Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP NHẰM GIÁO dục đạo đức lứa TUỔI CHO học SINH lớp CHỦ NHIỆM 10c4 – TRƯỜNG THPT TRIỆU sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.14 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 6

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC LỨA
TUỔI CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM
10C4 – TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN

Người thực hiện: Ngô Văn Khuê
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2018
ơ


MỤC LỤC
1
2
3
4
1

2
3
4

5



ơ

Trang
A. MỞ ĐẦU
1
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2
B. NỘI DUNG
2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2
1.1. Khái niệm về đạo đức
2
1.2. Quá trình giáo dục đạo đức
2
1.3. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức
2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
4
2.1. Thuận lợi
4
2.2. Khó khăn
4

GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
7
BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
7
4.1. Tìm hiểu đối tượng học sinh đề giáo dục
7
4.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện đạo đức cho học 8
sinh.
4.3. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ
10
môn Văn, bộ môn GDCD để rèn luyện đạo đức cho học sinh.
4.4. Đổi mới tiết sinh hoạt cuối tuần
11
4.5. Hoạt động trải nghiệm thực tế để hiểu được tâm lí học sinh.
13
4.6. Dùng phương pháp kết bạn
14
4.7. Kết hợp với Gia đình học sinh trong việc giáo dục đạo đức cho các
15
em.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
16
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17
Tài liệu tham khảo
19
Danh mục SKKN
19



A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Giáo dục và đào tạo là vấn đề đặc biệt
quan trọng, là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế, xã hội. Giáo dục
và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước, của toàn nhân dân, nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu cốt lõi của giáo
dục và đào tạo là hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực con người Việt
Nam. Mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tới năm 2020, định
hướng tới năm 2030 là: Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo
dục; khắc phục dứt điểm các yếu kém kéo dài. Giáo dục và đào tạo con người Việt
Nam yêu đất nước, trung thành với lí tưởng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và hội nhập quốc tế.[1]
Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo chính là chăm lo phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho Đất nước. Người ta thường nói: Trẻ
em như một tờ giấy trắng mà người lớn muốn vẽ gì cũng được. Nói cách khác, học
sinh mà đặc biệt là học sinh THPT là đối tượng dễ bị ảnh hưởng những thói hư, tật
xấu của xã hội một cách nhanh nhất. Nhất là trong thời kì bùng nổ công nghệ thông
tin thì điều đó không tránh khỏi. Vì vậy sự nghiệp giáo dục đào tạo trở thành sự
nghiệp chung của toàn xã hội; và chúng ta – những người làm công tác giáo dục
không thể thờ ơ với thực tế của cuộc sống xã hội và của học sinh mà mình trực tiếp
giáo dục. Trong quá trình giáo dục ấy, giáo viên chủ nhiệ có vai trò, chức năng và
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, trong sự nghiệp “Trồng
người”. Giáo viên chủ nhiệm là người động viên, giúp đỡ học sinh biết vượt qua
hoàn cảnh bản thân để trau dồi kiến thức, rèn luyện tu dưỡng để trở thành con
người có tri thức, có bản lĩnh, lí tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt và nhân cách cao
đẹp. Giáo dục học sinh phải giáo dục toàn diện cả tri thức và đạo đức, bởi “Có tài
mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó” (Hồ Chí Minh). Bởi vậy, sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp tôi mạnh
dạn ghi lại đề tài “Một số biện pháp nhằm giáo dục đạo đức lứa tuổi cho học

sinh lớp chủ nhiệm 10C4-Trường THPT Triệu Sơn 6” làm sáng kiến kinh
nghiệm của mình trong năm học 2017-2018 để chia sẻ cùng đồng nghiệp.

ơ

1


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát, tìm hiểu thực trạng học tập và rèn luyện đạo đức của học sinh hiện
nay cụ thể là học sinh lớp chủ nhiệm. Từ đó tìm ra các giải pháp hợp lý để đưa ra
các biện pháp cụ thể giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào công tác chủ
nhiệm, tôi chọn 2 lớp của trường THPT Triệu Sơn 6, cụ thể:
- Lớp đối chứng: Lớp 10C5 năm học 2017 - 2018.
- Lớp thực nghiệm: Lớp 10C4 năm học 2017 – 2018.
Là học sinh mới vào lớp 10 nên các em còn bỡ ngỡ, còn biết nghe lời, vã lại
các em chủ yếu là con em nông thôn nên có nhiều nét tương đồng giống nhau.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chủ yếu là phương pháp thực nghiệm. Tôi tận dụng tối đa thời gian trong các
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt cuối tuần và trải nghiệm thực tế cho
học sinh. Ngoài ra còn tôi còn phối hợp với giáo viên bộ môn để thảo luận một số
hình thức cũng như tìm hiểu một số nội dung phù hợp để tiến hành thực nghiệm.
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn
mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và người và

con người với tự nhiên. [2]
1.2. Quá trình giáo dục đạo đức.
Là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch nhằm biến những
nhu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức theo yêu cầu của xã hội thành những phẩm
chất, giá trị của cá nhân, nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và
thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã hội. [2]
1.3. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức
1.3.1. Vị trí của quá trình giáo dục đạo đức:

ơ

2


Là một bộ phận cấu thành của quá trình giáo dục trong trường THPT. Quá
trình giáo dục trong nhà trường được chia ra làm nhiều quá trình bộ phận: Giáo dục
đức dục, giáo dục trí dục, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao động
kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp. Trong đó, giáo dục đạo đức được xem là nền
tảng, gốc rễ tạo nên nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác. Quá
trình giáo dục đạo đức tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường và xã hội, con người
với cuộc sống. [2]
1.3.2. Chức năng của giáo dục đạo đức:
Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, đạo
đức một mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội ; mặt khác nó cũng tác
động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy, đạo đức có
chức năng to lớn , tác động theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển xã hội.
Đạo đức có những chức năng sau:
- Chức năng giáo dục.
- Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ tự
điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.

- Chức năng phản ánh. [2]
1.3.3. Nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức:
Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân; hình thành và phát triển ý thức đạo đức;
rèn luyện ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử đạo đức; phát triển các giá trị
đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời
đại.
Trong tất cả các mặt giáo dục, giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan
trọng. Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn
đức. Đức là đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo
đức Cách mạng thì có tài cũng vô dụng ”. Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài,
được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống chứ không phải chỉ được
thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách.
Trong nhà trường THPT, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc
biệt coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ
được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm tri thức đạo đức,

ơ

3


mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin,
hành động thực tế của học sinh. [2]
Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp; còn
quá trình giáo dục đạo đức không chỉ thực hiện trong giờ học trên lớp mà nó được
thực hiện thông qua tất cả các hoạt động tập thể trong Nhà trường, ở địa phương và
Gia đình. Là giáo viên chủ nhiệm, trước hết cần phải hiểu biết một cách sâu sắc
những vấn đề chung của quá trình giáo dục đạo đức. Từ đó mới có những định
hướng, mục tiêu sát thực, xây dựng được những chương trình kế hoạch cụ thể và

có những biện pháp tổ chức, giáo dục thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu
quả của quá trình giáo dục nói chung, quá trình giáo dục đạo đức nói riêng.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
2.1.Thuận lợi:
- Được sự quan tâm, ủng hộ của Ban giám hiệu cùng với sự nhiệt tình giúp đỡ của
đồng nghiệp.
- Sự ủng hộ của phụ huynh học sinh trong lớp.
- Bản thân tôi là người công tác nhiều năm trong ngành giáo dục và làm công tác
chủ nhiệm nhiều năm, nên đã có nhiều kinh nghiệm, có vốn sống và luôn mẫu mực
trong lời nói và gương mẫu trong việc làm.
- Là học sinh lớp 10 nên các em còn non nớt, còn dễ uốn nắn và các em là con em
nông thôn nên có nhiều em ngoan, vâng lời thầy cô giáo. Đây là những thuận lợi để
giáo dục các em ngay trong thời gian đầu năm học.
2.2. Khó khăn:
Trường THPT Triệu Sơn 6 là tiền thân của trường Bán Công, chất lượng đầu
vào thấp. Mặc dù hiện nay đã được tuyển sinh như bao nhiêu trường công lập
khác, nhưng cũng chỉ tuyển được những học sinh có chất lượng thấp cả về học lực
cũng như hạnh kiểm. Những năm gần đây, hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức khá
nhiều. Học sinh trong vùng, phần đông là con gia đình nông dân, một số ít con nhà
buôn bán. Điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, cha mẹ ít quan tâm đến việc học
hành, rèn luyện, tu dưỡng của con cái. Cá biệt có những gia đình thả nổi con cái để
các em sống tự do, ỷ vào nhà trường, trăm sự nhờ cả vào thầy cô. Việc quản lý con
cái lỏng lẻo, một số gia đình nhận thức phiến diện, lệch lạc sai lầm, hoặc thiếu tri
thức, phương pháp nuôi dạy con cái. Quan tâm nuông chiều thái quá trong việc nuôi
dưỡng chăm sóc. Có những bậc cha mẹ còn sử dụng quyền uy với con cái một cách
cực đoan hoặc có những tấm gương phản diện. Có nhiều em bị lâm vào hoàn cảnh
ơ

4



éo le do bố mẹ bỏ nhau hoặc hoạn nạn nên khó khăn trong việc học tập và rèn luyện.
Có những gia đình sử dụng những biện pháp giáo dục sai lầm, thiếu tính sư phạm,
nặng về răn đe thuyết giáo, không thuyết phục, không tạo cơ hội cho con em rèn
luyện trong lao động, sinh hoạt và trong đời sống cộng đồng. Tình thương một chiều
hoặc quá nghiêm khắc, vũ lực thô bạo, cấm đoán hoặc quá nuông chiều, thỏa mãn về
vật chất cho con cái của một số bậc cha mẹ là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng
không tốt đến nhân cách các em.
Hơn nữa, thời kì kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế ngoài những mặt tích cực
nó còn nảy sinh những vấn đề đáng lưu tâm. Đó là, bản sắc văn hóa dân tộc bị đe
dọa; những giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục đang bị xói mòn; mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình lỏng lẻo, luân thường đạo lí bị đảo lộn
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố. Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” (Trần Tế
Xương). Hiện nay, một bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng
về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng
đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào
những việc xấu. Số học sinh vi phạm pháp luật, thiếu lễ độ với người lớn, nói tục,
gây gổ đánh nhau, không trung thực, ích kỷ, ham chơi, đua đòi... ngày càng nhiều.
Ngay ở trong nhà trường, hiện tượng học sinh vô lễ với giáo viên, tình trạng học
sinh kết thành băng nhóm thô bạo với bạn bè (bạo lực học đường) đang nổi lên đến
mức báo động; tình yêu học trò cũng là vấn đề đáng lo ngại bởi có những mối tình
đã để lại hậu quả nghiêm trọng.
Điều đáng quan tâm là một số Cán bộ quản lí, Giáo viên chưa thật sự là tấm
gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri thức khoa học, thờ ơ
không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh. Còn một số giáo
viên có những định kiến, thiếu thiện cảm, thiện chí với những học sinh vi phạm kỉ
luật. Đôi lúc nhà trường và giáo viên còn sử dụng thái quá biện pháp hành chính,
lạm dụng quyền lực, không chú ý nghe các em trình bày nguyện vọng, hoàn cảnh,
lý do… dùng ngôn ngữ thiếu tế nhị, xúc phạm đến nhân cách của học sinh. Thiếu
tình thương và cảm thông với học sinh nhất là với những em có hoàn cảnh éo le,

thiếu tình cảm gia đình. Một vài giáo viên thiếu gương mẫu, mô phạm trong quan
hệ giáo dục. Đôi khi việc đánh giá của giáo viên còn thiếu công bằng, thiếu khách
quan thiên vị hoặc định kiến. Sự kết hợp giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình,
giáo dục ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng mức.

ơ

5


Được sự phân công của nhà trường, năm 2017-2018 tôi làm công tác chủ
nhiệm lớp 10C4. Lớp 10C4 sĩ số 42 trong đó có 20 em nam và 22 em nữ. Là lớp
học đại trà nên điểm đầu vào của các em không cao, toàn bộ có học lực và hạnh
kiểm trung bình.
Lớp 10C4 tình hình học sinh trong lớp rất nhiều thành phần, song chủ yếu là
con gia đình nông dân. Đa phần các em ngoan, lễ phép, chăm chỉ học hành, bên
cạnh đó vẫn có học sinh bỏ giờ học đi chơi điện tử, không chịu học bài, hay nói
chuyện và làm việc riêng trong lớp, cá biệt có trường hợp học sinh đánh nhau, ứng
xử với người trên thiếu lễ phép, cắm xe lấy tiền tiêu xài, hút thuốc lá, nói dối cha
mẹ đi học nhưng không vào lớp nhiều ngày mà cha mẹ không biết chỉ khi giáo
viên chủ nhiệm đến nhà thì sự việc mới sáng tỏ. đặc điểm của lớp như vậy tôi xác
định công tác chủ nhiệm lớp sẽ gặp không ít khó khăn. Để có biện pháp phù hợp,
ngay từ đầu năm tôi chọn 2 lớp, một là lớp tôi chủ nhiệm và một là lớp tôi không
chủ nhiệm để áp dụng các biện pháp giáo dục. Trước tiên tôi tìm hiểu các thông
tin về học tập và hạnh kiểm thông qua học bạ lớp 9, kết quả cụ thể:
Học lực (lớp 9 THCS )
Lớp
SS
Giỏi
Khá

Trung bình Yếu-Kém
SL
%
SL %
SL
%
SL
%
10C4
42
0
0,0
6
14,3 36
85,7 0
0
10C5
40
0
0,0
10 25,0 30
75,0 0
0

Lớp

SS

10C4
10C5


42
40

Hạnh kiểm (lớp 9 THCS )
Tốt
Khá
SL
%
SL %
25
59,5 15 35,7
27
67,5 12 30,0

Trung bình
SL
%
2
4,8
1
2,5

Yếu-Kém
SL
%
0
0
0
0


Từ thực trạng trên, là một giáo viên làm công tác chủ nhiệm, tôi đã băn
khoăn, trăn trở rất nhiều, vừa là lương tâm vừa là trách nhiệm mình cần phải làm gì
để góp phần vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong năm học cuối cấp để
các em có hành trang bước vào đời. Bởi tài và đức luôn đi liền với nhau, một nhà
trường có nề nếp tốt thì phải có nhiều tập thể lớp có nề nếp tốt. Kết quả đạo đức và
kết quả học tập có mối quan hệ mật thiết với nhau: trong một lớp học nếu học sinh
ơ

6


có đạo đức tốt, nề nếp tốt thì kết quả học tập sẽ được nâng cao. Tôi nhận thấy, việc
nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng của cán bộ giáo viên nói chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng.
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Tìm hiểu đối tượng học sinh để giáo dục.
3.2. Vai trò của Giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc rèn luyện đạo đức cho học
sinh.
3.3. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn Văn,
bộ môn GDCD để rèn luyện đạo đức cho học sinh.
3.4. Đổi mới tiết sinh hoạt cuối tuần.
3.5. Hoạt động trải nghiệm thực tế để hiểu được tâm lí học sinh.
3.6. Dùng phương pháp kết bạn.
3.7. Kết hợp với Gia đình học sinh trong việc giáo dục đạo đức cho các em.
4. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
4.1. Tìm hiểu đối tượng học sinh để giáo dục:
Đối tượng mà chúng ta trực tiếp giảng dạy và giáo dục là học sinh THPT.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, độ tuổi vị thành niên là từ 10 dến 19 tuổi. Ở Việt
Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi. Như vậy, học sinh THPT là

lứa tuổi vị thành niên, giai đoạn này các em đang phát triển mạnh về thể chất, tâm
sinh lý. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Các em có xu hướng
tự khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. Ở giai đoạn này, sự chỉ
bảo, kiểm tra, giám sát của người lớn nhiều khi làm các em tỏ ra khó chịu. Đây
cũng là giai đoạn các em thích tìm tòi, khám phá phát hiện những điều chưa biết,
những cái mới mẻ của cuộc sống. Đồng thời các em cũng muốn vượt khỏi sự ràng
buộc của cha mẹ.
Ở lứa tuổi THPT, sự giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu rất lớn. Các em có
xu hướng tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp với tính tình để vui
chơi đùa nghịch. Có những lúc, những nơi các em có hành vi không đúng, không
phù hợp với lứa tuổi. Ở giai đoạn này, quá trình phát triển sinh lý ảnh hưởng rất
nhiều đến tính cách của các em như: dễ bị xúc động, dễ bị lôi kéo, kích động, lòng
kiên trì và khả năng tự kiềm chế của các em yếu. Tính tình của các em không ổn
định, dễ nổi cáu, khi thì quá sôi nổi nhiệt tình, nhưng có trở ngại lại buông xuôi,

ơ

7


chán nản. Lứa tuổi này các em cảm thấy cái gì cũng dễ dàng đơn giản và luôn ở hai
trạng thái hoặc tự ti hoặc hiếu thắng, dẫn đến những hành động thiếu suy nghĩ,
nhiều lúc mình vi phạm nhân cách mà không biết.
Vì thế, khi bắt đầu nhận lớp chủ nhiệm, công việc tìm hiểu học sinh phải
tiến hành kịp thời, để từ đó phân loại học sinh theo nhóm đối tượng tùy thuộc vào
hoàn cảnh từng học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải có những thông tin khái quát
về gia đình học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia
đình, nền giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ
của gia đình với láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm kết hợp
tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Giáo viên chủ nhiệm

phải nắm được đặc điểm học sinh về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ
học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở
trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt
là rất cần thiết nhưng giáo viên chủ nhiệm phải thấy được nguyên nhân dẫn đến
thực trạng đó. Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu tâm lí, lứa tuổi, năng lực học tập,
hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, sự đoàn
kết của lớp mình chủ nhiệm.
Từ đó, giáo viên chủ nhiệm đề ra những kế hoạch hoạt động cụ thể đối với
lớp, nên đặt ra những tình huống giả định có vấn đề và định ra biện pháp giải quyết
trong quá trình chủ nhiệm để khi sự việc xảy ra giáo viên chủ nhiệm sẽ không bị
động khi xử lý tình huống. Có như vậy giáo viên chủ nhiệm mới chủ động trong
công tác quản lí học sinh trong lớp mình.
4.2. Vai trò của Giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc rèn luyện đạo đức cho học
sinh.
Công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT phụ thuộc rất lớn vào
nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu, phương pháp sư
phạm dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp từ
nhân cách người thầy với học sinh. Lúc sinh thời Bác Hồ đã có lời dạy chúng ta về
rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả
đức, tài là văn hóa chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo
viên phải có đức…Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ
con”. (Trích các lời dạy của Bác về Rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công
dân).

ơ

8


Đối với một lớp học, giáo viên chủ nhiệm có vai trò vô cùng quan trọng, là

cầu nối đa chiều với các lực lượng giáo dục trong nhà trường, gia đình và xã hội,
đóng góp nhiều công sức trong việc giáo dục học sinh, chăm lo, dìu dắt các em về
mọi mặt. Ngoài chức năng nhiệm vụ của một giáo viên bình thường, giáo viên chủ
nhiệm còn là người quản lý toàn bộ hoạt động giáo dục của lớp. Trong công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh, các giáo viên khác thông thường chỉ thực hiện qua
bài giảng. Còn đối với giáo viên chủ nhiệm, ngoài việc giáo dục đạo đức học sinh
qua bài giảng còn phải giáo dục qua hoạt động thực tiễn của lớp. Để học sinh học
tốt đòi hỏi lớp phải có phong trào thi đua, tạo không khí học tập sôi nổi. Giáo viên
chủ nhiệm lớp phải tổ chức được phong trào đó. Muốn giáo dục học sinh vi phạm
đạo đức, học sinh cá biệt, dìu dắt học sinh yếu kém trước hết phải là giáo viên chủ
nhiệm. Học sinh trong lớp không đoàn kết với nhau giáo viên chủ nhiệm cũng phải
tháo gỡ.
Làm công tác chủ nhiệm lớp 10C4 với đa số học sinh có hoàn cảnh gia đình
khó khăn, tôi gặp rất nhiều khó khăn, thử thách. Tôi xác định phải gần gũi học
sinh, tận tụy với công việc, thậm chí hy sinh lợi ích riêng của mình để hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Tôi thường kiểm tra việc học tập của các em ở nhà thông qua phụ
huynh và phụ đạo thêm cho học sinh yếu, kém để các em nắm vững kiến thức. Để
giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn ở trong lớp cùng với việc vận động học
sinh trong lớp, vận động các thầy cô giáo bộ môn ủng hộ, bản thân tôi thực sự coi
đây là một nhiệm vụ mà mình phải làm tốt bằng bất cứ giá nào để học sinh được
đến trường như các bạn khác.
Đặc biệt, bản thân tôi xác định để giáo dục học sinh mình cần phải có phẩm
chất tâm lý của người làm cha, làm mẹ, là người bạn lớn của học sinh. Để góp
phần hình thành và phát triển nhân cách của các em một cách có hiệu quả, giáo
viên phải có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với
học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ tìm hiểu và nắm
vững học sinh trong lớp về mọi mặt, cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh và
phối hợp với giáo viên bộ môn, tổ chức đoàn, để giáo dục học sinh trong lớp mình
chủ nhiệm. Giáo dục cho các em động cơ học tập đúng đắn: Chăm chỉ, say mê học
tập, biết trân trọng những kiến thức được tiếp thu, không ỷ vào khó khăn, có nghị

lực vượt qua khó khăn, thái độ học tập phải trung thực; đức khiêm tốn, tinh thần
tập thể, tính tương trợ, tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Để các em học
tập tốt, giáo viên chủ nhiệm cần phải rèn luyện cho các em đức tính kiên trì, chịu
ơ

9


khó say mê sáng tạo, vận dụng tri thức vào thực tiễn. Giáo dục quan điểm: “Học để
biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình” (UNESCO).
Giáo viên chủ nhiệm cần đảm bảo quyền lợi chính đáng, thưởng phạt phân
minh, kịp thời, công bằng đối với tất cả học sinh. Giáo viên chủ nhiệm không được
phép trù úm, ghẻ lạnh, phân biệt đối xử với học sinh. Trong đánh giá học sinh, giáo
viên chủ nhiệm phải công bằng, khách quan để tạo niềm tin cho các em phấn đấu,
đây là một biện pháp tâm lý rất quan trọng và có hiệu quả. Giáo dục đạo đức là
một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm cần có sự công
phu, kiên trì, các biện pháp giáo dục phải liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần thì
công tác giáo dục mới đạt kết quả. Không có công thức nào chung nhất cho công
tác chủ nhiệm, nhưng trước tiên cần phải có cái tâm, lòng nhiệt tình và phương
pháp hợp lý thì sẽ đem lại thành công.
4.3. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn
Văn, bộ môn GDCD để rèn luyện đạo đức cho học sinh.
Tôi gặp gỡ giáo viên Ngữ văn và GDCD trao đổi và đưa ra ý kiến về biện
pháp phối kết hợp của giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để rèn luyện đạo
đức cho học sinh lớp chủ nhiệm.
Với đặc trưng bộ môn, môn Ngữ văn là môn học giúp học sinh có nhiều bài
học, nhiều câu chuyện về đạo đức . Thông qua học môn Ngữ văn giáo viên bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm, lòng yêu thương con người, yêu cái đẹp biết ghét cái ác,
cái xấu, biết hướng thiện và làm điều thiện, hiểu được truyền thống đấu tranh dựng
nước và giữ nước của ông cha ta, biết tự hào về truyền thống đó mà thấy rõ trách

nhiệm công dân của mình với Tổ quốc, với dân tộc, với quê hương, hiểu thêm về
quê hương, đất nước, những di sản văn hóa, những danh lam thắng cảnh của đất
nước và thế giới. Ví dụ: trong chương trình Ngữ văn 12, bài thơ “Đò lèn” của
Nguyễn Duy, khơi dậy ở học sinh những tình cảm mà mình đã dành cho Ông Bà.
Ở cuối bài thơ, Nguyễn Duy viết “Khi tôi biết thương bà thì đã muộn. Bà chỉ còn
là nấm cỏ thôi”, tôi nghĩ câu thơ có tác động sâu sắc đến tình cảm của các em, bởi
thông qua tìm hiểu học sinh trong lớp, tôi biết có học sinh hiện đang ở hoàn cảnh
như Nguyễn Duy ngày xưa ấy
Hoặc tác phẩm “Số phận con người” (Trích “Số phận con người” của Sô-lôkhốp), giáo viên hướng dẫn Học sinh tìm hiểu về tác giả, tác phẩm và nhân vật
chính An-đrây Xô-cô-lốp. Tìm hiểu về nhân vật An-đrây Xô-cô-lốp ở các phương
diện: hoàn cảnh và tâm trạng sau chiến tranh; cuộc gặp gỡ bé Va-ni-a; cuộc hành
ơ

10


trình rời U-pin-xcơ. Đặc biệt, khi tìm hiểu cuộc gặp gỡ giữa Xô-cô-lốp và bé Vani-a. Các em thấy được việc nhận bé Va-ni-a (một đứa bé mồ côi cha mẹ, một số
phận bất hạnh sau chiến tranh) làm con thể hiện sự đồng cảm, tình thương, lòng
yêu mến chân thành, bộc trực và tâm hồn nhân hậu của Xô-cô-lốp. Và, từ đó hình
thành ở học sinh lòng thương người, sự sẻ chia với những người bất hạnh, biết yêu
thương con người trong mọi hoàn cảnh. Gần hơn nữa là giúp các em có tinh thần
đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, biết chia sẻ với những bạn có hoàn cảnh khó khăn ở
trong lớp. Biết trân trọng giá trị con người và điều quan trọng là tự các em phải có
bản lĩnh để vượt lên hoàn cảnh, vượt lên những thử thách khắc nghiệt của số phận
để khẳng định mình. Bởi không xa nữa, các em sẽ phải đối mặt với cuộc sống mới,
môi trường mới và rất nhiều thử thách đang chờ ở phía trước. Đối với văn học
bằng những tác phẩm có tính nhân văn giáo viên tác động tới tâm hồn các em, kéo
các em về với các chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam.
Đối với giáo viên bộ môn GDCD thông qua việc cung cấp cho học sinh
những hiểu biết chung về một số phạm trù đạo đức cơ bản và một số truyền thống

đạo đức tốt đẹp của dân tộc, qua đó giáo viên rèn luyện kỹ năng sống, đặc. Giáo
viên bộ môn GDCD có khả năng lập luận, thuyết trình và vốn sống phong phú.
Nên sẽ hướng dẫn các em ứng xử và giải quyết tình huống rất tốt, từ đó biết phản
đối những điều xấu và yêu quý, trân trọng những hành động đẹp, việc làm tốt…
Ngoài ra tôi gặp riêng và trao đổi cụ thể với giáo viên bộ môn khác, những
điểm mạnh điểm yếu của từng học sinh trong từng tiết dạy bộ môn. Những học
sinh chưa tiến bộ và bàn về cách giáo dục phù hợp đặc điểm tâm lý cá nhân.
4.4. Đổi mới tiết sinh hoạt cuối tuần
Thông thường giờ sinh hoạt lớp cuối tuần GVCN làm công tác tổng kết tuần
và đề ra kế hoạch hoạt động của tuần học kế tiếp. Giờ sinh hoạt lớp thường rất
nặng nề vì tất cả những khuyết điểm của học sinh trong tuần sẽ được GVCN kiểm
điểm, phê bình, uốn nắn một cách nghiêm khắc có phần khắt khe. Không khí giờ
sinh hoạt hết sức căng thẳng, cả giáo viên và học sinh đều phải gồng mình lên để
với những hành vi chưa đẹp của học sinh và những ngôn ngữ thiếu thiện cảm của
GVCN.
Thoát ra khỏi quy luật khắt khe ấy, giờ sinh hoạt của lớp tôi chủ nhiệm là
thời điểm mà học sinh tự phê bình và phê bình lẫn nhau, GVCN tham gia với tư
cách là cố vấn, dự giờ và đưa ra ý kiến nhận xét cuối cùng trong giờ sinh hoạt.
Thông qua giờ sinh hoạt lớp, GVCN kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm
ơ

11


của học sinh khi có học sinh vi phạm, lấy tình nghĩa thầy trò tâm sự cởi mở, chân
thành với các em làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Trong khi giáo
dục các em, GVCN không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác
định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, phải
hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những
thành tích nhỏ, dùng những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm

gương người tốt, việc tốt trong cuộc sống thậm chí có thể kể cho các em về sự nỗ
lực phấn đấu vượt khó của bản thân mình để các em học tập. Có thể lúc ấy các em
chưa hiểu ra nhưng mưa dầm thấm lâu, các em sẽ nhận ra điều mình làm chưa
đúng và sửa chữa kịp thời. GVCN nêu những việc làm tốt, những cố gắng nỗ lực
của các thành viên trong lớp để xây dựng tập thể lớp thành lớp tiên tiến.
Để tiết sinh hoạt cuối tuần sôi nổi tôi còn lồng ghép những vấn đề nóng hổi
mà các em thường gặp và quan tâm thành các bài tham luận như: “Tình yêu tuổi
học trò nên hay không nên” hoặc “Các nguyên nhân gây ra bạo lực học đường”
hay “ Cần làm gì cho tương lai”... Mỗi tháng tôi đưa ra một chủ đề và phù hợp nội
dung của từng tháng.
Ví dụ: Tháng 9 tôi đưa ra chủ đề “Thanh niên với học tập, rèn luyện vì sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”. Sau đó tôi tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Tuần đầu tiên của tháng 9, tôi đưa ra nội dung thứ nhất: “Thanh niên với
học tập và rèn luyện”,tôi đưa ra các câu hỏi tham luận như: “học để làm gì”, “Có
cần thiết phải đi học tập hay không ?”, “Học để cho mình hay cho ai?”, “ Học của
những ai?”...sau đó cho các em về nhà viết tham luận và sẽ tham luận vào tiết sinh
hoạt lớp tuần thứ 3.
Bước 2: Tuần 2 của tháng 9, tôi đưa ra nội dung để các em thảo luận “ Vai trò của
thanh niên trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện địa hoá đất nước”. Ở nội dung
này tôi cho các em tuỳ chọn nội dung để viết tham luận và sẽ trình bày vào tuần
thứ 4 của tháng.
Bước 3: Đến tuần đọc tham luận, tôi thu bài và cho các em tham luận trước lớp.
Tôi cũng phấn khởi khi các em phát biểu rất hăng say, sôi nổi và đặt ra những câu
hỏi mà nhiều bạn đang quan tâm như “ Làm thế nào để học tập có kết quả tốt?”….
Bước 4: Tôi cho các em thảo luận về kế hoạch học tập và rèn luyện của năm học
Bước 5: Sau đó tôi cho các em phát biểu suy nghĩ, liên hệ bản thân và chốt lại bài
học cần rút ra: Chúng ta cần phải thấy việc xây dựng cho bản thân một lý tưởng
sống đúng đắn là vô cùng quan trọng. Mục tiêu, lý tưởng đó không nhất thiết phải
ơ


12


quá cao xa. Chúng ta có thể bắt đầu từ những mục tiêu nhỏ hơn, thiết thực hơn.
Trước khi phấn đấu trở thành một công dân tốt thì hãy phấn đấu là một học sinh
tốt, một đứa con ngoan. Cha mẹ của chúng ta rất vất vả ... Trước khi em muốn thay
đổi thế giới thì hãy tự thay đổi bản thân. Hãy sống đúng với khí chất của lứa tuổi
thanh niên: luôn năng động, nhiệt huyết, sẵn sàng vượt qua mọi thách thức, khó
khăn.
Cứ lần lượt như thế các chuyên đề của lớp tôi được thực hiện như: Tháng 10
là chuyên đề “Vấn đề bạo lực học đường”, tháng 11 là chuyên đề “Thanh niên với
truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo”, tháng 12 là “thanh niên với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, tháng 1là “Thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc”, tháng 2 là “Thanh niên với lý tưởng cách mạng”, tháng 3 là “Thanh
niên với vấn đề lập nghiệp”, tháng 4 là “Thanh niên với hoà bình, hữu nghị và hợp
tác” và tháng 5 là “Thanh niên với Bác Hồ”.[3]
Với phương pháp này, một mặt, tôi đã giáo dục cho các em được các kĩ năng
sống như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng tự giải quyết vấn đề...
Mặt khác cung cấp cho các em các kiến thức cần thiết trong cuộc sống đang là vấn
đề cấp thiết như: Sức khoẻ sinh sản vị thành niên hay nạn bạo lực học đường để
các em phòng tránh.[4]
4.5. Hoạt động trải nghiệm thực tế để hiểu được tâm lí học sinh
Để hiểu rõ hơn nữa học sinh lớp chủ nhiệm củ mình, ngay từ đầu năm tôi lên
kế hoạch cùng với Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp đi thăm được một số gia
đình học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trước hết chúng tôi đến thăm gia
đình em Lê Thị Tình ở xã Thọ Dân. Em mồ côi cả bố lẫn mẹ sau một tai nạn giao
thông hồi 2006, hai chị em ở với ông bà nội. Sức già đã không giúp được nhiều
cho hai chị em mà những lúc mưa gió, bệnh tật đã làm cho em phải bỏ lỡ việc học
hành.
Hay em Đoàn Văn Tuấn ở xã Minh Châu - bố em bị bệnh hiểm nghèo, gia

đình em có gì đáng giá đều bán hết lấy tiền chạy chữa cho bố. Gia đình em khủng
hoảng cả về mặt tinh thần lẫn kinh tế. Em chán nản và giải trí bằng con đường ham
chơi điện tử và còn nhiều hoàn cảnh khó khăn khác mà tôi không thể kể hết.
Bản thân tôi nghĩ, trải nghiệm thực tế là việc làm cần thiết để giáo viên chủ
nhiệm hiểu được học trò của mình hơn, không phải chỉ bằng những “câu khẩu
hiệu, những mệnh lệnh” mà bằng những việc làm tưởng chừng đơn giản để kéo
ơ

13


gần khoảng cách thầy trò- gia đình và nhà trường, từ đó đưa ra những phương pháp
giáo dục đúng đắn, không nên trách mắng, xử phạt quá vội vàng, khi chưa hiểu
nguyên nhân.
Ngoài ra tôi còn cho các em xem một số video phóng sự về những nhọc
nhằn vất vả của những học sinh vùng núi, học sinh dân tộc vùng cao, như: Ký sự
Tây Bắc “ Học sinh trường Mồ Dề ăn trưa”; Con đường đến trường của học
sinh miền núi – VTV1 hay bài hát Môi tím chân trần…để các em thấy được đối
với các em miền núi thì mình còn hạnh phúc, may mắn biết nhường nào, để từ đó
các em có ý trí phấn đấu hơn nữa.
Tôi thiết nghĩ với người giáo viên chủ nhiệm nếu chỉ biết đưa ra những
“bảng nội quy thép của lớp” và “xử phạt nghiêm” khi các em mắc lỗi thì mới giải
quyết được phần “nổi” của “tảng băng chìm”. Có thể các em sợ trách phạt nhưng
chỉ là trước mắt, là tạm thời nhưng sâu thẳm tâm hồn các em không phải thay đổi
một cách tự nguyện, tự giác. Đặc biệt là với những học sinh cá biệt, các em đã
“chai lì” với những câu “trách móc” nên giáo viên chủ nhiệm nếu “khéo léo” có
những tác động tâm lí nhẹ nhàng, mềm mỏng, đôi khi sẽ là “liều thuốc đặc trị chữa
lành” những thói hư, tật xấu của các em. Vì vậy, người giáo viên chủ nhiệm phải
biết vận dụng sáng tạo từng biện pháp trong từng tình huống vào từng đối tượng cụ
thể để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo, hợp tình, hợp lí.

4.6. Dùng phương pháp kết bạn
Thường lứa tuổi học sinh THPT dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu
nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có
tính tập thể, tính giáo dục cao . Do đó GVCN nên phân công một nhóm bạn, cùng
hoàn cảnh, cùng sở thích, uớc mơ ... các em có điều kiện sinh hoạt, học tập với
nhau, dần dần các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc
cảm của bản thân để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững
mạnh .
Mặt khác, thông qua nhóm bạn, GVCN giao cho nhóm học sinh thực hiện
một số công việc, tạo những điều kiện để những học sinh này hoàn thành và động
viên khích lệ các em để các em hòa mình với bạn bè. Ngoài ra có thể vận động gia
đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ các em bằng nhiều hình thức như:
gây quỹ giúp bạn nghèo thông qua giúp việc cho gia đình phụ huynh để lấy tiền
giúp bạn; giúp đỡ những bạn có hoàn cảnh khó khăn bằng việc làm cụ thể: gặt lúa,
ơ

14


làm cỏ, làm vệ sinh môi trường…tạo cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như
gia đình mình, tạo điều kiện cho các em cùng tham gia học tập và hoạt động một
cách bổ ích. Việc làm này quả là rất khó khăn, nhưng có tâm huyết, hết lòng với
học sinh thì sẽ gặt hái được nhiều thành công.
4.5. Kết hợp với Gia đình học sinh trong việc giáo dục đạo đức cho các em.
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người sinh ra và lớn lên, là tổ ấm
mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân, là nhóm tâm lý, tình cảm xã hội đặc thù mà ở
đó mối quan hệ huyết thống ruột thịt giúp cho mỗi cá nhân hình thành và phát triển
nhân cách. Chính vì thế nhà trường và GVCN lớp phải nối nhịp cầu liên hệ chặt
chẽ thường xuyên bằng nhiều cách để giúp đỡ, giáo dục học sinh như: Thông qua
ban đại diện Hội Cha mẹ học sinh, thông qua sổ liên lạc. Thông qua cam kết giữa

gia đình và nhà trường, thông qua sổ liên lạc giáo viên chủ nhiệm luôn cung cấp
thông tin và tình hình học tập, rèn luyện của từng học sinh tới từng gia đình học
sinh đồng thời nhận được sự phản hồi thông tin từ phía cha mẹ học sinh để phối
hợp giáo dục, đặc biệt là giáo dục học sinh vi phạm đạo đức, học sinh cá biệt, học
sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Truyền thống văn hoá gia đình cũng như phương pháp giáo dục con em
trong từng gia đình một là vô cùng quan trọng. Từ khi mới sinh ra, các em được
tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống này. Vì vậy, hành vi của các em sẽ phát triển
theo chiều hướng tốt hay sấu phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình mình. Từ đó trách
nhiệm của phụ huynh trong việc tư vấn cũng như hướng dẫn các em đi theo chiều
hướng đúng đắn đảm bảo các yếu tố sau:
+ Dành thời gian để đôn đốc, kiểm tra, theo dõi các hành vi, thái độ của con cái.
+ Khuyến khích những thái độ, hành vi tốt trong học tập, công việc và tham gia các
hoạt động xã hội của các em.
+ Làm gương cho con em trong gia đình.
Ngoài ra phụ huynh còn phải gần gũi con cái, gợi chuyện để con tâm sự với
mình để từ đó hiểu con nhiều hơn, phải để ý quan tâm để ý tới các thay đổi của con
như: Ăn mặc đẹp hơn; chú ý đến hình thức nhiều hơn; có bạn khác giới; nhóm bạn
hay chơi của con. Để từ đó có những biện pháp giáo dục con cái một cách đúng
mực.

5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ơ

15


Sau khi áp dụng đề tài “Một số biện pháp nhằm giáo dục đạo đức lứa tuổi
cho học sinh lớp chủ nhiệm 10C4-Trường THPT Triệu Sơn 6” trong năm học
2016-2017 lớp tôi đã có những kết quả nhất định, đã được nhà trường đánh giá và

ghi nhận ở một lớp được coi là lớp có nhiều học sinh có lực học yếu và chưa chăm
ngoan như lớp tôi: Nề nếp của lớp tôi được xếp thứ 2 của nhà trường có số lượng
học sinh tiên tiến tăng lên rõ rệt. Lớp đạt lớp tiên tiến cả năm.
- Về hoạt động phong trào, lớp tôi đã đạt giải ba văn nghệ của trường trong đợt thi
đua 20-11, giải nhì nấu ăn trong đợt thi đua 8-3…
- Kết quả học tập và rèn luyện của lớp như sau:

Trước khi áp dụng đề tài (năm học 2016-2017)
Lớp

SS

10C4
10C5

42
40

Lớp

SS

10C4
10C5

42
40

Học lực (lớp 9 THCS )
Giỏi

Khá
SL
%
SL %
0
0,0
6
14,3
0
0,0
10 25,0

Trung bình
SL
%
36
85,7
30
75,0

Hạnh kiểm (lớp 9 THCS )
Tốt
Khá
SL
%
SL %
25
59,5 15 35,7
27
67,5 12 30,0


Trung bình
SL
%
2
4,8
1
2,5

Sau khi tác động (năm học 2017-2018)
Học lực
Lớp
SS
Giỏi
Khá
SL
%
SL %
10C4
42
0
0,0
16 38,0
10C5
40
0
0,0
14 35,0

Trung bình

SL
%
26
62,0
26
65,0

Yếu-Kém
SL
%
0
0
0
0

Yếu-Kém
SL
%
0
0
0
0

Yếu-Kém
SL
%
0
0
0
0


Hạnh kiểm

ơ

16


Lớp
10C4
10C5

SS
42
40

Tốt
SL
36
30

%
85,7
75,0

Khá
SL %
6
14,3
9

22,5

Trung bình
SL
%
0
0,0
1
2,5

Yếu-Kém
SL
%
0
0,0
0
0,0

- Đối với lớp đối chứng 10C5 khi chưa tác động, số học sinh có học lực khá
giỏi và hạnh kiểm tốt có tăng lên nhưng không đáng kể, trong đó dặc biệt vẫn còn
hạnh kiểm trung bình.
- Đối với lớp thực nghiệm 10C4. Sau một năm áp dụng thì học lực khá đã
tăng rõ rệt từ 6 em chiếm 14,3% lên 16 em chiếm 38,0%. Số lượng học sinh trung
bình và yếu giảm hẳn, trung bình từ 36 em chiếm 85,7% xuống 26 em chiếm
62,0%. Về hạnh kiểm, số lượng học sinh có hạnh kiểm tốt tăng từ 25 em chiếm
59,5% lên 36 em chiếm 85,7%, học sinh có hạnh kiểm trung bình và yếu không
còn em nào.
Trong năm học này các em đã tiến bộ rõ rệt cả về học tập và nề nếp. Những
học sinh cá biệt như: Lê Sĩ Tú, Đõ Văn Hùng,...các em đã có tư tưởng ổn định chịu
khó học tập, tu dưỡng đạo đức. Trong đó, nổi bật có em Nguyễn Thị Tuyết Nhung,

Lê Thị Quỳnh Thảo, Lê Thi Hạnh đã đạt danh hiệu học sinh tiên tiến.
Nhưng thành công lớn nhất của lớp tôi, tôi thiết nghĩ, đó là các em đã thực
sự đoàn kết, không còn hiện tượng chia bè phái. Các em học tập với tinh thần tự
giác, chủ động; biết lắng nghe sự chỉ bảo của giáo viên bộ môn.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. KẾT LUẬN
“Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”
lời dạy của Bác Hồ mãi mãi là phương châm hành động cho toàn xã hội nói chung,
cho ngành giáo dục nói riêng .Với những kinh nghiệm sau khi tôi đã vận dụng đối
với lớp chủ nhiệm 10C4 trường THPT Triệu Sơn 6. Kết quả mang lại rất rõ. Đa số
các em đã hiểu được trách nhiệm của bản thân trong việc học tập cũng như rèn
luyện để trở thành một người con ngoan, một học sinh giỏi, một người công dân có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước.

ơ

17


Bản thân mỗi giáo viên chủ nhiệm phải luôn cố gắng, rèn rũa và trau dồi,
không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn giỏi trong việc nắm bắt được lòng người, để
có những biện pháp hay giáo dục thế hệ trẻ đủ đức, đủ tài. Những ai làm công tác
chủ nhiệm hẳn trong lòng đều rất thấm thía “chủ nhiệm bao nỗi nhọc nhằn, truân
chuyên” nhưng bù lại có nhiều niềm vui. Vui vì “đàn con” của mình đã từng bước
trưởng thành, có thể bay cao bay xa đi muôn nẻo đường đời.
Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh thực sự đã đem lại thành công bước đầu
và kết quả rất khả quan. Đó là kết quả thực tế từ đề tài này do tôi áp dụng tại lớp
10C4 – Trường THPT Triệu Sơn 6 .
2. ĐỀ XUẤT

Đối với giáo viên: Phải vừa dạy kiến thức vừa dạy về kỹ năng sống cho học
sinh, để trang bị cho các em những kỹ năng cơ bản để trong đường đời các em
vững trãi hơn
Đối với nhà trường: Cần xây dựng kế hoạch ngoại khoá phù hợp, trong đó có
những bài học, chương trình có nội dung liên quan đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh
Đề tài này chỉ giới hạn ở việc đưa ra một số biện pháp mà tôi cho rằng nó
phù hợp với đối tượng học sinh ở một số khu vực nhất định, không phải ở đâu cũng
có thể áp dụng được. Tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm, chia sẻ, góp ý,
đặc biệt là đối với giáo viên chủ nhiệm để tôi hoàn thiện hơn nữa trong công tác
chủ nhiệm.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 30 tháng 06 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Ngô Văn Khuê

ơ

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW, BCH TW Đảng khoá XI.
2. Nguồn Internet

3. Nguyễn Thanh Bình: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT
(Modul 35 BDTX ).
4. Phan Thanh Long: Giáo dục học sinh THPT qua các hoạt động giáo dục
(Modul 29 BDTX )
5. VTV1, VTV3.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Ngô Văn Khuê
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Triệu Sơn 6

TT Tên đề tài SKKN
1.

2.

ơ

Một số biện pháp rèn luyện
văn hoá giao tiếp ứng xử học
đường nhằm giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh lớp
chủ nhiệm 10A4 trường
THPT Triệu Sơn 6
Một số kinh nghiệm nhỏ tư
vấn tâm lí lứa tuổi nhằm ổn
định nề nếp lớp chủ nhiệm
11A4-Trường THPT Triệu

Sơn 6

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
Sở giáo dục và
đào tạo

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
B

Sở giáo dục và
đào tạo

C

Năm học
đánh giá
xếp loại
2015-2016

2016-2017

19




×