôn tập, tổng kết:
Để việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài ôn tập, tổng kết được thuận
lợi, có hiệu quả thì sau mỗi bài học Tiếng Việt giáo viên đều giao cho học sinh
tự thiết kế một sơ đồ tư duy theo ý tưởng riêng của mình. Trên cơ sở kiến thức
đã học và các sơ đồ tư duy đã có thì việc nắm bắt nội dung ôn tập sẽ tốt hơn.Từ
đó giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt từng đơn vị lý thuyết kết hợp làm bài tập. Sau
mỗi đơn vị kiến thức giáo viên gọi học sinh lên vẽ các nhánh chính, phụ để hoàn
thiện một sơ đồ tư duy chung cho cả bài ôn tập, tổng kết.
* Ví dụ 1: Vận dụng sơ đồ tư duy khi dạy bài “Ôn Tập Tiếng Việt” Tiết 66
lớp 6 kì I.
- Học sinh chuẩn bị tập sơ đồ tư duy về các bài học Tiếng Việt đã học có
trong nội dung bài “Ôn Tập Tiếng Việt”.
- Sau khi giới thiệu bài mới giáo viên ghi cụm từ trung tâm “Ôn Tập Tiếng
Việt”

13


- Giáo viên dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm hiểu các nội dung ôn tập
theo trình tự sách giáo khoa: Kết hợp củng cố lý thuyết với làm bài tập cho từng
đơn vị kiến thức. Học sinh trả lời và lên trình bày bằng cách vẽ nhánh, điền nội
dung chi tiết một cách ngắn gọn, cô đọng.
- Sau khi lập sơ đồ tư duy cho mỗi nhánh ta sẽ có một sơ đồ tư duy khái
quát cho cả bài ôn tập.
- Học sinh xếp các sơ đồ tư duy cho mỗi đơn vị kiến thức theo trình tự nội
dung ôn tập, để sơ đồ chung khái quát nhất ra ngoài và đóng thành tập để làm tư
liệu .


HÌNH 4: SƠ ĐỒ TƯ DUY MINH HỌA CHO BÀI “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT” LỚP 6 KÌ I

14


*Ví dụ 2: Vận dụng sơ đồ tư duy khi dạy bài “Tổng kết phần Tiếng Việt”
Tiết 135 Ngữ văn 6 kì II.
- Học sinh chuẩn bị tập sơ đồ tư duy về các bài học tiếng Việt đã học có
trong nội dung bài “Tổng kết phần Tiếng Việt”.
- Sau khi giới thiệu bài mới giáo viên ghi cụm từ trung tâm “Tổng kết phần
Tiếng Việt”
- Giáo viên dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm hiểu các nội dung ôn tập
theo trình tự sách giáo khoa: Kết hợp củng cố lý thuyết với làm bài tập cho từng
đơn vị kiến thức. Học sinh trả lời và lên trình bày bằng cách vẽ nhánh, điền nội
dung chi tiết một cách ngắn gọn, cô đọng.
- Sau khi lập sơ đồ tư duy cho mỗi nhánh ta sẽ có một sơ đồ tư duy khái
quát cho cả bài tổng kết.
- Học sinh xếp các sơ đồ tư duy cho mỗi đơn vị kiến thức theo trình tự nội
dung ôn tập, để sơ đồ chung khái quát nhất ra ngoài và đóng thành tập để làm tư
liệu .

15


HÌNH 5: SƠ ĐỒ TƯ DUY MINH HỌA CHO BÀI “TỔNG KẾT TIẾNG VIỆT” LỚP 6 KÌ II

2.3.3.5. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Chúng ta cũng có thể dùng sơ đồ tư duy trong các hình thức kiểm tra trên
giấy (15 phút, 1 tiết) để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư
duy hệ thống cho học sinh. Thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển

năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng
kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ sơ đồ tư duy chỉ là một hình thức
kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý
thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống,
xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng sơ đồ tư duy. Ví dụ: lập sơ
đồ tư duy về Từ loại (xét về cấu tạo), về các Phương châm hội thoại, về Trau dồi
vốn từ, về Nghĩa của từ, Các cách phát triển từ vựng... Mặt khác, về yêu cầu của
đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể,
khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định
hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác yêu cầu đề và có thể vẽ đúng sơ
đồ tư duy.
- Việc yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy trong đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết đều
có thể được nhưng giáo viên phải căn cứ vào thời gian để có yêu cầu phù hợp.
Dựa vào hệ thống câu hỏi để học sinh xác định vẽ chi tiết hay sơ lược, kiến thức
thể hiện trên sơ đồ tư duy đơn giản hay phức tạp... Đối với bài kiểm tra 1 tiết
nên yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tổng hợp nhiều đơn vị kiến thức bài học hơn, chi
tiết hơn. Giáo viên cũng có thể vừa ra các câu hỏi yêu cầu học sinh trình bày
bằng ngôn từ vừa ra câu hỏi yêu cầu học sinh trình bày bằng sơ đồ tư duy.
Trước giờ kiểm tra giáo viên cũng nhắc học sinh mang theo dụng cụ: bút
mầu, bút chì...
* Ví dụ :
- Với bài kiểm tra kiến thức về ‘Cụm động từ” giáo viên có thể hỏi:
H. Nêu khái niệm cụm động từ?Đặc điểm, chức vụ và cấu tạo của cụm động
từ?
(Em hãy trình bày bằng sơ đồ tư duy)

16


HÌNH 6 : HÌNH MINH HỌA CHO BÀI KIỂM TRA 15 PHÚT VỀ « CỤM ĐỘNG TỪ »


2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân và đồng nghiệp.
- Sau một thời gian sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học phân môn Tiếng
Việt lớp 6 ở từng mức độ khác nhau từ ít đến nhiều từ đơn giản đến phức tạp, tôi
thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Không khí thi đua, tích cực học tập
giữa các cá nhân và giữa các nhóm trong phần lớn các tiết học trở nên sôi nổi.
17


Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn, đa số các em học sinh khá, giỏi đã
biết sử dụng sơ đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số
học sinh trung bình đã biết dùng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học ở
mức đơn giản. Đặc biệt các em học sinh đã biết sử dụng sơ đồ tư duy phù hợp
với từng đơn vị bài học, không lạm dụng và tùy tiện. Nhiều em đã thấy hứng thú
hơn khi học giờ Tiếng Việt. Trong năm học 2016-2017 thực tế kết quả kiểm tra
cho thấy chất lượng dạy- học Tiếng Việt ở lớp 6C đã có nhiều chuyển biến tích
cực.
- Cụ thể:
+ Khi chưa áp dụng:
Điểm
Đối
02

Số
tượng
số
lượng
Lớp 6C 44
0


Điểm
2  4,9

S

Số
%
%
lượng
0 14
32

Điểm
5,0  6,4
Số
%
lượng
20
45

Điểm
6,5  7,9
Số
%
lượng
10 23

Điểm
8,0 10,0

Số
%
lượng
0
0

Điểm
5,0  6,4
Số
%
lượng

Điểm
6,5  7,9
Số
%
lượng

Điểm
8,0 10,0
Số
%
lượng

+ Khi đã áp dụng:

Đối
tượng



số

Lớp
6C

44

Điểm
02
Số
lượng
0

Điểm
2  4,9
Số
%
%
lượng
0 0

0

21

48

14

32


9

20

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Muốn truyền lửa đến tâm hồn người học thì bản thân người dạy phải có
lửa trong trái tim mình. Ngọn lửa trí tuệ và nhân cách người thầy có ảnh hưởng
đến nhân cách, tác động đến người học ý thức về sự đam mê, tự khám phá. Phát
huy tính chủ động trong việc học của học sinh, công việc của người thầy không
chỉ dừng lại ở việc cung cấp tri thức một cách nghèo nàn, tẻ nhạt. Người thầy
18


bên cạnh việc trau dồi để có kiến thức vững vàng thì cũng cần phải có phương
pháp dạy- học tốt. Người thầy có phương pháp dạy - học phù hợp, hiệu quả sẽ
giống như có được chiếc chìa khóa vạn năng mở ra cách cửa tri thức, giúp học
sinh đến với chân trời tri thức bao la một cách nhẹ nhàng và đầy lí thú. Trong
các phương pháp dạy - học tích cực thì việc vận dụng kĩ thuật dạy – học bằng sơ
đồ tư duy có tính ứng dụng và rất khả thi. Với những ưu điểm của nó, vận dụng
sơ đồ tư duy trong dạy- học Tiếng Việt không chỉ hình thành tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách hệ thống, khoa học giúp học sinh tiếp thu tốt kiến
thức; phát huy tính năng động, sáng tạo; rèn luyện nhân cách con người mới chủ
động, linh hoạt vận dụng kĩ năng đã được rèn luyện vào thực tế cuộc sống mà
còn tạo không khí sôi nổi, hào hứng trong hoạt động dạy - học của cả thầy và trò
. Đây là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát
động.
3.2. Kiến nghị:

- Liên đội nhà trường nên đưa nội dung “thi vẽ sơ đồ tư duy” vào sinh hoạt
ngoại khóa ngay từ đầu năm học mới để học sinh các khối lớp được làm quen,
giao lưu, học hỏi.
- Mỗi người cần tìm ra con đường riêng của mình, có sự vận dụng kĩ thuật,
phương pháp dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, thời
gian, đối tượng ...để đạt hiệu quả tối ưu nhất. Không nên vận dụng một cách dập
khuôn máy móc.
- Ngành giáo dục cần quan tâm đầu tư đồng bộ hơn nữa về trang thiết bị, cơ
sở vật chất để việc đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, góp phần nâng
cao chất lượng dạy - học trong các nhà trường.
Kinh nghiệm trên đây cũng chỉ là một trong những con đường riêng ấy.
Xin được chia sẻ với tất cả các đồng nghiệp để việc dạy - học phân môn tiếng
Việt nói riêng, môn Ngữ văn nói chung ngày càng hiệu quả. Kính mong nhận
được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

19


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 30 tháng 3 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Vũ Thị Thủy

20



Tài liệu tham khảo
1. Lê A-Nguyễn Quang Ninh-Bùi Minh Toán, Phương pháp dạy học
Tiếng Việt (Nhà xuất bản giáo dục-1996)
2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần
TCH HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm
2009.
3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động – Xã
hội.
4. Stella Cottrell (2003), The study skills handbook (2nd edition), PalGrave
Macmillian.
5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan).
6. Tài liệu tập huấn chuyên môn do phòng giáo dục đào tạo tổ chức.

21


SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP BẰNG PHƯƠNG PHÁP SỬ
DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY CHO PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT( LỚP 6
), TẠI TRƯỜNG THCS MINH KHAI, TP THANH HÓA

Người thực hiện: Vũ Thị Thủy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Minh Khai

SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2018
22


23


24


×