Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vận dụng một số trò chơi trong dạy học ngữ văn 6 ở trường THCS nguyệt ấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.18 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Tên đề mục

Trang

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích của đề tài

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1. Cơ sở lý luận


2

2.2. Thực trạng của vấn đề

4

2.3. Một số kinh nghiệm và cách thức tổ chức

5

* Những giải pháp chung

5

* Những giải pháp cụ thể

5

2.3.1. Trò chơi ném từ

5

2.3.2. Trò chơi ai nhanh ai giỏi

6

2.3.3. Trò chơi điền bảng

9


2.3.4. Trò chơi đọc thơ

10

2.3.5. Trò chơi xem tranh đoán bài, giới thiệu về bài

11

2.3.6. Trò chơi ô chữ

13

2.3.7. Trò chơi tạo chuỗi câu móc xích

14

2.3.8. Trò chơi đóng vai các nhân vật trong bài đọc

15

2.3.9. Trò chơi gợi ý đoán từ

16

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

16

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


18

3.1. Kết luận

18

3.2. Kiến nghị

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

20

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN

21

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Bất kì môn học nào, không riêng gì môn Ngữ văn, tạo được hứng thú, yêu
thích và đỉnh cao là đam mê, là một cơ sở nền móng cho những viên gạch tri
thức hay những muc tiêu khác vươn cao ...Nhưng dạy học vừa là khoa học, vừa
là nghệ thuật. Nhà giáo dục John Amos Comenius (Tiệp Khắc cũ) đã quan niệm
nghệ thuật dạy học là “một loại nghệ thuật mà khi đem dạy thì làm cho người ta
cảm thấy vui vẻ, có nghĩa là, nó không thể làm cho giáo viên buồn phiền, làm
cho học sinh nhàm chán, mà có thể làm cho giáo viên và học sinh đều có được

hứng thú lớn nhất”. Vậy, làm thế nào để tạo hứng thú, động lực cho học sinh?
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn Ngữ văn THCS, mỗi
lần lên lớp, bản thân luôn băn khoăn trước việc học của học sinh mình. Môn
Ngữ văn cũng là một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục. Nhưng tại
sao các em ít đạt điểm khá giỏi mặc dầu thang điểm cũng có 9,10; dù giáo viên
rất nhiệt tình giảng dạy? Hay các em chưa có hứng thú học văn? Khi lên lớp
kiểm tra, nhiều em chưa biết cách soạn văn bản cho đúng cách, chưa biết tóm tắt
một văn bản cho ngắn gọn, đủ nội dung. Như vậy làm sao các em cảm thụ được
văn bản chuẩn bị tìm hiểu? Có những em còn chưa hề đọc trước văn bản ở nhà
mặc dù gia đình tạo điều kiện về thời gian học tập cho các em. Còn đối với phân
môn Tiếng Việt, học bài mới nhưng đa số các em chỉ học bài cũ mà không xem
đến bài mới trước, mặc dù giáo viên đã dặn dò. Đặc biệt phân môn tập làm văn
thì học sinh có vẻ hời hợt nhất vì các em cho rằng “khô, khó khổ” nên gần như
các em ít chuyên tâm. Kiến thức có được chủ yếu do giáo viên cung cấp, học
sinh còn thụ động. Tôi đã làm một hệ thống trắc nghiệm như sau:
Trong các bộ môn em thích học những bộ môn nào?
Tiếng
Môn
Toán Lí Hóa Sinh Văn Sử Địa lí
GDCD
Anh
Thích
Không
Qua điều ta cho thấy bộ môn Ngữ văn là một trong những bộ môn mà các
em ít chọn. Tại sao như vậy? Tại sao các em lại ít hứng thú học môn Ngữ văn?
Với những trăn trở trên, cùng một nhiệt huyết yêu nghề mong sao có
những kết quả cao từ phía HS, tạo cho các em một hứng thú, tự giác học tập bộ
môn này đặc biệt với HS lớp 6 - lớp học đầu tiên của bậc THCS. Qua quá trình
giảng dạy nghiên cứu áp dụng, tôi nghiệm ra rằng tổ chức cho HS tham gia
những trò chơi phù hợp ngay trong những giờ học hoặc giờ ngoại khoá môn Văn

sẽ tạo hứng thú, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của các em.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài “ Vận dụng một số trò chơi trong dạy học
Ngữ văn 6 ở trường THCS Nguyệt Ấn ”.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, bản thân muốn góp phần giải quyết tình trạng lười học,
chán học, không hứng thú trong học tập môn Ngữ văn của học sinh trong nhà
trường hiện nay.
Góp phần nâng cao chất lượng học tập, tạo hứng thú trong học tập môn
Ngữ văn cho HS. Giúp học HS nắm đựơc những kiến thức chuẩn môn học một
cách nhẹ nhàng thông qua những trò chơi phù hợp. Từ đó tạo điều kiện cho giáo
viên hứng khởi hơn trong giờ dạy - học văn. Cụ thể:
Giảm tỉ lệ HS yếu kém môn Ngữ văn trong nhà trường
Nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng văn hoá của
nhà trường nói chung góp phần nâng cao ý thức học tập của HS trong nhà
trường.
Giúp HS có hứng thú, ham học môn Ngữ văn.
Tạo cho HS tâm lí thoải mái khi học, mạnh dạn trao đổi ý kiến với bạn bè,
thầy cô, hoà đồng với bạn bè, thầy cô; tạo môi trường thân thiện trong nhà
trường.
Giúp HS khắc phục được lối học thụ động, không hứng thú trong học tập
môn văn, từ đó dần dần củng cố được những kiến thức cũ và tiếp thu kiến thức
mới một cách tự giác.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các trò chơi có thể vận dụng vào dạy học Ngữ văn lớp 6 nói riêng, Ngữ
văn THCS nói chung.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận và thực

nghiệm, cơ bản gồm một số phương pháp sau:
- Phương pháp đọc, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích, so sánh.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Ngày 24/01/2002, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký và cho ban
hành Quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT. Môn Ngữ văn được triển khai dạy
học theo nguyên tắc tích hợp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS.
Tiếp nối con đường đổi mới đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của BCH TW
Đảng khoá VIII nêu rõ: “đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”,
“phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
3


của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Gần đây nhất,
Nghị quyết Hội nghị TW 8 khóa XI (số 29/2013) về đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục và đào tạo xác định: “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú
trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học,
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả
năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
Đã hơn một thập kỉ đổi mới song, do nhiều nguyên nhân, đổi mới PPDH
vẫn còn sức ì không hề nhỏ. Cách dạy này không thể không ảnh hưởng đến việc
tiếp nhận tri thức một cách thụ động của HS. HS máy móc rập khuôn tiếp nhận
chứ chưa tích cực tự giác, sáng tạo. Một mặt, dạy văn không chỉ là truyền thụ

kiến thức mà còn phải hấp dẫn lôi cuốn HS, làm cho HS thích thú, say mê. Có
thể nói “văn học là nhân học”: kết tinh nhiều giá trị văn hoá của dân tộc cũng
như của nhân loại, là môn học có ý nghĩa trong việc hình thành phát triển nhân
cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em. Mặt
khác, đây là môn học nghệ thuật kích thích, bồi dưỡng trí tưởng tượng bay bổng,
sáng tạo của các em HS. Bởi thế môn này đảm nhiệm kép: vừa là khoa học vừa
là nghệ thuật. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học có hiệu quả, người GV
cần phải sử dụng linh hoạt các phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp,
nêu vấn đề, gợi mở... và đặc biệt để tạo một giờ học phong phú, sinh động thì
việc lồng ghép tổ chức các trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh
cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn không gây nhàm chán trong một số tiết
học môn Ngữ văn.
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và chủ
yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Nhưng qua trò chơi người chơi còn được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác
quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè trong tổ, nhóm
... Đối với học sinh THCS thì hoạt động chơi không còn đóng vai trò chủ đạo,
song cùng với học thì chơi là nhu cầu không thể thiếu và nó đóng một vai trò
quan trọng đối với các em. Nếu ta biết tổ chức cho học sinh chơi một cách hợp
lý, khoa học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. Vì vậy trò chơi học tập khi được
sử dụng trong giờ học Ngữ văn ở THCS không chỉ làm thay đổi những hình thức
học tập đơn giản, truyền thống không hiệu quả mà qua các trò chơi được tổ
chức không khí lớp học sẽ trở nên thoải mái, dễ chịu và việc thu nhận kiến thức
mới, củng cố và nâng cao kiến thức cũ cũng vì thế tự nhiên, nhẹ nhàng và thoải
mái hơn. Do đó phương châm của chúng tôi là: học mà chơi, chơi mà học.
Trong năm học vừa qua, tôi và đồng nghiệp cũng đã tiến hành áp dụng một
số phương pháp vào việc tạo hứng thú trong giờ học Ngữ văn 6 trong đó việc
4



“Vận dụng một số trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 ở trường THCS Nguyệt
Ấn” đã đạt được kết quả như mong đợi. Đó là học sinh ngày càng yêu thích môn
học này hơn và kết quả học tập càng cao hơn.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Thực tế những năm gần đây cho thấy học sinh nói chung và học sinh
trường THCS Nguyệt Ấn nói riêng rất yếu môn văn, ít ham thích học văn.
Học sinh lớp 6 vừa từ tiểu học lên vẫn còn xa lạ với cách của bậc THCS,
vẫn còn học sinh chưa đọc thông, viết thạo. Đây là một trở ngại quá lớn khi các
em lại phải tiếp tục tìm hiểu, khám phá những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn,
trừu tượng hơn. Từ đó dẫn đến việc mất dần kiến thức và kĩ năng cơ bản, dẫn
đến chán học, không hứng thú học văn.
Hiện nay chương trình vẫn còn những bài dài, dung lượng kiến thức lớn
hơn so với thời lượng từ 45- 90 phút nghiên cứu trên lớp, thiết kế chưa đa dạng,
sinh động nên HS lại càng khó tiếp thu kiến thức. Chính điều này mà HS bị hạn
chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ kiến thức Ngữ văn.
Học sinh lười học, không chịu đầu tư suy nghĩ, phát biểu xây dựng bài
trong giờ học, khâu chuẩn bị bài còn hời hợt, tiếp thu bài chậm. HS học thụ
động, thiếu sáng tạo; không biết tự học; thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa
trò với trò; học thiếu hứng thú, đam mê, ...
Có thể nói nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động
thiếu hào hứng của HS. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại
bùng nổ khoa học công nghệ, cũng không khó hiểu khi phần lớn HS chỉ muốn
học các nghành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, ...ít HS hứng thú học văn,
bởi phần đông HS nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã
hội, không học vẫn biết đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một
chút, ra đời vẫn không sao, vẫn nói và viết được, còn không học ngoại ngữ,
không học khoa học, kĩ thuật thì coi như khó có cơ hội việc làm.
Một số giáo viên còn lúng túng trong phương pháp giảng dạy, không biết
làm thế nào để tạo hứng thú cho HS trong học tập và nắm bắt những kiến thức
trọng tâm của bài học một cách nhẹ nhàng và sinh động nhất.

Theo điều tra ban đầu số lượng HS ham thích học môn Ngữ văn còn rất ít,
khoảng 30%. Từ việc không yêu thích học môn văn dẫn đến kết quả học tập
chưa đáp ứng được yêu cầu.
Cụ thể kết quả khảo sát đầu năm môn Ngữ văn 4 lớp từ 6A1 đến 6A4
trường THCS Nguyệt Ấn (khi chưa áp dụng kinh nghiệm - Đề khảo sát của
Phòng Giáo dục và đào tạo) như sau:
Tổng số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
6
50
94
19
04
173
(3,6%)
(28,9%)
(54,3%)
(10,9%)
(2,3%)
5


Với kết quả như trên so với yêu cầu của nhà trường đặt ra thì quả là đáng
lo ngại. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi rất băn khoăn và trăn
trở làm thế nào giúp các em ham học bộ môn này hơn, để các em tiến bộ và đạt
được kết quả cao hơn. Nếu cứ duy trì tình trạng dạy và học như thế này thì chắc

chắn sẽ không cải thiện được mà thậm chí còn làm cho HS ngày càng sa sút hơn,
nhàm chán hơn khi học bộ môn này.
Trên cơ sở đó, việc giúp HS ham học môn Ngữ văn, nắm bắt được những
kiến thức cơ bản của bài học, là một yêu cầu cấp thiết mà mỗi giáo viên trong tổ
Ngữ văn chúng tôi cần phải nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trong giảng dạy để đạt
được kết quả cao. Một trong những đề xuất của bản thân tôi để thực hiện yêu
cầu đó là ““Vận dụng một số trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 ở trường
THCS Nguyệt Ấn ” để tạo hứng thú học văn cho HS.
2.3. Một số kinh nghiệm và cách thức tổ chức
* Những giải pháp chung
- Lựa chọn hình thức chơi
Đối với trò chơi học tập đòi hỏi giáo viên phải tư duy, sáng tạo lựa chọn
hình thức chơi cho phù hợp với mục đích, yêu cầu từng bài tập, từng tiết học,
từng đối tượng sao cho đạt được kết qua hoạt động cao nhất.
- Luật chơi trò chơi học tập
Phải rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài
cho việc hướng dẫn, huấn luyện.
- Đối tượng tham gia trò chơi
Trò chơi phải hướng tới đảm bảo tất cả HS trong lớp đều được tham gia.
Tuy nhiên đối với những HS học còn yếu, nhút nhát GV chỉ nên chỉ định tham
gia vào những trò chơi dễ để tạo cơ hội cho các em hình thành được nhiệm vụ
của mình, từ đó khích lệ tinh thần học tập, giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn
trong học tập.
GV phải định hướng, hướng dẫn nhằm đạt được mục đích, ý đồ bài học.
- Chuẩn bị
- Tuỳ nội dung bài mà chuẩn bị ở nhà hay trên lớp. Dùng bảng phụ, phiếu học
tập tự làm phương tiện dạy học hay trên máy chiếu.
- Bố trí chia lớp phù hợp.
* Những giải pháp cụ thể
2.3.1. Trò chơi: Ném từ

Mục đích:
- Phát triển những hiểu biết về Động từ (Tiết 65), luyện tập phản ứng nhanh về
ngôn ngữ.
Chuẩn bị:
- Một quả bóng nhỏ hoặc một vật gì đó để ném (tung) và bắt.
6


Cách thức tiến hành:
- Người chơi đứng thành vòng tròn. Một người cầm quả bóng ném cho một
người khác đồng thời hô to lên một động từ có đối tượng. Người được bạn mình
ném bóng tới phải bắt quả bóng đồng thời trong khoảng 10 giây (người ném
bóng dùng cách đến từ 1 đến 10 để ước lượng thời gian) phải nói lên được tên
của một vật gì đó là đối tượng của hành động mà bạn mình vừa nêu trong động
từ. Sau đó người thứ hai này lại ném quả bóng cho người thứ ba và hô to lên một
động từ cho người thứ ba này đáp lại. Ví dụ:
+ Người thứ nhất: Cắt! (Ném quả bóng cho một người nào đó).
+ Người thứ hai: Tóc! (Ném quả bóng đồng thời hô to “Chải!”)
+ Người thứ ba: Đầu! (Ném quả bóng đồng thời hô to “Xây dựng!”)
+ Người thứ tư: Đất nước! (Ném quả bóng đồng thời hô to “Tìm hiểu!”)
+ Người thứ năm: Bạn bè!
- Trò chơi cứ như thế tiếp tục, nhưng các động từ nêu ra phải không lặp lại. Nếu
động từ nêu ra bị lặp lại, người nêu sẽ bị trừ một điểm. Người đến lượt mình mà
không nêu ra tên của vật phù hợp với động từ của người trước đó hoặc không
nói ra được động từ cho cho người kế tiếp đối đáp lại thì mỗi trường hợp đều bị
trừ đi một điểm. Người nào bị trừ ba điểm thì bị loại khỏi cuộc chơi (hoặc bị bắt
phạt làm một điều gì đó rồi mới được tiếp tục chơi). Khi chấm dứt cuộc chơi,
những người nào bị trừ ít điểm nhất sẽ thắng.
- Nếu lớp học đông, có thể tổ chức lớp thành hai đội thi đấu với nhau. Hai đội
xếp hàng, đứng đối diện nhau, quả bóng được chuyền cho người đối diện. Đội

nào ít lỗi hơn sẽ thắng.
- Lưu ý: Vì trong SGK NV6 không đề cập đến khái niệm động từ có đối tượng
(động từ ngoại động) nên trước khi bắt đầu trò chơi, GV cần dành ít phút để nói
thêm về khái niệm này và làm mẫu cho HS bằng một số kết hợp. Có thể vận
dụng tương tự cho từ loại Tính từ (Tiết 68).
2.3.2. Trò chơi: Ai nhanh, ai giỏi
Mục đích:
- Hình thành được yêu cầu về kiến thức SGK, chuẩn kiến thức.
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng các thành viên trong nhóm
- Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể.
Chuẩn bị:
- Lớp đọc kĩ và xác định yêu cầu bài tập.
- Chia học sinh thành 2 - 4 nhóm tuy vào từng bài, đặc điểm lớp học.
- Chia bảng, phấn, phiếu học tập…..cho nhóm.
- Quy định thời gian chơi.
Cách thức tiến hành:
Giáo viên hô hiệu lệnh, các nhóm cùng làm theo kiểu tiếp sức.
7


Ví dụ:
a. Vẽ đường biểu thị từ loại từ cột A với cột B (Bài: Ôn tập Tiếng Việt, Tiết 71,
NV6, Tập 1)
A
B
bàn
ăn
vuông
Danh từ
một

cây
này
Động từ
những
cục
xanh
Tính từ
thứ nhất
ngủ
kia
Số từ
tất cả
lít
béo
Lượng từ
chạy
mét
đó
Chỉ từ
vài ba
đánh
mỗi
nay
đẹp
tám
từng
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm.
- Mỗi nhóm có một phiếu học tập.
- Trong cùng thời gian nhóm nào nối đúng được nhiều, nhóm đó chiến thắng.
- Chơi kiểu tiếp sức, tất cả thành viên trong nhóm đều tham gia chơi.

b. Trò chơi đổi chỗ (Bài: “Hoán dụ”, Tiết 109, NV6, tập 2 )
Chia những người tham gia thành 2 đội:
+ Đội A là những người sẽ chuyển thành chữ đã được sắp xếp theo thứ tự a, b,
c… sang vị trí những thanh chữ có nghĩa tương ứng được sắp xếp theo thứ tự 1,
2, 3…
+ Đội B sẽ chuyển thanh chữ có thứ tự a, b, c…(tức là chuyển về vị trí vốn có
của nó trong các câu văn, thơ).
Đội nào nhanh hơn, đúng sẽ thắng.
? Những thành ngữ sau đã thực hiện phép tu từ gì? Vì sao?
8


Đội A
Đội B
Chồng em (a) nghèo khổ em thương
ăn cơm đứng
Chồng người (b) giàu sang phú quý mặc người
ăn cơm nằm
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
áo rách
(c) Tình cảm lầm chỗ để trên (d) lý trí
áo gấm xông hương
(e) ít miệng thì kín, (g) nhiều miệng thì hở
đầu
Ra thế! To gan hơn béo bụng
trái tim
Anh hùng đâu cứ phải (h)đàn ông
chín
Làm ruộng (i) rất dễ dàng
một

Nuôi tằm (k) rất khó
mày râu
c. Cho biết câu nào dùng từ đúng? (Bài Chữa lỗi dùng từ, Tiết 28, NV6, Tập1)
- Tìm câu dùng đúng và giải nghĩa từ dùng đúng ?
- Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm. Mỗi nhóm chịu trách nhiệm một số câu (A
hoặc B, C, D) theo cách bốc thăm. GV chấm điểm theo quy định.
A
B
a1) Tính nó cũng dễ dàng
a1) An rất thân thiết với bạn bè
a2) Tính nó cũng dễ dãi
a2) An rất thân thích với bạn bè
b1) Ông ngồi dậy cho dễ dàng
b1) Nước sông đỏ ngầu
b2) Ông ngồi dậy cho dễ chịu.
b2) Nước sông đỏ rực.
c1) Tình thế không thể cữu vãn nổi
c1) Anh ấy là người rất kiên cố
c2) Tình thế không thể cứu vớt nổi
c2) Anh ấy là người rất kiên cường
d1) Hùng là một người cao ráo
d1) Thấp thoáng, đã mười năm trôi qua
d2) Hùng là một người cao to
d2) Thấm thoát, đã mười năm trôi qua
e1) Nó rất ngang tàn
e1) Chiến sĩ của ta ngang tàn, bất khuất
e2) Nó rất ngang tàng.
e2) Chiến sĩ của ta ngang tàng, bất khuất
C
D

a1) Lớp học có nền nếp tốt
a1) Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc
a2) Lớp học có nề nếp tốt
lập
b1) Tôi nghe nói phong phanh như thế a2) Bác Hồ đọc bảng tuyên ngôn độc
b2) Tôi nghe nói phong thanh như thế lập
c1) Mẹ tôi có dáng người thanh thản
b1) Bạn Lan còn bàng quan với việc
c2) Mẹ tôi có dáng người thanh mảnh lớp.
d1) Không nên nói năng tuỳ tiện
b2) Bạn Lan còn bàn quan với việc lớp.
d2) Không nên nói năng tự tiện
c1) Cả lớp đi thăm quan.
e1) Dế Mèn là tác phẩm rất gần gũi c2) Cả lớp đi tham quan
với trẻ em
d1) Khu nhà này thật là hoang mang
e2) Dế Mèn là nhân vật rất gần gũi d2) Khu nhà này thật là hoang vắng.
với trẻ em.
e1) Tuy tuổi đã cao nhưng bà tôi vẫn
còn rất minh bạch
9


e2) Tuy tuổi đã cao nhưng bà tôi vẫn
còn rất minh mẫn.
Thi nhóm giỏi hơn
Sau khi làm đúng phần trước, mỗi nhóm chỉ ra câu dùng sai thuộc lỗi nào?
2.3.3. Trò chơi: Điền bảng (kết hợp với hoạt động nhóm)
Đặc điểm:
Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập. Thay bằng việc cho học sinh lập

bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể làm thành những thẻ (tờ phiếu)
kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng thẻ này để
điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh thống
kê được kiến thức.
Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp.
Chuẩn bị:
Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí
thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các thẻ, các thẻ
này phát cho các nhóm.
Ví dụ: Bài: Ôn tập truyện dân gian, Tiết 59+60, NV6, Tập 1
Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện dân gian ta giữ lại các ô:
thứ tự, tên văn bản, thể loại, nội dung ý nghĩa, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội
dung khác bỏ trống để học sinh dán thẻ kiến thức.
STT

1
2
3

Tên văn bản

5
6

Thạch Sanh

7

Em


thông
minh
Cây bút thần

8
9
10
11

Khái niệm,
đặc điểm

Nội dung,
ý nghĩa

Nghệ thuật

Con Rồng, cháu
Tiên
Bánh chưng, bánh
giầy
Thánh Gióng
Sơn Tinh, Thủy
Tinh
Sự tích hồ Gươm

4

Thể loại


Ông lão đánh cá
và con cá vàng
Ếch ngồi đáy
giếng
Thầy bói xem voi
10


13

Chân, tay,
mắt, miệng
Treo biển

14

Lơn cưới áo mới

12

tai,

Các nhóm học sinh nhận thẻ kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để
tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.
Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng kết.
Nhóm nào dán đúng thì tất cả thành viên sẽ được khen.
(Bảng Hướng dẫn GV dùng bảng phụ hoặc máy chiếu)
2.3.4. Trò chơi: Đọc thơ (hoạt động cá nhân)
Đặc điểm:
Học sinh thường sợ đọc thuộc lòng các bài thơ hay đoạn thơ. Nhưng với

trò chơi này sẽ giúp HS hứng thú hơn và thuộc thơ nhanh hơn. Hoạt động này
nên sử dụng sau những tiết học xong bài thơ hoặc ca dao.
Chuẩn bị:
- Sau khi học xong bài thơ, GV cho HS nhẩm lại bài thơ.
- Học sinh nhẩm lại các câu thơ trong bài thơ vừa học xong.
Ví dụ: Văn bản: Đêm nay Bác không ngủ, Tiết 101+102, Ngữ văn 6, Tập 2
- Sau khi học xong bài thơ này, giáo viên cho học sinh nhẩm lại và sau đó tiến
hành thực hiện trò chơi.
- Giáo viên đọc trước một câu:
“Anh đội viên thức dậy”
- Sau đó yêu cầu học sinh đọc câu thơ tiếp theo:
“Thấy trời khuya lắm rồi”
- Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp đọc tiếp
các câu còn lại của bài thơ.
- Tương tự thực hiện cho đến khi hết bài thơ hoặc có yêu cầu dừng của giáo
viên.
- Bạn nào đọc sai sẽ làm một hoạt động do lớp hoặc giáo viên yêu cầu.
2.3.5. Trò chơi: Xem tranh đoán bài, giới thiệu về bài
Ví dụ: Bài: Ôn tập truyện và kí, Tiết 125, NV6, Tập 2
a. Xem tranh đoán bài, giới thiệu về bài
Đặc điểm:
Trò chơi này kích thích khả năng ghi nhớ, tư duy và khả năng diễn đạt của
học sinh. Nó cũng đơn giản, thích hợp với nhiều giờ học Ngữ văn. Mục đích chủ
yếu của trò chơi này là kỹ năng ghi nhớ, trình bày miệng trước tập thể.
Cách thức tiến hành:
11


- Giáo viên chia học sinh thành các nhóm (4-10 học sinh).
- GV chiếu từng hình ảnh trên màn hình.

- Từng nhóm đoán tên bài và giới thiệu những kiến thức về tác phẩm như tên tác
giả, nội dung ý nghĩa, đặc sắc nghệ thuật.
- Giáo viên cần tìm ra một ban giám khảo: GV và một số HS trong lớp.
-> Lưu ý: trò chơi này kích thích khả năng ghi nhớ, diễn đạt trước tập thể của
HS cho nên ban giám khảo cần nhìn nhận, đánh giá cho phù hợp cả nội dung
kiến thức và tác phong, ngôn ngữ diến đạt, không nên đánh giá theo ý chủ quan.

Vượt thác - Võ Quảng

Bài học đường đời đầu tiên - Tô

Hoài

Sông nước Cà Mau - Đoàn Giỏi

Lao xao – Duy Khán

12


Cô Tô – Nguyễn Tuân
Thép Mới

Bức tranh của em gái tôi-Tạ Duy Anh
đê

Cây tre Việt Nam –

Buổi học cuối cùng- An-phông-xơ Đô-


b. Diễn xuất không lời - tưởng tượng tài ba
Đặc điểm:
Trò chơi không chỉ đòi hỏi khả năng diễn xuất “kịch câm” mà còn kích
thích tư duy, trí liên tưởng, tưởng tượng rất phong phú. Nó tạo nên được sự hào
hứng, hứng thú rộng lớn cho các em học sinh. Kiểu chơi này được ứng dụng
nhiều trong các game show truyền hình hiện nay.
Cách thức tiến hành:
- Cả lớp chia thành 4 tổ, mỗi tổ cử 2 bạn tham gia thành lập một đội.
- Đội 1 và 2 chơi trước; đội 3 và 4 là quan sát viên.
- GV đưa cho đội 1 và 2 một tờ phiếu cùng ghi tên 3 tác phẩm truyện đã đọc.
- Đội 1 sẽ chọn và giới thiệu tên của một tác phẩm truyện, nhưng không dùng
ngôn ngữ mà diễn tả bằng cử chỉ, động tác.
- Đội 2 quan sát để nhận ra tên tác phẩm truyện và đáp lại bằng cách giới thiệu
về một nhân vật ở trong tác phẩm truyện đó (cũng không dùng ngôn ngữ mà
diễn tả bằng cử chỉ, động tác).
13


- Đội 3 và 4 sẽ cùng đoán xem đội 1 và 2 giới thiệu về truyện gì và nhân vật nào.
- Sau đó đổi vai, đội 3 và 4 sẽ là người chơi, đội 1 và 2 là quan sát viên và đoán
kết quả (tên truyện và tên nhân vật mà đội 3 và 4 giới thiệu).
- Cả lớp trao đổi và nhận xét về phần chơi của các đội.
2.3.6. Trò chơi: Ô chữ (hoạt động nhóm hoặc cá nhân)
Đặc điểm:
Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được
sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó
mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc
tiếng Việt.
Chuẩn bị:
- Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương

ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng
ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – đây là ô chính mà nội
dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi
nhớ được.
- Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ. Để trò chơi mới lạ hơn, giáo viên
yêu cầu học sinh tự làm hoặc có thể áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra phần
mềm trò chơi. Ví dụ:
Ô CHỮ BÀI CON HỔ CÓ NGHĨA, Tiết 64, NV6, Tập 1
Mục đích:
- Củng cố kiến thức bài Con hổ có nghĩa.
- Xâu chuỗi kiến thức xây dựng chủ đề bài học.
- Kích thích tư duy của học sinh.
- Giảm bớt căng thẳng trong giờ học.
- Rèn luyện trí thông minh và phản xạ nhanh.
Chuẩn bị:
Thiết kế nội dung:
- Giáo viên chuẩn bị một ô chữ khổ to để trình chiếu hoặc treo lên bảng
gồm các câu hỏi và gợi ý cho câu trả lời.
- Thiết kế ô chữ
1
N H Â N H O A
2
L A N G G I
A N G
3 H O C X U O N G
4
T R U N G Đ A I
V I
Ê T N A M
5

G I
A O H U Â N
6 Đ Ô N G T R I Ê U
7
C U C B A C
- Hàng ngang
14


Câu sè 1. Gồm 7 chữ cái. Biện pháp nghệ thuật cơ bản bao trùm lên truyện
“Con hổ có nghĩa” là gì?
Câu sè 2. Gồm 9 chữ cái. Người kiếm củi đã cứu giúp con hổ thứ hai trong
truyện ở huyện nào?
Câu sè 3. Gồm 8 chữ cái. Tại sao con hổ “trán trắng” lại cần người kiếm củi
giúp đỡ?
Câu sè 4. Gồm 15 chữ cái. Truyện ”Con hổ có nghĩa” thuộc loại truyện sáng
tác thời kì nào?
Câu sè 5. Gồm 8 chữ cái. Truyện trung đại Việt Nam thường mang tính chất
này?
Câu sè 6. Gồm 8 chữ cái. Bà đỡ Trần ở huyện nào?
Câu sè 7. Gồm 6 chữ cái. Con hổ thứ nhất đã trả ơn bà đỡ Trần bằng gì?
Từ hàng dọc. Gồm 7 chữ cái. Truyện muốn đề cao điều gì?
Cách thức tiến hành:
- Chú ý: yêu cầu HS phải gấp sách giáo khoa trong khi chơi.
- Giáo viên (người quản trò) chia lớp ra thành 2 đội chơi, kẻ ô chữ lên bảng
(hoặc chiếu trên màn hình). Sau đó phổ biến luật chơi.
- Luật chơi như sau:
+ Người quản trò sẽ là người đọc gợi ý để mở ô chữ.
+ Sau khi người quản trò đọc, thời gian suy nghĩ là 30 giây, trong 2 đội,
đội nào có tín hiệu xin trả lời sẽ được quyền trả lời. Nếu trả lời sai thì cơ hội

dành cho đội còn lại.
+ Ô chữ gồm 7 từ hàng ngang và một từ hàng dọc. Mỗi từ hàng ngang tìm
được sẽ được 10 điểm. Đội nào tìm được từ hàng dọc trước khi giải được 5 từ
hàng ngang sẽ được 20 điểm, còn sau khi tìm được 5 ô chữ hàng ngang sẽ được
15 điểm.
+ Cuối cuộc chơi đội nào ghi được nhiều điểm sẽ giành chiến thắng.
- Nếu đội nào trả lời sai từ khoá thì bị loại khỏi phần thi này.
GỢI Ý
Hàng ngang: 1. (NHÂN HÓA); 2. (LẠNG GIANG); 3. (HÓC XƯƠNG); 4.
(TRUNG ĐẠI VIỆT NAM); 5. (GIÁO HUẤN); 6. (ĐÔNG TRIỀU); 7. (CỤC
BẠC)
Hàng dọc: (ÂN NGHĨA)
2.3.7. Trò chơi: Tạo chuỗi câu móc xích
Mục đích:
- Luyện tập kĩ năng phân tích cấu trúc câu và kĩ năng đặt câu.
Cách thức tiến hành:
- Chia lớp làm 2 hoặc 4 đội. Từng cặp đôi thi đấu với nhau. Người của đội này
nói ra một câu bất kì. Người kế tiếp của đội kia phải đặt một câu mà câu này
15


phải lấy một bộ phận nào đó của câu mà người ở đội đi trước đã đưa ra để làm
chủ ngữ, nhưng không được lấy chủ ngữ của câu đó. Trò chơi cứ thế tiếp tục. Ví
dụ: Bài Các thành phần chính của câu, Tiết 115, NV6, Tập 2.
+ Người thứ nhất đội A: Hôm nay mọi người đều đi học đầy đủ
+ Người thứ nhất đội B: Đi học đầy đủ là yếu tố quan trọng giúp chúng
ta đạt kết quả tốt trong thi cử.
+ Người thứ hai đội A: Chúng ta cần siêng năng trong mọi công việc.
+ Người thứ hai đội B: Công việc cần thiết nhất của chúng ta lúc này là
học tập.

+ Người thứ ba đội A: Lúc này là lúc đòi hỏi mọi người phải có một nỗ
lực cao nhất. (Và cứ thế tiếp tục).
- Trong trò chơi này, cứ mỗi câu đặt đúng được tính 3 điểm. Mỗi lần người chơi
được suy nghĩ 1 phút để đặt câu. Khi kết thúc trò chơi, đội nào nhiều điểm hơn
sẽ thắng. GV làm trọng tài cho trò chơi này.
2.3.8. Trò chơi: Đóng vai các nhân vật trong bài đọc
Mục đích:
- Luyện tập kĩ năng ghi nhớ cốt truyện, diễn kịch, chuyển thể văn bản (văn xuôi
– kịch).
Cách thức tiến hành:
- Giáo viên hoặc HS có thể chuyển đổi văn bản văn học thành kịch bản.
- Không nhất thiết phải chuyển đổi toàn bộ văn bản, có thể chọn một đoạn giàu
tính kịch chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Hoặc kịch bản đơn giản chỉ là ý tưởng,
phần lời thoại để người học tự sáng tạo.
- GV hướng dẫn, định hướng cho HS về ngôn ngữ kịch, xung đột, cách diễn
xuất, phối hợp, bài trí cảnh sân khấu, đạo cụ, ...
Ví dụ: Văn bản: Bài học đường đời đầu tiên, Tiết 77+78, NV6, Tập 2
- Chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm có ba em để đóng vai Dế Mèn, Dế Choắt,
chị Cốc.
- Dựa theo câu chuyện và lời các nhân vật, các em diễn lại “màn kịch” của câu
chuyện này.
- Các nhóm tự nhận xét và nghe thầy, cô tổng kết, đánh giá.
* Lưu ý:
+ Sử dụng trong lúc mở đầu bài giảng, thực hành hay neo chốt kiến thức.
+ Để tiết học hiệu quả hơn, GV nên hướng dẫn HS từ tiết học trước để các em
có thời gian chuẩn bị.
+ HS có thể tham khảo trên internet (youtube.com) hoặc Chuyên mục Nhà biên
kịch trẻ (Báo Văn học và Tuổi trẻ).
+ Có thể vận dụng trong giờ tiếng Việt (xây dựng tình huống các đoạn hội thoại).
+ Cần xác định trước thời gian cho vở diễn.

16


2.3.9. Trò chơi: Gợi ý đoán từ
Mục đích:
- Rèn luyện năng lực định nghĩa từ.
- Phát triển đầu óc khái quát, phân tích và liên tưởng.
Chuẩn bị: Một số nhóm từ (3 đến 5 từ, chủ yếu là danh từ) sắp xếp từ dễ đến
khó và ghi vào một tờ phiếu.
Ví dụ: Bài Nghĩa của từ, Tiết 12, NV6, Tập 1
- bác sĩ, nhà cửa, truyện tranh, mập, chị
- công nhân, cảnh sát giao thông, ê-ke, khóc, lùn
- cô giáo, nhà văn, com-pa, sợ, học
- bố mẹ, họa sĩ, quần áo, ngủ, xanh
- Nguyễn Ái Quốc, Huế, bản đồ, du lịch, gập ghềnh
- Cà Mau, Kim Đồng, vú sữa, bơi, trù phú
- Trung Quốc, Mát-xcơ-va, ngôi sao, kể chuyện, rắc rối ...
Cách thức tiến hành:
- Để một cái bàn và hai cái ghế đối diện nhau. Chia những người chơi ra từng
nhóm 2 người. Lần lượt mỗi nhóm lên rút phiếu từ để đoán. Một người trong
nhóm nêu ra lời gợi ý, người còn lại đoán từ đó là gì. Ví dụ từ cần đoán là từ
“chị”:
+ Người gợi ý: Người gì cùng bố mẹ với mình, sinh ra trước mình mà là
con gái?
+ Người đoán: Chị. (Đúng)
- Lời gợi ý phải không có những từ (tiếng) trùng với từ cần đoán, nếu không sẽ
bị coi là phạm luật và không được tính điểm. Trường hợp không đoán được,
người đoán nói “Bỏ qua”. Nên quy định thời gian thực hiện (3 đến 5 phút) và
cho điểm mỗi trường hợp đoán đúng. Nười gợi ý và người đoán có thể đổi vai
cho nhau. Nhóm nào được nhiều điểm hơn sẽ thắng.

Chú ý:
- Từ để đoán cần tránh chọn từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ có
nhiều cách viết, cách đọc khác nhau.
- Có thể cho HS dùng thêm điệu bộ, cử chỉ, động tác,... để gợi ý nhằm tạo ra sự
sinh động, vui cười. Nhưng mỗi lượt chơi chỉ được sử dụng 1 hoặc 2 lần, nếu
phạm lỗi sẽ bị trừ điểm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quá trình áp dụng những trò chơi vào các tiết dạy học Ngữ văn 6 ở
trường THCS Nguyệt Ấn, tôi nhận thấy rằng: trò chơi là một hoạt động bổ trợ
cho việc dạy Ngữ văn. Hoạt động này thiên về chơi nên nó xoá đi sự nặng nề.
Học sinh được tiếp nhận nhiều kiến thức, kỹ năng qua những hoạt động dễ dàng,
gây hứng thú. Chính vì lẽ đó mà những học sinh đã được học qua những tiết dạy
17


có áp dụng trò chơi không chỉ có cơ hội tìm hiểu, ôn tập kiến thức mà còn thể
nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh. Các em được rèn
khả năng quyết định lựa chọn các phương án đúng, cách giải quyết tình huống
hợp lí. Đây là bài học thực tế trước khi học sinh rút ra kết luận, lý thuyết trừu
tượng. Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự phấn đấu tích cực trong từng cá
nhân hoặc trong nhóm học sinh. Tổ chức trò chơi theo nhóm còn giúp tăng
cường hoạt động làm việc nhóm, từ đó phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh.
Cụ thể sau khi áp dụng việc tổ chức trò chơi trong giờ học Ngữ văn 6 cả GV và
HS đều thu được kết quả khả quan.
Đối với giáo viên: không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết
dạy mà GV và HS vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức bài học, hoàn thành
được bài tập SGK. Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để
giáo viên khắc sâu kiến thức. Từ đó làm cho không khí lớp học thoải mái, kích
thích được tinh thần học tập của HS đặc biệt với những em sức học yếu, chậm,
nhút nhát. Thực hiện được đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và

hiệu quả.
Đối với học sinh: giúp các em rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhạy, biết
xử lý tình huống linh hoạt. HS thích thú do đó tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn.
Các em có điều kiện cùng chuẩn bị, chủ động trong học tập.
Như vậy so với thời điểm mà tôi chưa áp dụng phương pháp tổ chức trò
chơi trong giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng: nếu như trước đây các
em học sinh có vẻ rất lo ngại mỗi khi đến tiết Ngữ văn thì bây giờ các em rất hồ
hởi và phấn khích khi đón nhận nó. Đó là kết quả mà tôi không thể mong đợi
hơn. Bởi lẽ, từ sự thích thú, yêu mến môn học này đã giúp các em chăm chỉ học
tập và kết quả học tập ngày càng tốt hơn qua bảng số liệu sau trước và sau khi áp
dụng sáng kiến.
Thời điểm Tổng số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Đầu năm
173
6
50
94
19
04
(3,6%)
(28,9%)
(54,3%) (10,9%) (2,3%)
Cuối kì II
173
18

73
76
6
0
(10,4%)
(42,1%)
(43,9%) (3,6%)
Thời điểm

Tổng số

Hứng thú

Không hứng
Không
thú
quan tâm
Đầu năm
173
52(30%)
100 (58%)
21(12%)
Cuối năm
173
128(74%)
45(26%)
0
So sánh với kết quả đầu năm trước khi chưa áp dụng SKKN, tôi nhận thấy
rằng việc học tập của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt. Nhiều em trước đây học còn
trung bình hoặc yếu thì nay có sự tiến bộ rất nhiều. Nếu như trước khi áp dụng

theo điều tra mức độ hứng thú đối với môn Ngữ văn là 30% thì sau khi áp dụng
18


cũng câu hỏi điều tra ấy cho kết quả là 74% học sinh hứng thú với môn Ngữ
văn. Kết quả này đã được nhà trường, đồng nghiệp cũng như các bậc phụ huynh
học sinh ghi nhận và tỏ ra rất hài lòng.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Hiệu quả việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học Ngữ văn ở trường
THCS là không thể phủ nhận. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những hạn chế
dẫn đến kết quả đi ngược lại với mong muốn. Điều đó là do nhiều nguyên nhân:
GV lạm dụng khi sử dụng trò chơi, tổ chức quá nhiều trò chơi trong một
tiết học dẫn đến học sinh mệt mỏi vì phải chơi nhiều.
Trò chơi bị lặp lại trong tiết học, không đủ hấp dẫn để thu hút sự chú ý của
học sinh.
GV chuẩn bị bài không chu đáo hoặc kĩ năng tổ chức trò chơi của giáo
viên chưa tốt.
Vì vậy muốn tổ chức thành công trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 tạo
hứng thú cho HS, giáo viên cần chú ý đến những vấn đề sau:
Thứ nhất: thiết kế, lựa chọn trò chơi phải có mục đích học tập, gắn với
bài học và gấy hứng thú để thu hút sự tham gia của học sinh. Trò chơi phải đơn
giản, dễ thực hiện và không tốn nhiều thời gian.
Thứ hai: đảm bảo thực hiện theo trình tự:
GV giới thiệu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi và thời gian chơi.
Chơi thử nếu cần.
Tổ chức chơi.
Nhận xét kết quả chơi.
Kết thúc trò chơi (HS được gì qua trò chơi)
Thứ ba: chuẩn bị bài một cách chu đáo, dự kiến những tình huống có thể

nảy sinh trong khi tổ chức trò chơi để khi gặp có thể giải quyết cho tốt.
Ngoài ra, trong quá trình tổ chức chơi GV cần tạo điều kiện cho tất cả HS
trong lớp được cùng tham gia. Có như vậy hiệu quả đạt được mới cao.
3.2. Kiến nghị
Với đề tài “Vận dụng một số trò chơi trong dạy học NV6” đã một phần
gây hứng thú hơn trong tiết học, HS đã có sự chuyển biến hơn tích cực giao lưu
với thầy cô hơn, trong mỗi giờ học tất cả HS đều muốn tham gia vào quy trình
dạy học, các em không còn thụ động ngồi nghe GV giảng bài mà cảm thấy hứng
thú hơn, hăng say phát biểu bài hơn. Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp
tối ưu nhất bởi vì cũng không phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được
các trò chơi một cách hiệu quả. Chính vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào
cũng cần kết hợp rất nhiều các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong
quá trình giảng dạy của mình.
19


Đối với các thầy cô giáo:
- Cần linh động, sáng tạo trong việc đổi mới PPDH.
- Xác định đối tượng, lựa chọn trò chơi phù hợp, đảm bảo đúng qui trình chơi.
Về phía nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau, nhất
là phương pháp giảng dạy đổi mới theo tinh thần SGK mới.
- Thay đổi hình thức họp chuyên môn không đơn thuần là dự giờ – góp ý, mà
tổ chức hội thảo bằng chuyên đề cụ thể.
- Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn văn, phương tiện hiện đại hỗ trợ
dạy học, sắp xếp để các em học sinh có điều kiện tham khảo, nghiên cứu.
Về phía lãnh đạo Phòng Giáo dục:
- Tổ chức học tập nghiệp vụ về chuyên đề cụ thể tập trung theo nhóm trường
hoặc cả huyện.
- Kịp thời trang bị đầy đủ thiết bị và đồ dùng dạy học, sách tham khảo có chất

lượng cho các trường.
Vận dụng trò chơi trong dạy học NV6 nhằm tạo hứng thú, tâm thế cho HS
là một trong những giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng môn học, đáp
ứng yêu cầu đổi mới trong giáo dục song có nhiều trò chơi đang còn khá mới
mẻ. Mặc dù trong quá trình giảng dạy, áp dụng, đúc rút kinh nghiệm bản thân đã
có nhiều trăn trở, tìm tòi song vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Tuy nhiên cũng xin được chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp mong góp một
chút sức mình vào công tác đổi mới PPDH văn trong nhà trường. Tôi rất mong
nhận được những đóng góp quý báu của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học, đặc
biệt là những thông tin phản hồi từ phía HS để đề tài ngày càng thiết thực hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 04 năm
2019
Tôi cam đoan SKKN này là của cá
nhân, không coppy của tác giả khác.
Người thực hiện

Nguyễn Xuân Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Ngữ văn 6, tập 1 và 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2009
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn
Ngữ văn THCS tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường

THCS (Tài liệu dành cho GV), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010
4. Cẩm nang phương pháp sư phạm, Nhiều tác giả, NXB Tổng hợp TP. HCM,
2014
5. Dạy học Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp, Lê A (chủ biên), Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2007
6. Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn THCS, Đỗ Ngọc Thống (chủ biên),
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2018
7. Đánh giá và đo lường kết quả học tập, Trần Thị Tuyết Oanh, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2009
8. Hoạt động ngoại khóa văn học, Võ Thị Quỳnh, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2003
9. Kế hoạch giáo dục nhà trường, Môn: Ngữ văn, Phòng Giáo dục Ngọc Lặc,
2018
10. Luật Giáo dục tại Hội nghị TW 2 – Khoá VIII
11. Quyết định số 03/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/01/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo
12. Văn học và Tuổi trẻ (Chuyên mục Vui học Ngữ văn), Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2018
MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT
- HS: học sinh
- GV: giáo viên
- SGK: sách giáo khoa
- NV6: ngữ văn 6
- PPDH: phương pháp dạy học
- SKKN: sáng kiến kinh nghiệm
- THCS: trung học cơ sở

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
21



HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá Kết quả
xếp loại
đánh giá
(Phòng, Sở,
xếp loại
Tỉnh…)
(A, B, C)
1
Một số biện pháp rèn kĩ năng
viết đúng chính tả cho HS
Phòng GD
C
trường THCS Nguyệt Ấn
2
Dạy học đọc hiểu văn bản
nhật dụng trong SGK Ngữ
Phòng GD
B
văn 8
3
Một số cách giới thiệu bài
mới trong dạy học môn Ngữ
văn THCS (Qua các bài học
Phòng GD
A
trong SGK Ngữ văn 9)
4


5

Hướng dẫn học sinh lớp 8
trường THCS Nguyệt Ấn
chuẩn bị bài bằng phiếu học
tập để nâng cao hứng thú khi
học truyện ngắn hiện đại Việt
Nam
Vận dụng kiến thức môn Giáo
dục công dân để dạy học bài
văn Nghị luận xã hội ở lớp 9
Trường THCS Nguyệt Ấn

Năm học
đánh giá
xếp loại
2004-2005

2014-2015

2015-2016

Phòng GD

B

2016-2017

Phòng GD

Sở Giáo dục

A
C

2017-2018

22



×