Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN dạy học dự án ứng dụng vào chương tạo lập doanh nghiệp trong giảng dạy công nghệ 10 nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh ở trường THPT quan hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.27 KB, 16 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ai cũng rõ con đường biện chứng của nhận thức là “từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Trên con đường nhận
thức ấy, hứng thú đóng vai trò vô cùng quan trọng làm tăng hiệu quả của nhận thức,
làm nảy sinh khát vọng hành động chiếm lĩnh tri thức và đưa vào đời sống thực
tiễn.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đã ghi:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong dạy và học”[4].
Trong luật Giáo dục Việt Nam, điều 28.2 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”[1]. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy học thì giáo dục phải đổi mới về nội
dung, phương pháp và phương tiện dạy học.
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những
quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là
những kiến thức cơ bản về Nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó,
nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học
sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ
động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học
sinh [3].
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy


giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm.
Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy
giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để
các em tự lĩnh hội tri thức.
Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy
nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép,… người giáo viên ít
chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang tính
chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tư nghiên cứu. Thực trạng
dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình
trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy tính
1


tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết. Xác định được
nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không ngừng đổi mới phương
pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, trong đó
phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựa chọn.
Một trong các phương pháp dạy học tích cực được chú trọng hiện nay đó là
phương pháp dạy học dự án. Theo nhận định của nhiều tác giả: “Đây là một trong
những phương pháp dạy học mới hiện nay nhằm phát triển năng lực hành động
cho người học, gắn lý thuyết với thực tế…” (Nguyễn Văn Cường – Nguyễn
ThịDiệuThảo,2004 [9] ; Nguyễn Thùy Vân, 2008; Nguyễn Thị Diệu Thảo, 2004;
Trần Trung Ninh, 2007).
Với đặc trưng của môn Công nghệ 10 là một môn học mang tính kỹ thuật
ứng dụng cao. Các mảng kiến thức mới, lạ, khó, các bài thực hành rất cần sự tự
nghiên cứu, tìm hiểu và trải nghiệm của chính học sinh, đặc biệt trong phần Tạo
Lập Doanh Nghiệp.
Chính vì vậy, việc áp dụng phương pháp dạy học dự án trong giảng dạy công
nghệ 10 là rất cần thiết nhằm nâng cao sự tự tìm tòi, sáng tạo, vận dụng kiến thức

vào thực tế của học sinh, từ đó nhằm nâng cao sự hứng thú của học sinh với môn
học.
Mặc dù, Quan Hóa là một huyện miền núi, đa số học sinh đều là dân tộc thiểu
số, sự hiểu biết và tiếp cận với phương pháp học mới còn nhiều hạn chế nhưng
bằng niềm đam mê với nghề nghiệp, sự nhiệt huyết trong chuyên môn và xuất phát
từ những lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Dạy học dự án ứng dụng vào
chương tạo lập doanh nghiệp trong giảng dạy Công Nghệ 10 nhằm nâng cao
hứng thú học tập của học sinh ở trường THPT Quan Hóa” góp phần thực hiện
yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo hướng phát huy tính tích cực học tập của
HS ở phổ thông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp dạy học dự án trong dạy học phần
Tạo lập doanh nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh,
nâng cao hiệu quả dạy học môn Công nghệ 10.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Biện pháp đế phát triển kĩ năng “dạy học dự án”.
- Học sinh khối 10 trường trung học phổ thông Quan Hóa.
- Nội dung phần “Tạo lập doanh nghiệp”, SGK Công nghệ 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo hướng
tích cực hóa việc học của học sinh.
- Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần Tạo
lập doanh nghiệp).

2


- Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử dụng
phương pháp dạy học dự án trong nội dung phần “Tạo lập doanh nghiệp - Công

nghệ 10” theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
1.4.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến làm
cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Quan Hóa, tiến hành theo quy trình của
đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu.
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ
những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải
nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.[2]
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.
Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên
chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng
không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy,
GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho HS phương
pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH
phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với
hoạt động học thì mới thành công. [2]
2.1.1.2. Phương pháp dạy học dự án
Có nhiều quan niệm khác nhau về dạy học theo dự án. Ngày nay, dạy học dự

án được nhiều tác giả coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án có
nhiều phương pháp dạy học cụ thể được sử dụng.
Tuy nhiên, không phân biệt giữa hình thức và phương pháp dạy học, người ta
cũng gọi là phương pháp dự án. Khi đó cần hiểu đó là phương pháp dạy học theo
nghĩa rộng, một phương pháp dạy học phức hợp.
“Phương pháp dạy học bằng dự án gọi tắt là dạy học dự án là một hình thức,
phương pháp dạy học trong đó người học thực hiện nhiệm vụ học tập phức hợp, có
sự kết hợp giữa lí thuyết và thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ được thực hiện với tính
tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch,
đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả học
3


tập. Làm việc nhóm là hình thức làm việc cơ bản của dạy học dự án” Nguyễn Văn
Cường – Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004). [9]
HS tham gia trong dự án cần có sự tích cực, tự lực khi hoạt động. Điều này
khuyến khích tính sáng tạo của người học, tuy nhiên mức độ khó của công việc
cũng sẽ phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của HS.
Các dự án thường được thực hiện theo hình thức nhóm học tập có sự cộng
tác làm việc và phân công giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học dự án đòi hỏi
và cũng rèn luyện những kỹ năng làm việc cho các đối tượng tham gia như: HS với
HS, giữa HS và GV hướng dẫn, giữa các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự
án. Đặc điểm này giúp học sinh góp nhặt nhiều kinh nghiệm học tập và làm việc
theo nhóm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Chủ đề của dự án xuất phát từ tình huống thực tế xã hội, thực tiễn nghề
nghiệp và thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù
hợp với trình độ và khả năng của HS.
Sản phẩm của dự án có thể là những bài thu hoạch lý thuyết, hay những sản
phẩm thực tế học sinh tự làm hay thiết kế được. Những sản phẩm này được sử
dụng, công bố, giới thiệu trước tập thể.

Các định hướng trên đều là những định hướng tích cực đến người học, tạo
điều kiện phát huy tốt sự sáng tạo và tư duy cho đối tượng tham gia dự án, bằng
cách thu hút sự hứng thú của người học từ công việc thực tiễn của dự án. Với
những định hướng trên góp phần hình thành những phẩm chất cho nguồn nhân lực
tiến bộ theo xu hướng tiến bộ đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Trước bối cảnh cải cách giáo dục của xã hội, đổi mới PPDH là một trong
những yêu cầu cần đạt được để nâng cao chất lượng dạy và học. Trong nhiều loại
PPDH mới tích cực, thì PPDA là một trong những phương pháp mang lại cho người
học nhiều lợi ích thiết thực.
Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Diệu Thảo – 2004 với bài viết: Dạy học
dự án – Một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên, được giới
thiệu trong Tạp chí giáo dụng số 80, trang 15 – 17. Kết quả của nghiên cứu đạt
được đó là nhận định PPDA là một hình thức dạy học tích cực định hướng vào
người học, là phương thức đào tạo quan trọng kết hợp giữa học tập và nghiên cứu
đối với sinh viên ngành Sư phạm.
Nguyễn Thị Diệu Thảo- 2004 với bài viết: Dạy học dự án và đào tạo giáo
viên “Kinh tế gia đình”, được giới thiệu trong Tạp chí giáo dục số 88, trang 22- 24.
Kết quả đạt được của đề tài nghiên cứu được tác giả nhận định đó là khả năng vận
dụng to lớn và có thể xem như là một PP đặc thù trong đào tạo giáo viên môn Kỹ
thuật gia đình.
Nguyễn Văn Khôi và Nguyễn Thị Diệu Thảo – 2006 với bài viết: Vận dụng
“Dạy học theo dự án” trong môn Phương pháp dạy học kinh tế gia đình, bài viết
được giới thiệu trong Tạp chí giáo dục số 142, trang 42 – 44. Kết quả của đề tài
nghiên cứu là những đúc kết kinh nghiệm, ưu khuyết điểm của PPDA khi thực hiện.
Nghiên cứu được trình bày khá đầy đủ và chi tiết về quy trình vận dụng PPDA
4


trong dạy học môn “PPDH kinh tế gia đình ở THCS” đưa ra cơ sở lý thuyết cơ bản
cho giáo viên áp dụng PPDA khi dạy học bên cạnh đó là nhận định về những khó

khăn khi sử dụng PPDA.
Tác giả Trần Trùng Ninh với đề tài nghiên cứu “Áp dụng Dạy học dự án vào
môn Bài tập hóa học phổ thông” được giới thiệu trên Tạp chí giáo dục – số 17
tháng 1/2007. Kết quả nghiệm thu đề tài cho thấy PPDA đã có những tác động tích
cực đến người học đó là sinh viên khoa Hóa trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Như vậy, với những nghiên cứu trên các tác giả đã nêu lên những cơ sở lý
thuyết cơ bản và quy trình vận dụng PPDA, đồng thời với những nghiên cứu có
thực nghiệm thực tế là các dẫn chứng sinh động về hiệu quả của PPDA đối với
người học trong các quá trình đào tạo. Các đề tài nghiên cứu là những đóng góp
tích cực cho những PPDH mới, tích cực nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo
dục.
Qua nghiên cứu người nghiên cứu thấy rằng, PPDA đã được nghiên cứu và
thử nghiệm ở rất nhiều môn học cũng như ở các cấp học. Tuy nhiên, việc áp dụng
phương pháp này vào môn Công Nghệ 10 còn hạn chế. Với chương trình SGK
công nghệ 10 gồm 5 chương, trong đó phần Tạo Lập Doanh Nghiệp trang bị cho
HS những kiến thức cơ bản về kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh, doanh nghiệp
và việc tổ chức, quản lý doanh nghiệp. Mỗi kiến thức lý thuyết đều gắn liền với
thực tế, sau mỗi phần lý thuyết đều có những bài thực hành cho học sinh. Như vậy,
để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như nâng cao tính tích cực của học sinh
nhằm tạo điều kiện cho học sinh hiểu bài, đồng thời vận dụng những kiến thức đã
học vào thực tế cuộc sống. Việc áp dụng PPDA vào giảng dạy Công Nghệ 10 đặc
biệt là trong phần Tạo Lập Doanh Nghiệp là rất cần thiết. Qua thử nghiệm, người
nghiên cứu nhận thấy đây là một phương pháp dạy học mới mang lại những hiệu quả
tích cực đối với người học.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng dạy học môn Công nghệ nông nghiệp ở trường THPT
2.2.1.1. Thực trạng dạy học của giáo viên
Nhìn chung, giáo viên cải tiến đổi mới phương pháp như sử dụng: phương
pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm… Tuy nhiên, việc sử dụng
các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội dung

bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử dụng hệ
thống sơ đồ trong SGK để minh học cho bài học, mà không có thêm các sơ đồ tự
thiết kế từ nội dung SGK hay liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng các phương
pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.2.1.2. Việc học của học sinh
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10 chiếm
tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động các em chủ yếu là nghe giảng, ghi chép chứ
chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng trong giờ học,
có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung 4-5 em phát biểu
5


xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học tập bộ môn Công
nghệ 10.
Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi ít,
khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng các
PPDH phát huy tính tích cực như: thảo luận nhóm, phiếu học tập, sử dụng băng
hình… cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì không
khí học tập sôi nổi hẳn, các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược lại, ở một
số lớp giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại tái hiện, thông báo…
lớp học trở nên trầm, ít học sinh phát biểu xây dựng bài.
2.2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học môn Công nghệ 10 ở
các trường THPT hiện nay nói chung và ở trường THPT Quan Hóa nói riêng
- Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi để
dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS đòi hỏi phải
đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên phải có năng
lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo viên hiện
nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật nông nghiệp. Ở một
số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của bộ
môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ dùng dạy học cần

thiết…
- Đặc điểm của HS khu vực miền núi:
Qua quá trình tìm hiểu và thực tế dạy học ở trường THPT Quan Hóa – Thanh
Hóa, tôi có thể tóm tắt về một số đặc điểm của HS THPT miền núi như sau:
+ Về điều kiện kinh tế xã hội: Đa phần HS là con em dân tộc thiểu số, sống ở
miền núi cao,địa hình hiểm trở, sống xa nhau, xa trường nên đi lại khó khăn, gây
cản trở không ít đến việc đến trường học tập của các em.
+ Về ngôn ngữ tiếng Việt: Do đa phần HS là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh
sống khó khăn, ít được tiếp xúc với phương tiện dạy học hiện đại nên ngôn ngữ
tiếng Việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em còn giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng
của dân tộc mình, kĩ năng đọc, viết, diễn đạt câu, phát âm các thuật ngữ khoa học
nhiều khi chưa chính xác.
+ Về khả năng tư duy: Thường tư duy chậm, khi gặp tình huống phức tạp
thường bối rối không nhanh chóng tìm ra phương án, khả năng tư duy trừu tượng,
tư duy logic biện chứng chưa cao. Các em thường xem xét sự vật hiện tượng trong
mối quan hệ riêng lẻ, đơn giản. Các em quen tư duy cụ thể, bắt chước, dập khuôn
nên gặp bài khó, phức tạp không tích cực suy nghĩ mà chờ sự hướng dẫn của giáo
viên.
Khả năng vận dụng, liên hệ thực tế còn hạn chế, khả năng phân tích, tổng
hợp, so sánh còn yếu.
+ Về đặc điểm tâm hồn: Các em sống hồn nhiên, vô tư, có tình cảm yêu ghét
rõ ràng. Lòng tự trọng cao, bản tính thật thà và có trách nhiệm trong công việc.
Nhưng còn rụt rè, ít nói và lòng tự ti dân tộc cao.
6


- Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học
Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính, vì
không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông
lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh.

2.3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1 Dạy học dự án áp dụng trong việc tìm hiểu kiến thức mới
Các bước tổ chức dạy học dự án:
Bước
1. Chuẩn bị
- Xây dựng
ý tưởng,
- Lựa chọn
chủ đề, tiểu
chủ đề
- Lập kế
hoạch các
nhiệm
vụ
học tập

2.
Thực
hiện dự án
- Thu thập
thông tin
- Thực hiện
điều tra
- Thảo luận
với
các
thành viên
khác
- Tham vấn
giáo

viên
hướng dẫn

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

- Xây dựng bộ câu hỏi định - Làm việc nhóm để lựa chọn chủ đề
hướng: xuất phát từ nội dung dự án.
học và mục tiêu cần đạt được. - Xây dựng kế hoạch dự án: xác định
- Thiết kế dự án: xác định lĩnh những công việc cần làm, thời gian
vực thực tiễn ứng dụng nội dung dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương
học, ai cần, ý tưởng và tên dự pháp tiến hành và phân công công v
án.
iệc trong nhóm.
- Thiết kế các nhiệm vụ cho HS: - Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng
làm thế nào để HS thực hiện tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án.
xong thì bộ câu hỏi được giải - Cùng GV thống nhất các tiêu chí
quyết và các mục tiêu đồng thời đánh giá dự án.
cũng đạt được.
- Chuẩn bị các tài liệu hỗ trợ
GV và HS cũng như các điều
kiện thực hiện dự án trong thực
tế.

- Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá - Phân công nhiệm vụ các thành viên
HS trong quá trình thực hiện dự trong nhóm thực hiện dự án theo
án
đúng kế hoạch.
- Liên hệ các cơ sở, khách mời - Tiến hành thu thập, xử lý thông tin

cần thiết cho HS.
thu được.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo - Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo
điều kiện thuận lợi cho các em cáo.
thực hiện dự án.
- Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần.
- Bước đầu thông qua sản phẩm - Thường xuyên phản hồi, thông báo
cuối của các nhóm HS.
thông tin cho GV và các nhóm khác.

3. Kết thúc
7


dự án
- Tổng hợp
các kết quả
- Xây dựng
sản phẩm
- Trình bày
kết quả
- Phản ánh
lại quá trình
học tập

- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho - Chuẩn bị tiến hành giới thiệu sản
buổi báo cáo dự án.
phẩm.
- Theo dõi, đánh giá sản phẩm - Tiến hành giới thiệu sản phẩm.
dự án của các nhóm.

- Tự đánh giá sản phẩm dự án của
nhóm.
- Đánh giá sản phẩm dự án của các
nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra.

♦ Cách thức tổ chức và giải pháp thực hiện cụ thể
* Tên dự án: Thuyết trình một số khái niệm trong kinh doanh
* Phạm vi: bài 49: Bài mở đầu.
- Lớp thử nghiệm: 10A1
- Lớp đối chứng: 10A2
* Nội dung: Nội dung của dự án là tìm hiểu các khái niệm liên quan tới kinh doanh
và doanh nghiệp dựa vào kiến thức sách giáo khoa, tham khảo thêm kiến thức
ngoài sách giáo khoa nhằm hiểu rõ và rộng hơn về bài học đồng thời có liên hệ thực
tiễn cuộc sống bằng các ví dụ cụ thể.
* Cách thức tổ chức: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu học sinh tìm hiểu
kiến thức sách giáo khoa và các nguồn tài liệu khác trình bày một số kiến thức về
kinh doanh. Cụ thể:
- Nhóm 1: tìm hiểu khái niệm kinh doanh, cơ hội kinh doanh
- Nhóm 2: tìm hiểu khái niệm thị trường, doanh nghiệp
- Nhóm 3,4: tìm hiểu về công ty.
- Dự án tổ chức theo hoạt động nhóm.
- Các nhóm học tập tổ chức hội thảo tìm hiểu về một số khái niệm kinh doanh và
doanh nghiệp.
- Tổ chức tiến hành tìm hiểu và thiết kế các khái niệm sử dụng công nghệ thông tin
=> Mỗi nhóm tự tìm hiểu kiến thức của nhóm mình, đồng thời đọc hiểu các
kiến thức sách giáo khoa để có thể hỏi đáp thắc mắc giữa các nhóm. Bài tập thuyết
trình hoàn thiện bằng cách sử dụng công nghệ thông tin.
♦ Cách thức đánh giá
- Học sinh được đánh giá kết quả dựa vào quá trình làm việc nhóm (phụ lục)
và trình bày kết quả thuyết trình (phụ lục).

- Kết thúc bài học, học sinh làm 1 bài kiểm tra trắc nghiệm nhanh.
2.3.2 Dạy học dự án áp dụng trong việc tổng hợp kiến thức liên bài
♦ Cách thức tổ chức và giải pháp thực hiện
* Tên dự án: “Cơ hội kinh doanh ngày 8/3”.
* Phạm vi: bài 52: Thực hành: Lựa chọn cơ hội kinh doanh
8


- Lớp thử nghiệm: 10A1
- Lớp đối chứng: 10A2
* Nội dung: Đưa ra cơ hội kinh doanh trong các dịp lễ hội, mà đặc biệt trong ngày
Quốc tế phụ nữ 8/3.
* Cách thức tổ chức:
- Dự án tổ chức theo hoạt động nhóm.
- Các nhóm học tập tổ chức hội thảo tham khảo lại một số kiến thức đã học ở
bài 49, 50, 51 để có cơ sở lý thuyết cho bài thực hành.
- Hoạt động trong dự án được tổ chức với hình thức tham gia giữa các nhóm
học tập
- Với hình thức tổ chức thuyết trình về ý tưởng kinh doanh trong các ngày lễ mà
đặc biệt là ngày quốc tế phụ nữ 8/3.
- Giới thiệu sản phẩm kinh doanh trong ngày 8/3.
* Cách đánh giá:
- Học sinh được đánh giá kết quả dựa vào quá trình làm việc nhóm và trình
bày kết quả thuyết trình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hứng thú của học sinh khi tham gia học tập bằng phương pháp dự
án.
* Hứng thú của HS được người nghiên cứu ghi nhận trên cơ sở quan sát nét
mặt, thái độ và mức độ tập trung chú ý, thể hiện của các em.
Với bài 49: nhiều học sinh băn khoăn khi giáo viên đưa ra yêu cầu: “bài

thuyết trình dựa trên tiêu trí sáng tạo và sự hiểu bài của các bạn dưới lớp”. Tuy
nhiên, các em cũng thảo luận sôi nổi, có nhiều ý kiến sáng tạo khi giáo viên công
bố kết quả của bài báo cáo nếu tốt sẽ được cộng điểm cho bài kiểm tra 1 tiết.
Với bài 52: Các em thảo luận nhóm rất sôi nổi, học sinh cùng tranh luận,
cùng đưa ra những ý kiến. Mỗi bạn có một ý tưởng cho dự án kinh doanh này.
Chính trong quá trình này sự hứng thú của các em cũng tăng lên. Không những vậy,
khi học sinh được học tập thông qua thảo luận nhóm các em không bị gò bó, mỗi
học sinh có thể đưa ra nhiều ý kiến.
* Khi thực hiện dự án, các lớp thử nghiệm có thái độ học tập và sự tham gia
xây dựng bài của HS rất tốt, không khí thoải mái, trật tự và rất tự nhiên, không bị
gò bó áp đặt. Các em chú ý theo dõi của các nhóm khác.
Với bài 49: Vì là lần đầu tiên các em thuyết trình trước lớp một kiến thức
mới nên giáo viên cho các em tự chọn người người thuyết trình cho nhóm. Do đó,
các em hầu hết rất tự tin. Một số slide được các em trang trí đẹp mắt, hình ảnh minh
họa tốt tạo nên hứng thú cho buổi học.
Với bài 52: Việc một số hình ảnh và video được các nhóm ghi nhận lại trong
quá trình thực hiện dự án tạo nên sự tò mò về công việc kinh doanh của các nhóm.
Bên cạnh đó, một số sản phẩm được các em tự làm cũng tạo hứng thú cho các bạn.
Học sinh cả hai lớp với thái độ nghiêm túc, sự tự tin, nét mặt vui cười và
cùng với những tràng vỗ tay đã làm cho không khí lớp học càng sôi động hơn,
9


khích lệ cho các nhóm dù tốt hay không tốt đều giúp các em phấn đấu hơn nữa
trong học tập.

Qua tiết học, người nghiên cứu nhận thấy mức độ hứng thú của HS
khi tham gia học tập bằng hình thức dạy học dự án là khá tốt, thể hiện qua nét vui
tươi, không khí học tập sôi nổi, tập trung chú ý tốt đến nội dung bài báo cáo của
nhóm thuyết trình và thể hiện thái độ tích cực trong việc đưa ra câu hỏi và giải đáp

thắc mắc lẫn nhau giữa các nhóm và giữa GV đối với HS.
2.4.2. Phát triển hoạt động tư duy của HS khi học theo phương pháp dự án.
Để đánh giá mức độ phát triển tư duy học tập của HS, người nghiên cứu nhận
định dựa trên nội dung bài thuyết trình thể hiện khả năng phân tích và tổng hợp
thông tin liên quan đến bài học, sản phẩm được thực hiện về mặt hình thức và sáng
tạo. Bên cạnh đó, cách thức đặt câu hỏi của các nhóm, cách giải đáp câu hỏi từ các
nhóm khác và của giáo viên cũng cho thấy mức độ tiếp nhận và suy nghĩ về thông
tin, liên hệ kiến thức đã học rất tốt.
* Nội dung trình bày của các nhóm

Đối với nội dung trình bày các nhóm người nghiên cứu nhận thấy,
mặc dù nội dung thuyết trình của một vài nhóm vẫn không hoàn chỉnh do không có
sự chuẩn bị tốt, nhưng đa số các nhóm đã đảm bảo yêu cầu đưa ra, thể hiện tốt cách
vận dụng kiến thức trong thực tiễn và mỗi nhóm đã tạo ra nét riêng về cách thức
diễn đạt và trình bày nội dung. Điều này góp phần làm tăng tính thi đua giữa các
nhóm. Nội dung của các nhóm dưới sự nhận xét, góp ý của giáo viên tạo điều kiện
để mỗi nhóm hoàn thiện hơn ở các bài thuyết trình sau.
* Sản phẩm thực hiện của các nhóm.
Với bài 49: Ngoài những nội dung trong sách giáo khoa, các em đã biết thêm
những kiến thức thu thập được làm cho bài thuyết trình thêm phần sinh động. Một
số bài được các em đầu tư về hình thức rất tốt từ đó làm cho người nghe thêm chú
ý. Tuy nhiên bên cạnh đó, một số nhóm còn làm sơ xài, đối phó.
Với bài 52: Quy trình thực hiện được các nhóm tổng hợp trên cơ sở tìm hiểu
và đút kết kinh nghiệm thực hiện của mình. Quy trình đó được trình bày khá chi
tiết, rõ ràng, dễ theo dõi qua nội dung báo cáo và cách giải đáp thắc mắc.

Sản phẩm của các nhóm tham gia đánh giá chung là rất tốt, đảm
bảo yêu cầu đặt ra về sản phẩm. Ngoài ra, các em đã thể hiện tính sáng tạo và khả
năng thực hiện khéo léo. Thông qua quy trình thực hiện đã tạo điều kiện học hỏi và
rèn luyện nhiều kỹ năng thực hành làm việc.

2.4.3. Phát triển kỹ năng trình bày trước tập thể, kỹ năng làm việc
nhóm.
* Kỹ năng trình bày trước tập thể.
Kỹ năng trình bày trước tập thể bao gồm kỹ năng thuyết trình báo cáo và kỹ
năng trả lời câu hỏi trước tập thể.
Quan sát chung người nghiên cứu thấy rằng về phong cách trình bày: mỗi
nhóm đem lại một cách riêng để thể hiện do sự chuẩn bị từ trước như sau:
10


- Phân chia nhau thuyết trình mỗi nội dung
- Một người trình bày và 1 bạn trợ giúp kế bên.
- Nhóm chỉ một người trình bày toàn bộ, không có sự trợ giúp
Người
nghiên cứu ghi
nhận
được
phần lớn các em
khi báo cáo
thuyết trình đều
có thái độ
khá
tự
tin,
nghiêm túc,
tự nhiên và cố
gắng
để
truyển tải đầy
đủ nội dung

trình bày. Trong
đó, có những
nhóm đã có
nhiều
cố
gắng thể hiện
tốt bài thuyết
trình điển hình
như: 1 nhóm
của lớp 10B10
các em vừa
trình bày, vừa
giải thích, đặt
câu hỏi cho các
bạn dưới lớp.
Ngoài ra, ở các
nhóm khác
mặc dù có
chuẩn
bị
nhưng khi lên
báo cáo trước
tập thể lớp các
em vẫn còn
đọc nhiều hơn
báo cáo, phụ
thuộc hoàn toàn
vào bài đã
soạn sẵn.
* Kỹ năng làm việc nhóm.

Các nhóm tham gia làm bài thuyết trình và cuộc thi kinh doanh ngày 8/3 đã
thể hiện cách làm việc của mình khá tốt, tham gia tích cực của các thành viên. Bên
cạnh đó, một số thành viên đặc biệt các bạn nam chưa có sự tích cự trong suốt quá
trình.

Nhìn nhận chung về kỹ năng làm việc nhóm của HS, dù vẫn còn tồn
tại vài khuyết điểm, song các em HS đã thể hiện sự cố gắng của nhóm và mỗi thành
viên đã tự hình thành được kinh nghiệm, kỹ năng làm việc qua kết quả đạt được
cũng như góp ý từ GV.
2.4.4. Kết quả thu thập qua phiếu điều tra sau khi học sinh tham gia học
tập với phương pháp dự án.
Để thăm dò hứng thú học tập của HS, sau khi học xong tiết học tôi đã tiến
hành phát phiếu thăm dò ý kiến học sinh lớp 10A1 (sĩ số: 30); 10A2 (sĩ số 39). Kết
quả thu được như sau:
Câu 1: Đối với môn công nghệ và các môn học khác, các em đã được học với các
phương pháp dạy học nào?
Câu trả lời của cá em thể hiện qua sơ đồ sau

11


Nhận xét: Mặc dù, có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau nhưng học sinh
thường xuyên được học một số phương pháp dạy học đó là phương pháp vấn đáp,
thuyết trình kết hợp với bảng đen và phấn (100%). Qua đó, cho thấy đa số giáo viên
còn sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống.
Câu 2: Qua tiết học công nghệ 10 có sử dụng phương pháp dự án các em có
cảm thấy hứng thú học tập hay không? Lý do?
Kết quả thể hiện qua sơ đồ sau:

Nhận xét: Qua biểu đồ 2.2 cho thấy đa số HS được khảo sát (79%) cho rằng

rất hứng thú khi được học tiết học bằng dự án. Chỉ khi HS cảm thấy hứng thú với
tiết học thì mới tham gia tích cực vào bài giảng của GV, HS sẽ tiếp thu bài rất hiệu
quả. Lý do HS hứng thú với tiết học bằng PPDA là gì? Kết quả khảo sát như sau:
12


Nhận xét: Qua biểu đồ 2.3 cho thấy HS hứng thú với tiết học công nghệ
được sử dụng bằng PPDA là do dự án đã tạo cho học sinh mạnh dạn hơn trong
trình bày trước lớp, tự tin đặt câu hỏi và giải đáp thắc mắc. Ngoài ra, HS còn bị
cuốn hút vào tiết học với dự án vì dự án đã giúp các em chủ động đi tìm kiến thức
mới, thu thập được nhiều kiến thức khoa học và bổ ích cho bản thân, với dự án sẽ
giúp HS nhìn thấy, nghe thấy, thực hiện được những điều có ích cho bản thân và xã
hội.
Bên cạnh đó, HS còn đưa ra nhiều lý do thích học với dự án như: Dự án mới
lạ khi được học trong trường phổ thông, hơn nữa các em có thể tự tay làm ra được
sản phẩm để tặng cho người thân yêu của mình, học với dự án thật thích vì không
gây buồn chán, tiếp thu bài nhanh và rất dễ nhớ, dễ hình dung lại kiến thức đã được
học ở các bài học trước đó…
Câu 3: Nếu có thể, các em có mong muốn tiếp tục được học nhiều hơn nữa các tiết
học công nghệ có sử dụng phương pháp dự án không?
Bảng: Mức độ mong muốn tiếp tục được học bằng PPDA
Lựa chọn
Rất mong muốn
Có muốn nhưng chỉ một ít
Không quan tâm
Không muốn

Số lựa chọn
69
0

0
0

Tỷ lệ(%)
100
0
0
0

Nhận xét: Qua kết quả thăm dò cho thấy 100% HS rất mong muốn được tiếp tục
học các tiết học công nghệ với dự án.
13


2.4.5. Kết quả thu thập qua bài kiểm tra trắc nghiệm sau khi học sinh
tham gia học tập với phương pháp dự án
Sau khi học xong bài thuyết trình 49, giáo viên cho HS kiểm tra nhanh các
câu hỏi trắc nghiệm. Tổng số câu hỏi là 10, trong đó 5 câu hỏi nhận biết, 3 câu hỏi
hiểu, 2 câu hỏi vận dụng. Bài kiểm tra trắc nghiệm được thực hiện tại lớp 10A1
(lớp thử nghiệm - sĩ số 30 HS) và lớp 10A2 (lớp đối chứng dạy theo phương pháp
giáo viên thuyết trình, vấn đáp, sử dụng bảng, phấn - sĩ số 39 HS). So sánh câu trả
lời đúng của HS ở 2 lớp cho thấy kết quả thể hiện biểu đồ sau:
Bảng: Mức độ mong muốn tiếp tục được học bằng PPDA
Số HS trả lời đúng
theo mức độ
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng

Lớp A1


Tỷ lệ (%)

Lớp A2

Tỷ lệ
(%)

30

90.91

25

73.52

26

78.78

20

58,82

24

72.72

10


29.41

Nhận xét: Qua bảng trên thấy rằng, với phương pháp dạy học bằng dự án,
học sinh hiểu và nhớ bài tốt hơn. Với mức độ nhận biết hầu hết học sinh lớp thử
nghiệm đều có thể nhớ bài và trả lời đúng các câu hỏi (hơn 90%). Với mức độ
thông hiểu và vận dụng, các câu trả lời đúng của các em có giảm, tuy nhiên cao hơn
so với lớp đối chứng rất nhiều. Điều này có thể lý giải đó là do quá trình chuẩn bị
tìm hiểu trong vòng 1 tuần các em tiếp xúc với kiến thức sau đó nghe các bạn trên
lớp trình bày lại, giáo viên đánh giá và kết luận 1 lần nữa làm cho các em có thể
nhớ và hiểu kiến thức tốt hơn. Bên cạch đó, đặc điểm học sinh của lớp A1 theo thực
tế của HS khối 10 có phần ngoan, và học tập tốt hơn so với học sinh lớp đối chứng
A2.
2.4.6. Kết luận chung về thực nghiệm
Qua tiết dạy thử nghiệm phương pháp dạy học dự án, với các lớp đối chứng
dạy bằng phương pháp vấn đáp, thuyết trình kết hợp với bảng phấn nhận thấy nhiều
ưu điểm của phương pháp dự án so với phương pháp dạy học thông thường.
Sau khi thử nghiệm giảng dạy bằng phương pháp dự án cho các lớp tôi đã
nhận thấy kết quả đạt được đối với các em như sau:
- Hứng thú học tập của học sinh cao hơn, hoạt động thảo luận sôi nổi hơn và
hiệu quả cao hơn, thể hiện thái độ tích cực, phấn khởi tham gia vào tiết học. Các
em đã thể hiện mức độ phát triển tư duy của mình là khá tốt, các em đã vận dụng
hiệu quả kiến thức vào thực tiễn.
- Tăng cường thêm một số kỹ năng hoạt động học tập cho HS như quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, kỹ năng làm việc nhóm và trình bày một vấn đề trước
tập thể khá tốt, các em đã tự tích lũy thêm những kỹ năng mới.

14


- HS đã biết tự rút kết kinh nghiệm từ những hạn chế của mình để rèn luyện

bản thân và nếu có thể các em rất mong muốn tiếp tục được học nhiều hơn nữa các
tiết học sử dụng phương pháp dự án.
- Hoạt động của giáo viên nhẹ nhàng, thuận lợi hơn để có thể tập trung vào
việc đưa HS vào trung tâm của hoạt động dạy học. Thông qua phương pháp dự án,
học sinh trong nhóm và giữa các nhóm phát biểu ý kiến, tranh luận, bổ sung cho
những người thuyết trình tạo không khí học tập rất tích cực, nâng cao hiệu quả tiếp
thu, lĩnh hội tri thức của học sinh.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ những kết quả nghiên cứu tôi rút ra những kết luận chính sau:
- Bước đầu hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
phương pháp dạy học dự án trong phần “Tạo lập doanh nghiệp - Công nghệ 10”.
Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
- Hệ thống, phân tích được khái niệm, cách lựa chọn lĩnh vực kinh doanh phù
hợp cũng như tổ chức và quản lí doanh nghiệp sao cho hiệu quả.
- Xây dựng được quy trình thiết kế và sử dụng phương pháp dạy học dự án vào
bài 49, bài 52 có hiệu quả.
- Tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp. Những kết quả bước đầu đã đánh giá được
hiệu quả của phương pháp dạy học dự án trong dạy học vừa nêu trên. Từ đó kết
luận được phương pháp dạy học dự án đã mang lại hiệu quả cao trong dạy học môn
Công nghệ 10.
- Trong dạy học hiện nay việc sử dụng phương pháp dạy học dự án trong dạy
học Công nghệ 10 theo hướng nghiên cứu của đề tài này có thể áp dụng rộng rãi.
3.1. Kiến Nghị
Qua quá trình thực hiện đề tài tôi xin mạnh dạn đưa một số kiến nghị góp ý như
sau:
- Đối với nhà trường cần động viên ủng hộ cán bộ giáo viên thực hiện đổi mới
PPDH. Tạo điều kiện tìm kiếm tài liệu phục cho công việc giảng dạy, học tập của
GV và HS. Bên cạnh đó, nhà trường cần cần quan tâm chú ý đến chất lượng của
phòng học tìm kiếm tài liệu cũng như kỹ năng thực hành cho học sinh và thường

xuyên tổ chức tham quan để các em tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tế.
- Đối với giáo viên cần bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường
sử dụng những PPDH tích cực trong dạy học. Không ngừng nâng cao kỹ năng sử
dụng phương tiện công nghệ thông tin trong dạy học. Ngoài ra người GV luôn thu
thập tìm kiếm thông tin xã hội để đưa ra những chủ đề cho dự án phù hợp với thực
tiễn. Khi tiến hành áp dụng PPDA để dạy học, người GV cần xác định điều kiện
thực tế ở địa phương để linh hoạt trong cách tổ chức dự án hiệu quả.
- Đề tài được tiến hành trong thời gian và điều kiện nghiên cứu có giới hạn nên
có nhiều hạn chế và thiếu sót, người nghiên cứu rất mong được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô.
15


- Nếu được nghiên cứu tiếp tục, có thể phát triển đề tài theo các hướng sau: Việc
thử nghiệm mới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ một vài lớp, nếu có thể nghiên cứu ở
nhiều trường khác nhau ở các cấp độ khác nhau sẽ đánh giá được hiệu quả sâu sắc
của phương pháp dạy học theo dự án.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 nănm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Thị Hồng Gấm

16




×