Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN rèn một số kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm cho HS lớp 7 trường THCS thọ thanh, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.11 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

Trang

1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

1
1
2
3
3
3
3

nghiệm.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Đặc điểm của đoạn văn biểu cảm.
2.3.2. Yêu cầu của đoạn văn biểu cảm.
2.3.3. Rèn kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.



4
5
5
7
8
14
18
18
20

3.2.1. Đối với Phòng giáo dục.
3.2.2. Đối với nhà trường.

20
20

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Văn học là bộ môn thuộc hệ thống các môn khoa học xã hội, có vai trò rất
quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người, môn văn
có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học
sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ
1


mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các
môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn.
Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với
hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.

Môn văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học,
Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng nói : “Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình
suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật
điều mình muốn nói” . . . (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên
cứu giáo dục, số 28, 11/1973) .
Trong năm học 2017 – 2018, tôi được phân công giảng dạy môn ngữ văn
lớp 7B. Tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu
của con người nhưng đa số học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để
“khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc”. Khi hành văn, các em còn lẫn lộn,
chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Để
làm tốt bài văn nói chung, văn biểu cảm nói riêng, thì trước hết học sinh phải
viết được đoạn văn thuần thục với nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào sở
trường, vốn từ ngữ, cách diễn đạt của từng học sinh để lựa chon: quy nạp, diễn
dịch, song hành hay móc xích.
Tạo kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết sức quan trọng
trong việc tạo lập văn bản, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách, tự tu
dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần
tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn
cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá
trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật.
Môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt
chẽ với Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là
dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông thường.
Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức,
những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn
trong phân môn tập làm văn được coi như vị trí hàng đầu.
Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bộc lộ
những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên

phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời
2


qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh
những lệch lạc trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng tình cảm - đặc biệt qua các
thể loại văn học mà các em sẽ học trong chương trình.
Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học
sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên tôi chọn đề tài: “ Rèn một số kỹ
năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 trường THCS Thọ Thanh,
Thường Xuân” . Đây là vấn đề không mới, song nội dung, kiến thức lại rất cần
thiết, quan trọng phục vụ cho các giờ tập làm văn của học sinh THCS nhằm đạt
hiệu quả cao khi viết đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong quá trình giảng dạy tôi thấy để làm được, làm hay một đoạn văn đối
với học sinh khá, giỏi đã là một việc khó, mà thực tế trong một lớp học không
phải toàn học sinh khá giỏi. Như vậy thì làm sao cho học sinh trung bình, yếu
cũng có thể làm được một đoạn văn. Đó là một vấn đề khó. Vì thế tôi đã suy
nghĩ nhiều, cố gắng tìm ra một cách truyền đạt dễ hiểu nhất nhằm giúp học sinh
nắm được lí thuyết, từ đó học sinh có thể vận dụng một cách phù hợp để làm
một đoạn văn đạt kết quả tốt nhất.
Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. Ý chính đó, có thể đứng ở
đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp
hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành.
Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức
nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã tiếp
thu được qua các môn Văn - Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội để có
thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà
cuộc sống đặt ra cho các em.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp giúp các

em có thể hiểu và làm tốt một đoạn văn biểu cảm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi nghiên cứu về vấn đề: “Rèn một số
kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 trường THCS Thọ
Thanh, Thường Xuân”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong sáng kiến kinh nghiệm tôi có sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu.
3


- Phương pháp kiểm tra, khảo sát.
- So sánh – đối chiếu.
- Phân tích – tổng hợp.
- Thống kê – phân loại.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có
từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục
hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng
nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái
quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối
đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển
khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành…
Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên
kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết trong
đoạn văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ
thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát…,và dùng câu nối trong

đoạn văn. Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí,
tạo tính chỉnh thể cho văn bản.
Như vậy, các phương tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nhưng đồng thời
chúng cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác,
lại có những phương tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa
chọn các phương tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của người viết, với
sự việc được phản ánh và tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học
sinh để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc
rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình
THPT. Mặc dù vậy, học sinh ở các trường THCS, phần lớn có khuynh hướng
không thích học văn mà đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh
hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn
của các em.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Qua thực tế dạy bộ môn Ngữ văn và theo khảo sát ở trường THCS Thọ
4


Thanh, phần lớn các em học phân môn Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách
dựng đoạn văn khiến cho học sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời lượng quá
ngắn mà kiến thức nhiều, nên học sinh không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu.
Phần lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt lí thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và
bố cục đoạn văn càng bối rối. Việc rèn kĩ năng viết được tiến hành trong các tiết
phân tích đề, dàn ý và dựng đoạn, liên kết đoạn từ thấp đến cao, từ một tiêu đề,
một ý, một đoạn văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là một văn bản hoàn chỉnh. Khi
viết còn chưa hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc phân phối thời gian, số
lượng câu cho các đoạn, các ý lớn, ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ thể. Cho nên, có nhiều
trường hợp viết thừa hoặc thiếu chưa xác định cụ thể đề tài, chủ đề của đoạn
văn. Quá trình lập luận, trình bày chưa chặt chẽ, lô gíc và sinh động. Chưa biết

vận dụng nhiều phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn.
Vì thế các đoạn văn thường hay đơn thuần, nhàm chán.
Phần lớn học sinh chưa biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng kiểu
văn bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
Qua đề kiểm tra chất lượng học kì I - Môn Ngữ Văn 7 - Năm học 2017 2018 (Đề của trường)
Phần tự luận:
Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Tiếng gà trưa" của Xuân Quỳnh.
Tôi khảo sát thực tế bài làm của học sinh trong trường thấy rằng: Trên
60% số học sinh chưa biết viết đoạn văn biểu cảm.
Số học sinh có khả năng dựng đoạn và xử lí yêu cầu của đề bài trên 30%,
số học sinh đạt giỏi là rất ít - một con số đáng báo động trong việc học phân
môn Tập làm văn hiện nay trong nhà trường THCS Thọ Thanh.
Bài làm của học sinh là kết quả của quá trình tiếp thu lí thuyết và rèn luyện
các kĩ năng viết văn của học sinh và là sự vận dụng tổng hợp các năng lực tư
duy, trình độ, vốn sống, vốn ngôn ngữ và cả những cảm xúc và rung động thẩm
mĩ. Cho nên, việc rèn luyện các kĩ năng cho học sinh là cả quá trình lâu dài, việc
tiến bộ của các em cũng chậm (không như các môn khoa học tự nhiên). Vì vậy,
giáo viên không nên nóng vội mà phải rèn luyện cho học sinh tính kiên trì và
giáo viên cũng cần kiên trì khi dạy cho học sinh. Những tình trạng viết đoạn văn
ở trường THCS Thọ Thanh như trên là do nhiều nguyên nhân.
Trước hết là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào tư tưởng lập
nghiệp của học sinh sau này như thi vào các trường Cao đẳng, Đại học Ngữ văn
ít hơn các môn khác. Và điều quan trọng nhất là cơ chế thị trường thực dụng,
5


con người khô khan, kênh thông tin văn hoá nghệ thuật đa dạng, nhiều loại hình
cuốn hút học sinh. Hơn thế nữa phụ huynh lại định hướng cho con em mình theo
khuynh hướng trên.
Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan là môn Tập làm văn

khó học, trừu tượng, học sinh không thích học, khó trở thành giỏi văn. Hơn thế
nữa nội dung, chương trình trong SGK còn quá tải, trình độ giáo viên chưa đáp
ứng, chất liệu của môn Ngữ văn bị giảm sút vì đưa nhiều thể loại văn bản Nhật
dụng, văn bản Chính luận, văn bản Nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên
giao nhiều bài tập, khó được điểm cao.
Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh trường THCS
Thọ Thanh và nó cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động.
Cho nên chúng ta càng quan tâm nhiều hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm
văn, đặc biệt là dạy một tiết dựng đoạn văn trong văn bản.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Đặc điểm của đoạn văn biểu cảm.
a. Khái niệm Văn biểu cảm.
Văn biểu cảm là văn viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá
của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người
đọc.
Văn biểu cảm còn gọi là văn trữ tình, bao gồm các thể loại văn học như thơ
trữ tình, ca dao trữ tình, tuỳ bút.
Tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư
tưởng nhân văn sâu sắc.
Ngoài biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, đoạn văn biểu cảm còn sử
dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khơi gợi tình cảm.
( Sách giáo khoa - Ngữ Văn - 7 / Tập I - Trang 73)
b. Đặc điểm của đoạn văn biểu cảm.
- Mỗi đoạn văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu như yêu
thiên nhiên, yêu loài vật, yêu con người, yêu thương trường lớp, bạn hữu, yêu
gia đình, yêu quê hương đất nước, ghét thói tầm thường, độc ác…
- Để biểu đạt tình cảm ấy, người viết có thể chọn hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ,
tượng trưng (một đồ vật, một loài cây cỏ, một danh lam thắng cảnh hay một hiện
tượng nào đó) để gửi gắm cảm xúc, ý nghĩ của mình, trang trải nỗi lòng mình
một cách kín đáo hoặc nồng hậu, mãnh liệt, thiết tha.


6


Ví dụ: Băng Sơn qua văn bản Tấm gương đã lấy tấm gương làm ẩn dụ để
ca ngợi những đức tính tốt đẹp của con người của tình bạn trung thực, chân
thành, thẳng thắn, không nói dối, không nịnh hót hay độc ác với bất cứ ai. Đồng
thời tác giả chỉ rõ có một gương mặt đẹp quả là hạnh phúc lúc soi gương; nếu có
thêm một tâm hồn đẹp đẽ để soi vào tấm gương lương tâm thì hạnh phúc mới
thật trọn vẹn.
(Ngữ Văn - 7 / Tr-84,85)
- Cũng như đoạn văn thuộc các thể loại khác, đoạn văn biểu cảm cũng có
bố cục ba phần.
Mở đoạn: Có thể giới thiệu sự vật, cảnh vật trong thời gian và không gian.
Cảm xúc ban đầu của người viết.
Phát triển đoạn: Biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết, sâu sắc.
Kết thúc đoạn: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ của mình.
- Đoạn văn biểu cảm chỉ thực sự có giá trị khi tình cảm và tư tưởng hoà
quện với nhau chặt chẽ. Cảm xúc phải chân thật, trong sáng, tư tưởng phải tiến
bộ, đúng đắn. Câu văn, lời văn, giọng văn phải có giá trị biểu cảm.
- Trong văn biểu cảm, tình cảm con người đã qua suy nghĩ, khác với trạng
thái, cảm xúc ( biểu hiện ra nét mặt cử chỉ).
- Có hai cách (lối) biểu cảm.
Biểu cảm trực tiếp: Thông qua cách sử dụng các từ cảm : ôi, hỡi, tôi, ta…
Tác dụng bộc lộ, biểu hiện tình cảm, thái độ đối với sự việc có liên quan. Điều
này thấy rõ nhất trong thơ trữ tình, trong tuỳ bút, trong đối thoại nội tâm của
nhân vật.
Biểu cảm gián tiếp: Thông qua cách miêu tả cử chỉ, động tác, thái độ của
nhân vật và tình cảm của người viết.
Mặc dù vậy, biểu cảm trực tiếp, biểu cảm gián tiếp không đối lập nhau,

không tách rời nhau mà cần được bổ sung cho nhau để giúp cho biểu cảm sâu
sắc tinh tế hơn.
2.3.2. Yêu cầu của đoạn văn biểu cảm.
Cũng như các bài văn khác, đoạn văn trong văn biểu cảm cũng có những
yêu cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát về mặt hình thức
cũng như nội dung đoạn văn biểu cảm. Từ đó, các em mới có thể viết đoạn (xây
dựng đoạn) đúng với yêu cầu. Đoạn văn biểu cảm với việc nâng cao năng lực
cảm thụ văn học của học sinh là những yêu cầu, nội dung liên quan mật thiết với
nhau.
7


Về mặt hình thức của đoạn văn : Yêu cầu trước hết là học sinh phải nắm
được dấu hiệu, qui ước khi viết đoạn văn biểu cảm:
Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng
đến chỗ chấm xuống hàng.
Trước khi viết đoạn văn biểu cảm, giáo viên hướng dẫn cho các em tìm
hiểu đề, xác định ý và từ việc xác định được ý chính của bài mà đi đến xây dựng
câu chủ đề. Việc viết câu chủ đề đúng với ý chính đã tìm được ở trên sẽ giúp học
sinh định hướng cách lựa chọn nội dung trình bày theo cấu trúc diễn dịch, qui
nạp hay các kiểu cấu trúc khác. Đồng thời cũng định hướng cho các em lựa chọn
các phép liên kết, phương tiện liên kết, cách dùng từ ngữ cho phù hợp với cảm
xúc trong bài viết của mình.
Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn (theo cấu trúc diễn dịch), có thể đứng ở
cuối đoạn (theo cấu trúc qui nạp) v.v…Câu chủ đề phải mang nội dung khái quát,
lời lẽ ngắn gọn, hàm xúc và thường đủ hai thành phần chính của câu : chủ ngữ và
vị ngữ. Các câu còn lại trong đoạn văn có nhiệm vụ diễn giải, chứng minh, làm rõ
hoặc kết luận những cảm xúc đã thể hiện trong câu chủ đề.
Các câu trong đoạn văn biểu cảm phải được liên kết với nhau một cách chặt
chẽ bằng các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ- câu liên kết, hoặc các

mối quan hệ phụ thuộc, không phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân bài, kết
bài.
Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực,
giàu giá trị biểu cảm để gọi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết, có sức
thuyết phục, lay động người đọc, người nghe. Từ ngữ ấy phải thể hiện được thái
độ rõ ràng của người viết: đó là tình cảm buồn, vui, yêu ghét, hay thích thú…Có
thể biểu cảm trực tiếp hoặc biểu cảm gián tiếp hoặc kết hợp cả hai lối biểu
cảm…
Ví dụ 1: Em thương con cò trong bài ca dao vì thân phận, vì cảnh ngộ, vì
gieo neo mà phải đi ăn đêm. Vạc mới đi ăn đêm, “con cò mà đi ăn đêm” là một
nghịch lí đầy bi kịch. Bi kịch ấy làm ta rơi lệ khi nghe tiếng kêu thảm thiết của
cò:
…Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
(Bài làm của HS)
Ví dụ 2:
“ Hình ảnh người dân chài mới đẹp làm sao:
“Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
8


Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Vẻ đẹp của người lao động ở đây là vẻ đẹp khoẻ mạnh và tràn đầy sức
sống. Có lẽ, biển cả vốn gần gũi thân yêu với họ đã cho họ vẻ đẹp cường tráng,
đáng mến ấy.
(Bài làm của HS)
Về mặt nội dung:
Đoạn văn biểu cảm thể hiện được các năng lực: Tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích, chứng minh, năng lực cảm xúc
thẩm mĩ.

(Trích: Giảng dạy Tập làm văn ở trường THCS - TS. Lê Xuân Soan - Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh).
Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để có thể giáo viên vận dụng văn
trong nhà trường vào nghiên cứu soạn giảng Tập làm văn, đặc biệt là vận dụng
vào các tiết thực hành Tập làm văn và làm văn trong trường THCS.
2.3.3. Rèn kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 trường THCS
Thọ Thanh.
Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn biểu cảm nói riêng
không chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành
tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm, nhiệm vụ của
người thầy giáo trong chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Điều quan
trọng nhất khi viết đoạn văn biểu cảm là học sinh nắm vững các thao tác, cách
thức trình bày đoạn văn biểu cảm, để từ các kĩ năng Tập làm văn phát triển
thành kĩ xảo, thói quen làm văn.
Để thực hành những điều nói trên đây, chúng ta hãy thử kiểm chứng bằng
một ví dụ cụ thể sau:
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao: “Đêm qua ra đứng bờ ao”:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông soa sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
9


Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.

(SGK Ngữ văn 7)
Trên đây là một bài văn biểu cảm về một bài ca dao. Vì vậy, đề văn biểu
cảm bao giờ cũng nêu ra được đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm cho
bài viết. Xác định rõ các bước làm văn biểu cảm: Tìm hiểu đề, tím ý, lập dàn ý,
viết các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài.
Để tiến hành rèn luyện các kĩ năng Tập làm văn, trước hết học sinh phải
xác định ý cho đoạn văn.
- Xác định ý cho bài văn biểu cảm.
Giáo viên định hướng cho học sinh xác định các vấn đề sau:
+ Đối tượng biểu cảm trong đề bài trên?
+ Mục đích biểu cảm?
+ Cảm xúc, tình cảm trong các trường hợp.
+ Tình cảm, cảm xúc phải chân thật, trong sáng có sức thuyết phục.
+ Lời văn, hơi văn, mạch văn phải phù hợp, gợi cảm.
Trước hết chúng ta hình dung cụ thể đối tượng biểu cảm ở đây là : Bài ca
dao. Bài ca dao ấy nói về lòng thương nhớ và tình cảm thuỷ chung của nhân vật
trữ tình khi xa quê hương.
Hình thành được cảm xúc tình cảm của mình sau khi đọc xong bài ca dao.
Lời văn, giọng văn phải bọc lộ cảm xúc, tình cảm chân thành khi đọc hiểu bài
dao: Bài ca dao thấm thía bao nỗi buồn thương tha thiết, mong chờ, nhớ trông…
Quá trình tìm hiểu đề là quá trình xác định ý cho bài văn biểu cảm, ý của bài văn
nằm ngay trong từ ngữ, hình ảnh: Đêm qua, đứng bờ ao, trông, buồn trông, buồn
trông( mức độ tăng dần), rồi: sao ơi, sao hỡi, tưởng, nhớ ba năm, Đà mòn, dạ
chẳng mòn; trong kết cấu của bài ca dao…. Vấn đề là giáo viên tổ chức hướng dẫn
như thế nào để học sinh phát hiện ra các ý chính của bài mà đề yêu cầu. Có như vậy
việc tìm ý, triển khai ý mới trở thành kĩ năng ở các em. Tránh tình trạng khi viết
đoạn lại không trúng với ý mình đã xác lập, viết lan man, từ ngữ nghèo nàn không
gọi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết.
Chẳng hạn theo yêu cầu của đề văn trên đây, giáo viên tổ chức cho các em
xác định được các ý chính:

+ Nỗi cô đơn, buồn vắng, chờ mong.
+ Cảnh vật với nỗi nhớ cố hương.
+ Sự gắn bó thuỷ chung của người lữ khách đối với gia đình và quê hương.

10


+ Nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao và cảm xúc, tình cảm của
tâm hồn con người.
Như vậy, chúng ta đã xác định các ý trong bài văn biểu cảm và mỗi ý trên
đây có thể được xây dựng bằng một hoặc hai đoạn văn.
- Xác định câu chủ đề.
Từ những ý đã được xác định trên đây, giáo viên hướng dẫn cho học sinh
tập viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn văn. Vì
có viết được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa chọn nội
dung trình bày của đoạn văn.
Trước hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn bài văn:
Bài ca dao Đêm qua ra đứng bờ ao diễn tả bao nỗi buồn thương nhớ, cô đơn và
lòng chung thuỷ của người lữ khách đối với quê nhà.
Ta xác định câu chủ đề cho từng đoạn văn như sau:
Câu chủ đề 1: Tâm trạng của người lữ khách luôn lẻ loi, trống vắng, chờ
trông cứ vương vấn mãi không thôi.
Câu chủ đề 2: Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình diễn ra triền miên.
Câu chủ đề 3: Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương, nhớ - tấm lòng thuỷ
chung đối với quê nhà.
Câu chủ đề 4: Tấm lòng thuỷ chung toả sáng trong bài ca và tâm hồn con
người.
Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa
chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v..
- Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn.

Cũng như các kiểu văn bản khác, bài văn biểu cảm là một thể thống nhất
về hình thức, hoàn chỉnh về nội dung. Trong đó, đoạn văn có một vai trò hết sức
quan trọng trong việc cấu thành một văn bản biểu cảm hoàn chỉnh. Vì vậy, các
câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách chặt chẽ.
Rèn kĩ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một thao tác
không thể thiếu được. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể được viết
theo các cách như sau.
- Cách viết đoạn văn biểu cảm.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu
của các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài.

11


Đoạn văn mở bài: Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết khi
đọc bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất
của mình.
Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết bằng việc
sử dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lượt nêu lên những suy nghĩ của
riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man, dàn đều mà nên
xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi “a” qua “b, c, d”.
Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ.
Tránh dài dòng, trùng lặp, đơn điệu.
Thao tác cơ bản: Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà rất
cụ thể. Phải chỉ ra được yêu thích, thú vị… ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích, thú
vị? Nghĩa là phải phân tích, trích dẫn.
Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua
những bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen
dần cách bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay,
sâu sắc thì bài cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.

Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ
đến hiện tượng khác tức là liên tưởng.
Viết lời bình, so sánh, liên tưởng là thao tác cơ bản trong văn biểu cảm.
+ Cách viết đoạn mở bài trong văn biểu cảm.
Trước hết phải nói rằng mở bài hay nhất, biểu cảm hay nhất là đạt hai yêu
cầu sau:
Tính khái quát.
Tính định hướng.
Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học sinh học
tập, bắt chước(bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách
bài ấy cho bài của mình.
Chẳng hạn, khi viết đoạn văn mở bài cho đề bài trên ta có thể viết như sau:
Từ lúc lọt lòng, khi còn nằm trên nôi, ta đã được nghe những lời ru ngọt
ngào, xúc động của bà, của mẹ: à ơi, Anh đi anh nhớ quê nhà”. Lời ru ấy cứ
giăng mắc mãi lòng ta. Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao” còn là một kỉ niệm
không phai mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ. Lớn lên, tôi vẫn thường ru em
như thế:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
12


Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.

Đoạn văn trên được viết theo lối biểu cảm trực tiếp: biểu lộ cảm xúc, tình
cảm của người viết thông qua việc sử dụng các từ ngữ: ta đã được nghe… không
phai mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ
+ Cách viết đoạn thân bài
Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn, hơi
văn biểu cảm không gò bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt, dùng
từ, đặt câu, lựa chọn các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là
tuỳ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp.
Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài như sau( lưu ý mỗi đoạn
văn được viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm được ở phần trên).
Đoạn văn 1: Thao thức, lẻ loi, chỉ biết ra đứng bờ ao, nơi vắng vẻ ở cuối
sân, ngõ sau hay bờ ao. Cứ trông gần, trông xa, nhưng nào thấy, vì cá lặn, sao
mờ tự bao giờ. Các điệp từ ( trông, cá, sao) gợi lên trong lòng lữ khách sự buồn
vắng, chơi vơi
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Nỗi niềm ấy mới chỉ diễn ra đêm qua, còn đầy vơi trong lòng. Giữa đêm
khuya trống vắng, không một người thân thương, chỉ còn biết buồn trông và
khẽ thốt lên:
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai ?
Nhện cỏn con bé tí. Nhện sao thấu hiểu nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ xa quê
hương. Đêm đã về khuya, sao mai đã chênh chếch nằm nghiêng nghiêng trên
bầu trời. Rồi sao mờ sắp tàn canh. Vẫn chỉ một mình li khách cô đơn và trơ trọi.
Lại buồn trông lên bầu trời, khi hỏi sao mai để trang trải lòng mình:
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ ?
13



Nỗi buồn nhớ quê hương, người thân không sao kể xiết ! Sau lời cảm thán
nhện ơi, nhện hỡi?, sao ơi, sao hỡi? là những tiếng khẽ thở dài, cất lên, những
giọt lệ rưng rưng rơi xuống. Đó là tâm trạng lẻ loi, trống vắng, chờ trông cứ
vương vấn mãi không thôi.
Câu in đậm trong đoạn văn trên là câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) đứng ở
vị trí cuối đoạn có tác dụng khái quát cảm xúc tâm trạng của người lữ khách
được diễn giải ở các câu trên. Câu chốt này chính là câu chủ đề mà ta đã xác
định ở phần trên.
Đoạn văn 2: Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình cứ diễn ra triền miên.
Không chỉ mới đêm qua mà diễn ra trong đêm đêm. Không chỉ một tháng, một
năm mà là đã ba năm tròn, một thời gian dài. Không chỉ buồn trông mà là
tưởng, là nhớ, day dứt triền miên, không nguôi. Chữ "tưởng" là một nét tâm
trạng buồn nhớ, ngóng trông vô cùng da diết:
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm rồi.
Đến đoạn văn này câu chủ đề lại đặt ở đầu đoạn để nêu lên nỗi nhớ mang
tính khái quát nhất, hàm xúc nhất cho toàn đoạn văn.
Đoạn văn thứ ba: Hai câu cuối là hình ảnh tương phản rất đặc sắc: đá
mòn với dạ chẳng mòn:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương nhớ và cô đơn - đó là tấm lòng
thương nhớ, thuỷ chung đối với quê nhà.
Như vậy, mô hình cơ bản của đoạn văn biểu cảm là diễn dịch và qui nạp.
Nó phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Luyện viết đoạn văn
biểu cảm ở yêu cầu không khó khăn lắm là như cách trình bày trên. Tuy nhiên,
để viết được đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám sát các ý của
bài, rồi luyện viết với từng ý chính đã được xác định và các câu chủ đề đã được
xác lập ban đầu.
+ Cách viết đoạn văn kết bài.

Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì
vậy, để có được một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài.
Từ câu chủ đề đã xác định được như ở trên, ta có thể viết đoạn văn kết bài
như sau:

14


Ca dao là một tấm lòng. Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ là tấm lòng của
nhân dân, của những ai xa gần, của ông tôi, bà tôi, mẹ tôi, chị em tôi… Tấm
lòng son sắt thuỷ chung đối với gia đình, quê hương luôn toả sáng trong bài ca
dao và tâm hồn con người.
Tóm lại, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong bài văn biểu cảm là thực
hiện các thao tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề- để từ đó định hướng
cho việc xây đựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế ta sẽ thành thạo.
Không phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy cảm trong
dựng đoạn của bài văn biểu cảm. Từ việc Tập làm đến việc làm văn là một quá
trình đi từ việc rèn luyện kĩ năng cần thiết đến kĩ xảo (thói quen, thành thạo)Không khó nhưng cũng không đơn giản chút nào nếu cả thầy và trò không
chuyên tâm và không yêu thiết tha một tác phẩm văn học.
Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là : Luyện nhận
xét văn người, sửa văn mình.
Một số cách luyện tập viết văn biểu cảm ở đây không phải là tất cả nhưng
là cách cơ bản, chúng ta nên cố gắng thực hành. Trước khi thực hành đề bài các
em đọc kĩ phần dẫn giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt lí thuyết rồi
bắt tay vào làm theo sáng tạo.
Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì chưa hợp lí với mình thì cần có sự điều
chỉnh hoặc sáng tạo thêm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Để kiểm chứng kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến hành
các bước thực nghiệm sau:

- Chọn đối tượng học sinh đại trà ở hai lớp: 7A và 7B (Đủ 4 đối tượng:
giỏi, khá, TB, yếu ; đồng đều về kiến thức ở hai lớp).
- Về cơ sở vật chất: Phòng học thông thoáng, có đủ bàn ghế, điện lưới để
phục vụ Dạy - Học.
- Sự chuấn bị của giáo viên ở 2 lớp:
+ Ở lớp 7A: Tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu cảm.
+ Ở lớp 7B: Tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn Biểu
cảm.
- Sự chuẩn bị của học sinh:
+ Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài bập, các tài liệu có liên quan
đến bài học: Cách cảm thụ các dạng Tập làm văn - Lớp 6,7

15


- Về thời gian: Dạy - Học 3 tiết/lớp. Bố trí học 2 buổi chiều (Ngoài giờ
học chính khoá).
- Ra đề: Yêu cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học, chính
xác, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7.
Đề bài 1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí
Minh. (Lớp 7A)
Đề bài 2: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí
Minh. (Lớp 7B)
QUI TRÌNH DẠY -HỌC
LỚP 7A: TÔI THỰC HIỆN CÁC BƯỚC DẠY HỌC SAU:
Hoạt động 1: Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các em và
GV chọn một bài văn biểu cảm cho HS đọc trước lớp rồi xác định các phần
trong bài làm của người viết - Trình bày các ý chính trong mỗi phần: Mở bài,
Thân bài, kết bài.
Hoạt động 2: GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học về văn

Biểu cảm. Cụ thể:
I. Khái niệm văn Biểu cảm.
II. Đặc điểm của văn Biểu cảm.
III. Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 3: GV tổ chức cho người học viết các đoạn văn biểu cảm theo yêu
cầu của người dạy. Đối tượng biểu cảm là một số tác phẩm thơ, hoặc đoạn thơ.
Hoạt động 4: GV cho lớp tiến hành thảo luận và nhận xét, đánh giá các đoạn
văn của HS.
Hoạt động 5: GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau: Cảm
nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí minh.
Hoạt động 6: GV thu bài và củng cố, hướng dẫn học bài.
LỚP 7B: TÔI THỰC HIỆN CÁC BƯỚC DẠY HỌC SAU:
Hoạt động 1: GV tổ chức cho HS nắm lại các đơn vị kiến thức sau:
I. Khái niệm văn Biểu cảm.
II. Đặc điểm của văn Biểu cảm.
III. Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm:
1. Xác định ý cho bài văn Biểu cảm.
2. Xác câu chủ đề cho mỗi đoạn văn.
3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn.
16


4. Cách viết đoạn văn Biểu cảm:
4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài.
4.2 .Cách viết đoạn văn Thân bài.
4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài.
Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn Biểu cảm và tiến hành khảo sát
bằng đề bài sau:
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí

Minh.
Hoạt động 4:
GV thu bài và củng cố, hướng dẫn học bài.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NHƯ SAU
Phân
Giỏi
Khá
Trung bình
yếu, kém
Loại
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp
7A: 30 HS
1
3,3
6
20
14
46,6
9
30,1
7B: 31 HS
5

16,1
11
36,6
12
40
3
7,3
Nhận xét chung qua 2 kết quả trên
Qua quá trình Dạy - Học và tiến hành khảo sát thực nghiệm theo phương
pháp tích cực, tôi nhận thấy một số điểm sau:
Đối với việc tổ chức Dạy - Học ở lớp 7A - khi chưa vận dụng triệt để
phương pháp tích cực và các bước tiến hành như đã trình bày trên đây chúng ta
thấy: Số bài khá, giỏi chiểm tỉ lệ quá thấp. Số bài điểm yếu, kém vẫn chiếm tỉ lệ
lệ cao.
Rõ ràng nếu không có sự nghiên cứu, đầu tư các cách dạy học, ôn luyện
cho HS thì hiệu quả thực hành viết đoạn văn trong văn bản của các em là rất
thấp. Nếu không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa học đúng theo
phương pháp đổi mới thì sẽ không tạo được cho các em sự hứng thú, say mê,
tích cực trong giờ làm văn.
Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học làm văn (như đã thực
hiện ở lớp 7B) thì học sinh hoàn toàn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và
vận dụng các kĩ năng làm văn vào quá trình xây dựng đoạn văn - tạo lập văn
bản. Và tất yếu HS sẽ thích học phân môn Tập làm văn. Hiệu quả dạy học sẽ cao
hơn.
Qua đây chúng ta thấy: Thời lượng giành cho luyện tập viết đoạn văn
trong tiết dạy chính khoá là quá ít. Vì vậy, học sinh chưa được rèn luyện nhiều
để viết đoạn, tạo lập văn bản.
17



Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy học thực
hành - rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đều thể hiện tính nghiêm túc của người
dạy và những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ, những dấu ấn cảm xúc
cá nhân trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, soạn giảng.
MỘT SỐ ĐOẠN VĂN CỦA HỌC SINH
Đoạn 1.
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ?
Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn
Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ ?"
( Ca dao)
Bài ca dao Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, được viết bằng thơ lục bát và
câu hỏi tu từ. Trăng và núi là hai ẩn dụ. Sự đối đáp ở đây không phải là câu đố
về thiên nhiên ( núi, trăng) như có người đã nhầm tưởng. Mà sự giao, ướm hỏi
( ướm duyên) rất tình tứ, tế nhị của trai gái làng quê ngày xưa. Một cách tỏ tình
rất duyên dáng và biểu cảm.
Đoạn 2.
Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm.
Đấy là hai câu thơ đặc sắc nhất trong bài “ Tre Việt Nam” của Nguyễn
Duy. Tre không chỉ là vẻ đẹp thân mật của làng quê Việt Nam mà là biểu tượng
cho những phẩm chất cao quý của người dân Việt Nam. Cũng như tre gắn bó với
nhau “ nên luỹ, nên thành”, người dân cày Việt Nam, trong “bão bùng”, gian
khổ, biết yêu thương đoàn kết che chở nhau “ thân bọc lấy thân”, bảo vệ nhau “
tay ôm tay níu” để cùng tồn tại, phát triển trong hạnh phúc. Điệp từ làm cho ý
thơ được nhấn mạnh, giọng thơ êm ái nhịp nhàng, gợi cảm . Niềm thương mến
và tự hào của tác giả được diễn tả trong một vần thơ hàm súc, hình tượng và
truyền cảm sâu sắc.
Đoạn 3 .
Đêm đã về khuya, không gian yên tĩnh. chỉ có suối trong thanh như tiếng

hát từ xa vọng lại. Trăng sáng vằng vặc ôm trùm những ngọn cây. Bóng hoa in
trên mặt đất tạo nên những chùm hoa lung linh. Giữa cảnh khuya lộng lẫy yêu
kiều ấy có một người chưa ngủ, đó là Bác kính yêu. Bác chưa ngủ không phải để
ngắm cảnh đẹp mà vì lòng còn nặng nỗi lo toan việc nước….
Đoạn 4.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
18


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
(“Bếp lửa”- Bằng Việt)
Ngọn lửa “ chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp, bập
bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa
của tình bà chăm sóc cưu mang . Theo trình tự thơ, ngọn lửa chập chờn, bập
bùng cứ tỏ dần, tỏ dần: Bên bếp lửa là dáng hình của bà qua nắng mưa, năm
tháng gian khó mà biết bao ấm nồng.
( Bài làm của học sinh)
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được
môn văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn .
Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn văn sẽ giữ
lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến
với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu, tham
khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn
mới mẻ, tích cực hơn về kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm. Từ đó, hi vọng kết quả
học văn của các em sẽ ngày một tốt hơn; các em sẽ yêu thích, ham mê môn văn
hơn nữa.
Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 7 trường THCS

Thọ Thanh nói riêng và các trường THCS nói chung có tầm quan trọng rất lớn
trong việc dạy và học Tập làm văn. Nó chiếm vị trí đặc biệt trong việc thực hiện
mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành con người có trình độ
học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ học ở bậc cao hơn, hoặc vận dụng vào
thực tiễn cuộc sống.
Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao của
phân môn Văn và Tiếng Việt, nó có mối tương quan chặt chẽ với văn và Tiếng
Viết. Dạy luyện viết đoạn văn là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản, biết xây
dựng các loại văn bản thông thường. Ta hiểu đầy đủ rằng dạy cách viết đoạn văn
là dạy cho học sinh hiểu từng loại văn bản cụ thể, cách xây dựng đoạn văn trong
bất kì loại văn bản nào. Đây là bước đi, thao tác, cách thức trong quá trình học
tập văn bản.
Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, học sinh được uốn nắn, điều
chỉnh, hạn chế những thiếu sót trong quá trình làm văn ở những cấp học cao
19


hơn. Ngoài ra các em còn được bồi dưỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động
trước cái đẹp, biết hướng tới giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngôn ngữ,
bjiết tích luỹ vốn tri thức và vận dụng trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác
nhau. Dùng từ đặt câu, viết đoạn sẽ được các em vận dụng tốt trong mọi điều
kiện để hướng tới cái chân - thiện - mĩ, biết tự hào và sử dụng Tiếng Việt trong
sáng, hoàn mĩ hơn.Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vẫn còn
nhiều hạn chế. Vì đây là một vấn đề khó của môn học, nếu đơn thuần giáo viên
không hướng dẫn cụ thể về cách tìm hiểu đề, tìm ý, mỗi ý tương ứng với bao
nhiêu đoạn trong văn bản. Hoặc học sinh chưa tìm được câu chủ đề để từ đó
phát triển mở rộng thành đoạn văn. Để tích hợp được với văn và Tiếng Việt, giáo
viên chưa hướng dẫn khái niệm đoạn văn, câu chủ đề, quan hệ giữa các câu và
cách trình bày đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
theo các yêu cầu về cấu trúc và ngữ nghĩa.

Hạn chế nữa là trong chương trình SGK Ngữ Văn THCS học sinh không
được học các nội dung trình bày đoạn văn theo các đặc điểm, cấu trúc diễn dich,
qui nạp, song hành, móc xích. Do đó, khi xây dựng đoạn văn, học sinh rất lúng
túng trong việc đặt vị trí câu chủ đề trong đoạn.
Bên cạnh đó, trong quá trình luyện viết các đoạn văn, học sinh còn hạn
chế trong việc tìm hiểu đề, xác định ý, xây dựng câu chủ đề. Khi lựa chọn các
phép liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản các em còn vụng về, đôi khi
không nắm vững các đơn vị kiến thức này. Và việc lựa chọn, dùng từ đặt câu ở
một số học sinh còn nhiều lúng túng: như dùng từ, ngữ không trong sáng, thiếu
trau chuốt, từ ngữ không có tính lôgic.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với Phòng giáo dục.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo các chuyên đề về đổi mới
phương pháp dạy học để giáo viên học tập và có sự thống nhất về các vấn đề
liên quan đến chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng môn văn.
3.2.2. Đối với nhà trường.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có thời gian nghiên cứu và áp dụng
việc đổi mới trong dạy - học.
- Trang bị đầy đủ hơn phương tiện, thiết bị dạy học cho việc đổi mới.
Tuy đã có nhiều cố gắng, song sáng kiến vẫn không tránh khỏi những hạn
chế. Vì vậy tôi rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo trong Hội đồng
20


Khoa học các cấp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn nhằm phục vụ cho
việc giảng dạy môn Ngữ văn đạt hiệu quả cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN

Thường Xuân, ngày 02 tháng 03 năm 2019


CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Bằng
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên 7 tập 1.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III (2004 –
2007) môn Ngữ văn quyển 1,2 nhà xuất bản giáo dục.
3. Phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và tích
cực – Nguyễn Thị Kim Nhung – NXB Đại học quốc gia TPHCM.
4. Dạy học tập làm văn ở trung học cơ sở - Nguyễn Trí – NXB giáo dục.
21


5. Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở Nguyễn Trí,
Nguyễn Trọng Hoàn – NXB giáo dục.
6. Mạng internet.

22




×