Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10a4 thông qua công tác chủ nhiệm tại trường THPT lê lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.68 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Rèn luyện kỹ năng sống có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người. Kĩ năng
sống giúp con người có thể đương đầu với thử thách trong cuộc sống và để hồn
thiện mình hơn. Trong những năm gần đây, chương trình giáo dục của Bộ GD &
ĐT đã hướng đến việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ngay từ khi còn ngồi
trên ghế Nhà trường và coi đây là một trong những nội dung quan trọng của
chương trình giáo dục phổ thông.
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ học sinh (HS) nói chung và HS trường
THPT Lê Lai nói riêng đang sa vào tệ nạn xã hội, hư hỏng, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng học tập, nề nếp của nhà trường. Sự gia tăng những
biểu hiện do thiếu kỹ năng sống như: không thể hiện được khả năng của bản
thân, khó hồ nhập, lúng túng khi xử lý tình huống, hay gây mâu thuẫn, bất hoà
với bạn bè, thầy cơ, khơng kiểm sốt được cảm xúc dẫn đến đánh nhau, thậm chí
cịn gây ra cả án mạng ....
Ngun nhân khơng nhỏ của tình trạng trên là do các em chưa được trang
bị kĩ năng sống một cách đầy đủ, để có thể đương đầu với sự biến động và cám
dỗ trong xã hội hiện nay. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho HS là rất cần
thiết đặc biệt là các em HS lớp 10, các em đang cịn bỡ ngỡ khi mới bước vào
mơi trường trung học phổ thông.
Thực tế cho thấy việc giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường trung học
phổ thơng nói chung và trường trung học phổ thơng Lê Lai, huyện Ngọc Lặc
nói riêng chưa được quan tâm đúng mức, mới chỉ dừng lại ở bộ môn GDCD,
một số buổi sinh hoạt tập thể như hoạt động ngoài giờ lên lớp, các ngày lễ kỉ
niệm lớn trong năm như 8/3, 20/11, 26/3, 19/5. Do vậy, chưa đáp ứng được mục
tiêu của Bộ GD & ĐT.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần có sự phối hợp của gia đình,
nhà trường và xã hội. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng để hoàn
thành mục tiêu này là đội ngũ giáo viên. Đặc biệt là giáo viên chủ
nhiệm(GVCN).
Có thể nói GVCN là người đóng vai trị quan trọng trong việc kết nối giữa


nhà trường với HS, là người gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với HS. Là kênh
truyền đạt những mong muốn, suy nghĩ của các em tới Ban giam hiệu nhà
trường và ngược lại. Tại trường trung học phổ thông Lê Lai, trong một tuần
GVCN có các buổi sinh hoạt lớp 15 phút đầu giờ, tiết 1 thứ 2 đầu tuần (3 tiết /
tháng) và 1 tiết sinh hoạt lớp vào tiết 5 thứ 7 hàng tuần, các buổi lao động làm
vệ sinh khuôn viên môi trường học đường để gặp gỡ quan sát, trao đổi với HS,
nắm bắt tâm tư, đời sống sinh hoạt thường ngày của các em. Như vậy, thời gian
để GVCN tiếp xúc với HS nhiều hơn. Nhưng hầu hết bản thân tôi thấy những
buổi sinh hoạt các lớp đều diễn ra khô khan và cứng nhắc, chủ yếu là xử lý các
trường hợp vi phạm, thậm chí nhiều giáo viên cịn nói những lời nặng nề với các
em gây ra những xung đột giữa giáo viên và HS. Thời gian sinh hoạt 15 phút

11


đầu giờ thì diễn ra nhàm chán, lặp đi lặp lại như: tập hát, chữa bài tập, giáo viên
chủ nhiệm lên nhắc nhở công việc tại lớp....
Trong năm học 2018 – 2019, tôi được Ban giám hiệu phân công chủ
nhiệm lớp 10A4, bản thân tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho HS có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với học sinh. Do vậy tôi đã rất tích cực giáo dục
cho các em những kỹ năng cơ bản. Những việc làm đó đã được tơi thể hiện trong
đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10A4 thông qua công tác chủ
nhiệm tại trường THPT Lê Lai”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và pháp lý của đề tài: phân tích, đối chiếu với
thực trạng của nhà trường trong thời điểm hiện tại để qua đó tìm ra các biện
pháp, giải pháp mới hiệu quả hơn cho các hoạt động .
- Xây dựng mơ hình để giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống
giúp cho học sinh có tinh thần và thái độ học tập tự giác, tích cực, sống có lý
tưởng, hồi bão, ứng xử, hành động mang tính nhân văn. Nó cịn giúp cho HS có

ý thức bảo vệ, rèn luyện cơ thể, sống lành mạnh tránh xa các tệ nạn xã hội.
- Đạt hiệu quả cao trong phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”
- Đạt được các mục tiêu của giáo dục, đã được định hướng theo bốn trụ
cột: “Học để biết; Học để làm; Học để chung sống và học để làm người”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đây là nội dung được nhiều người hiện đang rất quan tâm và tất cả các
trường học phổ thông trên cả nước đang thực hiện. Nhưng trong điều kiện hạn
hẹp về không gian điều tra, thực nghiệm nên đề tài chỉ được nghiên cứu và áp
dụng trong học sinh lớp 10A4, trường Trung học phổ thơng Lê Lai, huyện Ngọc
lặc, tỉnh Thanh Hóa. Ở đây, cũng nói thêm rằng rèn luyện kỹ năng sống cho HS
trong đề tài này chỉ là nội dung tích hợp vào các hoạt động chứ chưa phải là một
môn học độc lập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp trải nghiệm
- Phương pháp đóng vai
- Phương pháp trò chơi
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Trên thế giới đã tồn tại nhiều khái niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ
năng sống, mỗi định nghĩa, mỗi khái niệm được thể hiện dưới những hình thức
khác nhau. Thơng thường, kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành
mà con người cần để có sự an tồn, cuộc sống khoẻ mạnh với chất lượng cao.
Các quan niệm vê kĩ năng sống:
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành
vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử
hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày.
22



Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quổc (UNICEF), kỹ năng sống là cách tiếp
cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Theo Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc
(UNESCO), kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm
các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải
quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...; học làm người gồm các kỹ năng cá
nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiềm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin, học
để sống vời người khác gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thường lúng
túng, tự khẳng định, hợp tắc, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thơng; Học để
làm gồm kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng đặt mục
tiêu, đảm nhận trách nhiệm.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hố,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then
chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Trong đó có đề cao vai trò của giáo
dục kỹ năng sống.
Trong Chiến lược Phát triển giáo dục 2011-2020 Ban hành kèm theo
Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ, trong phần mục tiêu tổng quát về phát triển giáo dục đến năm 2020 có nêu:
“Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế;
chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức,
kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và
tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức;

đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi
người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”.
Như vậy, kỹ năng sống giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và hành
động theo hướng tích cực và mang tính xây dựng.
Ở lứa tuổi mới bước vào đời, bắt đầu sống độc lập, làm việc và sẽ có những
va chạm xã hội các em cũng rất cần được trau dồi kỹ năng sống. Theo một
nghiên cứu mới được ngành giáo dục cơng bố, có trên 95% HS chưa nhận thức
đúng về kỹ năng sống. Từ hiện trạng này cho thấy, việc giáo dục kỹ năng sống
cho HS là rất cần thiết nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các
mặt “đức, trí, thể, mỹ ” “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” hay “nhân, nghĩa, trí, tín,
dũng, liêm...”. Hồ Chủ Tịch đã từng nói:
“ Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”

33


Giáo dục kỹ năng sống chính là định hướng cho các em những con đường
sống tích cực trong xã hội hiện đại trong ba mối quan hệ cơ bản: con người với
chính mình; con người với tự nhiên; con người với các mối quan hệ xã hội. Nắm
được kỹ năng sống, các em sẽ biết chuyển dịch kiến thức “cái mình biết” và thái
độ, giá trị “cái mình nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”…thành những hành động cụ thể
trong thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích cực và mang tính chất xây dựng.
Tất cả đều nhằm giúp các em thích ứng được với sự phát triển nhanh như vũ bão
của khoa học công nghệ và vững vàng, tự tin bước tới tương lai. Cụ thể là:
- Trong quan hệ với chính mình: Giáo dục kỹ năng sống giúp HS biết gieo
những kiến thức vào thực tế để gặt hái những hành động cụ thể và biến hành động
thành thói quen, rồi lại gieo những thói quen tích cực để tạo ra số phận cho mình.
- Trong quan hệ với gia đình: Giáo dục kỹ năng sống giúp HS biết kính
trọng ơng bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc người thân khi ốm đau,

động viên, an ủi nhau khi gia quyến có chuyện chẳng lành…
- Trong quan hệ với xã hội: Giáo dục kỹ năng sống giúp HS biết cách ứng xử
thân thiện với môi trường tự nhiên, với cộng đồng như: có ý thức giữ gìn trật tự an
tồn giao thơng; giữ vệ sinh mơi trường học đường, đường làng, ngõ xóm; bảo vệ
mơi trường thiên nhiên…Từ đó, góp phần làm cho mơi trường sống trong sạch,
lành mạnh, bớt đi những tệ nạn xã hội, những bệnh tật do sự thiếu hiểu biết của
chính con người gây nên; góp phần thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích
cực để hài hồ mối quan hệ giữa nhu cầu – quyền lợi – nghĩa vụ trong cộng đồng.
Do những ý nghĩa đặc biệt nêu trên, việc giáo dục hình thành nhân cách
cho HS nói chung và đối với giáo dục kỹ năng sống nói riêng ngày càng trở nên
quan trọng và cấp thiết.
Tuy nhiên, việc giáo dục kỹ năng sống chưa được quan tâm đúng mức
trong nhà trường, chưa đáp ứng được nhu cầu rèn luyện kỹ năng cho các em.
Đặc biệt là các em học sinh khối 10 khi các em mới rời xa môi trường
Trung học cơ sở, các em đến với môi trường trung học phổ thông với nhiều cái
mới, lạ lẫm, thậm chí các em phải ở trọ cả tuần, sống xa gia đình. Cụ thể lớp
10A4 trường trung học phổ thơng Lê Lai tơi đang chủ nhiệm có tới 91.89% là
người dân tộc thiểu số, 15 học sinh phải ở trọ. Cả khối lớp 10 có tới 150 học
sinh sống xa gia đình. Chính vì vậy bản thân tơi nhận thức được vai trò của
GVCN rất quan trọng trong việc giáo dục kỹ năng sống cho HS. Giáo viên chủ
nhiệm giống như là những người cha, người mẹ, người anh, người chị phải có
trách nhiệm rèn luyện cũng như dạy cho các em những kỹ năng sống trang bị
cho các em thêm những kiến thức để chuẩn bị bước vào đời.
2.2. Thực trạng kỹ năng sống của học sinh lớp 10A4 trước khi áp
dụng sáng kiến
2.2.1. Thuận lợi:
* Về phía giáo viên:
- Rèn luyện kỹ năng sống cho HS là một trong những nội dung quan trọng
trương chương trình giáo dục phổ thông. Do vậy được áp dụng cho tất cả
các môn học, cấp học.

44


- Trường trung học phổ thông Lê Lai đang thực hiện phong trào thi đua
xây dựng“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trọng điểm của phong trào
là rèn luyện kỹ năng sống cho HS thơng qua chương trình hoạt động ngoài giờ
lên lớp, các ngày lễ lớn trong năm như 8/3, 20/11, 26/3, 19/5. Đoàn trường đã
tập huấn lớp kỹ năng sống cho Bí Thư, lớp trưởng các chi đoàn vào dịp 26/3.
- Giáo viên đã được tập huấn giảng dạy kỹ năng sống cho HS ở những
khoá tập huấn do Sở GD - ĐT tổ chức. Bản thân cá nhân tơi là giáo viên chủ
nhiệm lớp 10A4, có 15 năm công tác tại trường, đã chủ nhiệm 4 khóa HS, nhận
bằng Thạc sĩ sinh học với đề tài về tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Tơi đã tham gia
các khóa học về kỹ năng sống như: “Đánh thức tiềm năng, khơi nguồn cảm
xúc”, ‘’Kỹ năng xác định giá trị’’, "Kỹ năng kiểm soát cảm xúc’’..., để nâng cao
hiểu biết và tích lũy thêm kinh nghiêm cho bản thân mình cho gia đình và cho
cơng tác giảng dạy.
- Bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm về mặt nề nếp, tổ
chức những buổi gặp gỡ nói chuyện với các em học sinh chưa ngoan, vi phạm nội
quy vào tiết 5 ngày thứ 6 hàng tuần, cuối các kỳ thi khảo sát chất lượng, kiểm tra
học kỳ những HS có điểm thi chưa đạt đại diện Ban giám hiệu trưởng tiếp gặp gỡ,
trao đổi.Nhà trường quan tâm đến cơ sở vật chất tạo điều kiện thuận lợi cho giáo
viên chủ nhiệm làm tốt vai trò của mình như lắp đặt hệ thống camera để GVCN
có thể quan sát HS và có biện pháp phù hợp trong mọi tình huống
* Về phía học sinh:
- Học sinh khối 10 nói chung và HS lớp 10A4 nói riêng đã được giáo dục
kỹ năng sống từ các cấp học tiểu học và trung học cơ sở.
- Sự phát triển của Internet, công nghệ thông tin đã giúp học sinh hiểu và
hình thành cho mình một số kỹ năng sống thiết yếu.
2.2.2 Khó khăn:
* Về phía giáo viên

- Việc giảng dạy kỹ năng sống trong nhà trường chưa được đồng bộ, một
số giáo viên còn chưa quan tâm đến việc dạy kỹ năng sống cũng như lồng ghép
trong các tiết học trên lớp.
- Tài liệu về giáo dục kỹ năng sống trong thư viện nhà trường cịn ít.
- Sự phối kết hợp giữa GVCN và giáo viên bộ môn chưa thực sự hiệu quả
trong giáo dục.
- Các buổi dạy thêm về kỹ năng sống cho các em HS trong nhà trường
đang cịn ít, Đồn trường chưa tổ chức được những buổi dạy kỹ năng sống cho
các đoàn viên thanh niên.
* Về phía học sinh:
- Phần đa HS cịn chưa thực sự hiểu và chú trọng đến việc học và rèn
luyện kỹ năng sống cho mình.
- Học sinh trường trung học phổ thơng Lê lai nói chung và HS lớp 10A4 nói
riêng các em năm đầu tiên làm quen với môi trường học tập mới, với độ tuổi 15- 16
tuổi dậy thì có nhiều thay đổi tâm sinh lí hơn nữa đa số các em là con em người dân
tộc thiểu số, tính tự ty cao, các em ít có điều kiện tiếp xúc với các hoạt động xã hội
55


lành mạnh do đặc điểm vùng miền, hoặc có tiếp xúc thì cũng là các hoạt động
khơng lành mạnh như: chơi geme, Bi-a(Billiards) cá cược..., nhất là những HS ở trọ
các em lần đầu tiên sống xa gia đình nên cịn bỡ ngỡ dễ xa ngã khơng có người uốn
nắn. Vì vậy các em thiếu kỹ năng sống cho bản thân rất phổ biến.
2.2.3. Thực trạng ở lớp 10 A4
Lớp 10A4 năm học 2018 - 2019: Sĩ số HS 37 trong đó 25 học sinh nam,
12 học sinh nữ, 91,8% là người dân tộc thiểu số, 15 em nhà ở xa trường đi lại
khó khăn, phải ở trọ lại gần trường, HS cá biệt 3, HS bố mẹ đi làm xa phải ở
cùng ông bà 5, HS bố đã mất 2, HS mắc bệnh nặng phải điều trị 3, phần đa phụ
huynh chỉ biết cho con đi học chứ chưa thực sự hiểu, biết và chia sẻ với HS điều
này làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập, cũng như nề nếp của lớp.Về lao

động khi tôi mới nhận lớp có đến 30% HS chây lười, ỷ lại. Về các hoạt động bề
nổi: 70% HS thờ ơ, không tham gia, phó thác trách nhiệm cho cán sự lớp và
GVCN. Trong thời kì bùng nổ cơng nghệ thơng tin hiện nay, phần lớn các em
đều sa vào việc nghiện điện tử, nghiện mạng xã hội như Fcebook, ZaLo.... Nên
ít nhiều ảnh hưởng đến việc học tập và học thêm về kỹ năng sống.
Phụ huynh và HS chỉ quan tâm đến việc học theo khối, một số phụ huynh
mải mê với công việc phó mặc việc dạy dỗ cho thầy cơ và nhà trường.
- Kết quả khảo sát đầu năm của nhà trường về 2 mặt:
Bảng 1: Kết quả học lực và hạnh kiểm giữa học kỳ I của lớp 10A4

số
37

Hạnh kiểm
Tốt
10
27.5%

Khá
14
37.85%

TB
9
24.3%

Học lực
Yếu
4
10.8%


Giỏi
0
0

Khá
8
21.6%

TB
26
70.3%

Yếu
3
8.1%

Kém
0
0

Đánh giá kỹ năng sống của HS lớp 10A4 đầu năm xuất phát từ góc độ tâm
lý - giáo dục. Kết quả khảo sát được cho thấy(kết quả khảo sát dựa trên bộ câu
hỏi và tình huống thực tế - tính tỉ lệ %)
Bảng 2: Kết quả khảo sát kỹ năng sống giữa học kì I của học sinh lớp10A4
STT
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
11
12

Những kỹ năng sống
Kỹ năng ứng phó và vượt qua áp lực
Kỹ năng làm chủ cảm xúc bản thân
Kỹ năng xác lập mục đích cuộc sống
Kỹ năng phân tích tình huống và ra quyết định
Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân
Kỹ năng kiên định
Kỹ năng quản lý thời gian
Kỹ năng giải quyết xung đột
Kỹ năng lắng nghe và bày tỏ nguyện vọng
Kỹ năng chia sẻ và động viên người khác
Kỹ năng hịa nhập và làm việc nhóm
Kỹ năng phán đốn cảm xúc người khác

Giữa kì I

Cuối kì I

Giữa kì II

4,52

4,33
4,31
4,24
4,20
4,19
4,12
4,07
4,02
4,01
4,01
3,97

66


2.3. Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10A4
2.3.1. Cần phải nắm vững những yêu cầu sư phạm đối với giáo viên
chủ nhiệm và những kỹ năng cần giáo dục cho học sinh
* Những yêu cầu sư phạm đối với giáo viên chủ nhiệm.
Có thể khẳng định GVCN lớp là linh hồn của một lớp học, là người thay
mặt Hiệu trưởng tổ chức các hoạt động, xây dựng lớp thành một tập thể vững
mạnh để giáo dục học sinh theo mục tiêu đã đề ra, do đó người giáo viên chủ lớp
phải phải phấn đấu, trau dồi bản thân để đáp ứng được những yêu cầu sau đây:
Giáo viên chủ nhiệm phải xác định mình là người đóng vai trị quan trọng
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho HS, phải có lịng nhiệt tình và sự đam mê.
Bởi vì, GVCN được coi như là người cha, người mẹ thứ hai của các em, là
người tiếp xúc thường xuyên với HS, là người nắm rõ tâm lý, tính cách của từng
HS. Do vậy, GVCN có thể hiểu được năng lực, thái độ ưu điểm và nhược điểm
của từng HS. Đây là yêu cầu rất quan trọng. Bởi cơng tác chủ nhiệm lớp địi hỏi
điều đầu tiên của giáo viên là lịng nhiệt tình và sự đam mê. Làm chủ nhiệm là

một “nghệ thuật”, nếu khơng có sự nhiệt tình sẽ khơng đem lại kết quả như
mong muốn. Khi xác định được vai trò của mình GVCN sẽ gần gũi được HS,
chiếm được cảm tình từ phía HS, từ đó sẽ có những biện pháp thiết thực để hồn
thành nhiệm vụ của mình.
Giáo viên chủ nhiệm phải biết lập được kế hoạch chủ nhiệm cho riêng mình để
có thể giáo dục được kỹ năng sống cho HS. Căn cứ vào kế hoạch của Nhà trường,
Đoàn thanh niên, đặc điểm của lớp, của địa phương GVCN phải lập được cho mình
một kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học cho từng tuần, từng tháng và trong cả năm học.
Phải biến việc giáo dục kỹ năng sống cho HS thành một thói quen, thành kỹ năng của
mình trong suốt q trình làm cơng tác chủ nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương cho HS soi vào về đạo đức, lối
sống, hành vi. Có thể nói, để giáo dục được học sinh thì người giáo viên nói
chung và GVCN nói riêng phải là người biết dùng nhân cách của mình để dạy
học sinh “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Phải là người có tấm lịng
khoan dung, độ lượng, là quan toà mẫu mực trong khi giải quyết tình huống.
GVCN phải là người có năng lực quản lý và năng lực tổ chức. Không phải lúc
nào GVCN cũng ở trên lớp cùng với HS. Do vậy, GVCN phải xây dựng đội ngũ
cán sự lớp có năng lực và trách nhiệm, điều hành một tập thể tự quản. GVCN
còn phải biết ứng xử, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa HS đối với HS, giữa
HS với giáo viên, HS với các mối quan hệ ngoài xã hội giữa giáo viên bộ môn
đối với GVCN, giữa GVCN với Đoàn thanh niên, giữa GVCN với cha mẹ HS.
Thầy cô chủ nhiệm phải là cầu nối quan trọng kết nối ba mơi trường giáo dục
gia đình, nhà trường và xã hội.
* Những kỹ năng cần giáo dục cho học sinh:
Có rất nhiều kỹ năng cần giáo dục cho HS, trong phạm vi đề tài này và
qua kết quả khảo sát của tôi trên đối tượng cụ thể là học sinh lớp 10A4, tôi xin
đưa ra phương pháp giáo dục một số kỹ năng sống như sau:
77



- Kỹ năng ứng phó và vượt qua áp lực
- Kỹ năng làm chủ cảm xúc bản thân
- Kỹ năng xác lập mục đích cuộc sống
- Kỹ năng phân tích tình huống và ra quyết định
- Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân
- Kỹ năng kiên định
- Kỹ năng quản lý thời gian
- Kỹ năng giải quyết xung đột
- Kỹ năng lắng nghe và bày tỏ nguyện vọng
- Kỹ năng chia sẻ và động viên người khác
- Kỹ năng hịa nhập và làm việc nhóm
2.3.2. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt 15 phút, các buổi sinh hoạt thứ 2
đầu tuần thứ bảy cuối tuần
Trong các biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho HS trong công tác chủ
nhiệm tôi coi trọng biện pháp này nhất. Bởi thời gian để GVCN tiếp xúc nhiều nhất
với HS là thông qua các buổi sinh hoạt 15 phút và sinh hoạt đầu tuần, cuối tuần.
a. Lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống trong những buổi
sinh hoạt 15 phút đầu giờ.
Đây là giải pháp quan trọng. Trong suốt năm học, GVCN là người thường
xuyên bám lớp trong những giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Vì vậy việc lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống cho H Slà việc làm bổ ích, tránh được những buổi
sinh hoạt nhàm chán, lặp đi lặp lại, mà lại gây được hứng thú cho HS trong
những buổi sinh hoạt 15 phút. Đồng thời, giáo dục được kỹ năng sống cho HS.
Trong buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ thời gian ít. Vì thế, GVCN có thể áp dụng
các phương pháp giáo dục kỹ năng sống như; thảo luận nhóm, động não, nghiên
cứu giải quyết tình huống, hoặc tổ chức những trị chơi (có thời gian ngắn, ít
người trong một trị chơi).
* Phương pháp hoạt động nhóm:
Tổ chức tốt phương pháp này, GVCN sẽ tạo cơ hội cho HS tự tin, thoải
mái chia sẻ sự hiểu biết của mình với người khác. Đồng thời, tiếp nhận sự phê

phán, góp ý của bạn, giúp cho sự hiểu biết của HS trở nên sâu sắc hơn, toàn diện
hơn giúp cho buổi sinh hoạt trở nên sôi nổi, hứng thú.Tuy nhiên phương pháp
này sẽ gây ra sự ồn ào, mất trật tự cho các lớp bên cạnh, đặc biệt dễ gây sự nhàm
chán cho một số HS. Do đó yêu cầu GVCN phải làm tốt những việc sau:
- Phải tạo ra một khơng khí thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau giữa HS
với nhau.
- Vấn đề được đưa ra để HS thảo luận phải phù hợp với lứa tuổi, phải khơi
gợi được khả năng tư duy phê phán, khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ1: Khi giáo dục kỹ năng “tự nhận thức giá trị bản thân”. GVCN cho
HS tiến hành các hoạt động nhóm trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ
* Bước 1: Chia sẻ về tự nhận thức bản thân, giáo viên phát các tờ rơi in
sẵn mệnh đề
- Sở thích của em là gì? (đọc truyện, xem TV, xem bóng đá, nghe nhạc....)
88


- Cuốn truyện/ sách, chương trình TV mà em thích nhất.
- Điểm mạnh và năng khiếu của em là gì?
- Ai là người bạn thân nhất của mình? Người đó như thế nào? Có đặc
điểm gì nổi bật?
- Mình muốn làm nghề gì trong tương lai?
* Bước 2: Giáo viên chia lớp thành những nhóm, yêu cầu nội dung cần
làm: 1 nhóm gồm có 3 người mỗi em tự suy nghĩ và điền vào tờ rơi trong vòng 5
phút, sau đó chia sẻ với những bạn trong nhóm mình, cử một bạn làm đại diện
tiếp nhận những chia sẻ của các thành viên trong nhóm.
* Bước 3: Báo cáo, giáo viên cho đại diện các nhóm trình bày những quan
điểm chung của các thành viên trong nhóm mình, chia sẻ với các nhóm khác?
Ví dụ 2: Khi giáo dục kỹ năng kiên định, trong các buổi sinh hoạt 15 phút
đầu giờ GVCN cho HS tiến hành hoạt động: Tranh luận đơi bên.
* Bước 1: Nêu tình huống: u cầu các em đưa ra các tình huống lơi kéo

của bạn bè hay gặp nhất (hút thuốc, chơi điện tử...).
* Bước 2: Giáo viên chia nhóm phân cơng nhiệm vụ:
- Chia lớp thành hai nhóm :
- Phân nhóm một chuẩn bị lý lẽ ủng hộ ý kiến (nên chơi điện tử),
- Nhóm hai nhóm chống lại ý kiến (khơng nên chơi điện tử).
- Để hai nhóm chuẩn bị lý lẽ trong vịng 7 phút.
- Sau đó cho hai nhóm tranh luận, chất vấn.
* Bước 3: Thống nhất ý kiến
- GVCN hướng dẫn HS đi đến thống nhất ý kiến cử một HS làm thư kí
(ghi lên bảng).
- Là “nên” hoặc “khơng nên”.
- Nếu khơng nên chơi điện tử thì phải làm gì?
- GVCN cung cấp cho HS các bước để hình thành kỹ năng kiên định. Tầm
quan trọng của kỹ năng kiên định đối với HS.
* Phương pháp nghiên cứu tình huống:
Áp dụng phương pháp này GVCN sẽ huy động khả năng động não, khả
năng tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định của HS lôi kéo các
em vào những tình huống có thực và bắt buộc các em phải giải quyết.
Tuy nhiên để thành công khi áp dụng phương pháp này giáo viên chủ
nhiệm phải đưa ra những tình huống sát thực với cuộc sống của các em, đang
đựơc các em quan tâm và suy nghĩ, các em phải quyết định. Tất nhiên đó phải là
tình huống giáo dục, để đem lại kết quả giáo dục.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng
học tập và định hướng nghề nghiệp (tiến hành vào tiết 1 thứ 2 đầu tuần).
* Bước 1: GVCN đưa ra tình huống cho HS: Giả sử em muốn sau khi học
xong sẽ đi làm , nhưng bố mẹ em không đồng ý muốn em thi vào trường đại học
màbố mẹ đã định trước. Em sẽ làm gì? Tại sao em quyết định như vậy?
* Bước 2: GVCN chia nhóm và nêu u cầu cơng việc:
- Chia lớp thành bốn nhóm,
99



- Cho các em trao đổi, tranh luận với nhau trong vòng 25 phút.
* Bước 3: Báo cáo
- Cử đại diện các tổ đưa ra ý kiến tranh luận của mình trong vịng 20 phút.
* Bước 4: Định hướng của Giáo viên
- Sau khi tiếp nhận ý kiến của HS, GVCN về nghiên cứu.
- Vào các buổi sinh hoạt tiếp theo, GVCN tổng kết và đưa ra nhận xét,
hướng dẫn HS trong cách chọn nghề phải căn cứ vào các yếu tố: Năng lực
bản thân, sở trường, nhu cầu và sự phát triển của xã hội.
* Phương pháp trò chơi:
Phương pháp này mang lại cho HS khả năng giao tiếp, khả năng quyết
định lưạ chọn, kỹ năng nhận xét đánh giá. Tạo khơng khí vui vẻ, sơi động trong
buổi sinh hoạt.
Tuy nhiên, phương pháp này dễ gây sự lộn xộn trong lớp, gây ồn ào cho
các lớp bên cạnh. Do vậy, GVCN phải chuẩn bị được những trị chơi có nội
dung phù hợp với thời gian ngắn, hấp dẫn, ít gây sự xáo trộn trong tổ chức lớp.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng tư duy phê phán, GVCN tổ chức cho HS
chơi trò chơi “cùng nhau viết tiếp câu chuyện” trong vịng 15 phút. Giáo viên
đóng vai trị là người cầm cái( khởi xướng và kết thúc trò chơi)
* Bước 1: Ởn định
- Cho HS đứng thành vịng trịn trong lớp
* Bước 2: Phổ biến luật chơi:
- GVCN ra nhan đề cho câu chuyện như “Tôi học như thế nào”.
- Sau đó GVCN cho một em viết câu mở đầu như “trước tiên tơi học bằng
chính nghị lực của mình”.
- Sau đó chuyền cho các em tiếp theo viết tiếp các câu sau theo logic của
câu trước thành một câu truyện.
- Em nào không viết tiếp được trong thời gian quy định sẽ bị loại khỏi trò
chơi, yêu cầu đứng sang một bên.

- Khi thấy câu chuyện đã đầy đủ nội dung mong muốn, giáo viên chủ
nhiệm chủ động dừng cuộc chơi.
* Bước 3: hình phạt( khơng nặng nề nhẹ nhàng, nhưng cần phải có để học
sinh có trách nhiệm trong các lần chơi sau)
- Xóa bảng trong buổi học
- Đóng cửa lớp và tắt điện cuối buổi học...
b. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt cuối tuần:
Phần lớn các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hiện nay chủ yếu được thực hiện
dưới hình thức là tổng kết, đánh giá và đề ra phương hướng tuần tới. Hình thức
sinh hoạt này dễ gây cho HS sự nhàm chán, đặc biệt là gây áp lực về các lỗi mà
các em mắc phải trong tuần qua. Vì lẽ đó mà một số em cảm thấy khơng thích
tiết sinh hoạt , thậm chí là sợ hãi. GVCN trong quá trình đánh giá ưu khuyết
điểm của HS trong tuần vừa qua thường chủ quan xem việc vi phạm nội quy và
những biểu hiện chưa tốt của HS là do các em không cố gắng, đơi khi xem đó là

1010


biểu hiện đạo đức không tốt. Biện pháp thường được áp dụng là xử lí kỉ luật,
làm bản tự kiểm và đôi lúc là hạ hạnh kiểm.
Điều này dễ dẫn đến việc HS không tin vào thầy cô, bạn bè và có khi là
khơng tin vào bản thân mình. Các em cần sự hướng dẫn và giáo dục của GVCN.
Trong tiết sinh hoạt lớp, GVCN sẽ cung cấp cho HS những hiểu biết thông qua
các hoạt động sinh hoạt chuyên đề sinh động và vui nhộn. Sự sinh động và hứng
thú của việc được tham gia vào các hoạt động có liên quan sẽ giúp HS nâng cao
ý thức một cách tự nhiên và dễ dàng. Cũng nhờ vào các hoạt động này cùng
với sự tin tưởng và sẻ chia của thầy cơ mà các em sẽ có được niềm tin, định
hướng và nghị lực để phát triển nhân cách.
Thứ nhất: GVCN xử lý hành vi vi phạm của HS phải gắn việc giáo dục kỹ
năng sống, xử lý khoa học, nhẹ nhàng nhưng phải nghiêm khắc, gắn với kỷ luật.

Ví dụ 1: Trong buổi lao động của lớp, mặc dù tôi đã phân công cụ thể cho
từng tổ nhưng trong quá trình thực hiện, nhưng một số HS vẫn cịn đùn đẩy
nhau, dẫn đến cơng việc hồn thành khơng đúng kế hoạch. Mặc dù rất bực bội
nhưng tôi không nói gì. Vào buổi sinh hoạt cuối tuần tơi đã gọi lớp phó phụ
trách lao động trình bày lý do, lớp phó cho biết: Một số bạn đến muộn hơn nên
các bạn đến sớm chừa lại phần việc cho các bạn ấy làm. Tôi dùng phương pháp
giáo dục kỹ năng sống “nghiên cứu tình huống”, bình tĩnh kể cho học sinh nghe
mẩu chuyện “ sức mạnh” và nhấn mạnh lời người cha căn dặn con “trong cuộc
sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể tự mình làm tất cả mọi việc. Sức
mạnh của chúng ta còn nằm ở những người thân, bạn bè - những người luôn
quân tâm và giúp đỡ ta”. Sau khi kể xong tôi đã hỏi một số HS không đi lao
động và đến muộn? Em khơng đi làm, hoặc đến muộn thì các bạn phải làm
thay em phần việc đó, em có suy nghĩ gì? Sau đó tơi hỏi một số HS đến sớm?
Nếu lần sau, em có một lý do nào đó mà cũng đến muộn, các bạn cũng chừa lại
phần việc cho em, một mình em làm và cơng việc khơng hồn thành, thì em sẽ
suy nghĩ như thế nào? Quay sang tơi hỏi cả lớp? Nếu muốn cơng việc hồn
thành nhanh chóng thì chúng ta phải làm gì?. Thơng qua cách này, tôi đã giáo
dục cho HS kỹ năng hợp tác trong cộng đồng và ý nghĩa của sự hợp tác đó. Tơi
vừa phê bình, kiểm điểm được thái độ, tinh thần của HS vi phạm, vừa giáo dục
được kỹ năng cho HS, mà không biến tiết sinh hoạt trở nên căng thẳng.
Ví dụ 2: Để xử lý HS vi phạm nội qui tơi dùng phương pháp “mơ hình
mẫu”, tơi dùng ngay chính hành vi ứng xử, giao tiếp của mình để xử lý. Trước
tiên tơi cho HS trình bày ngun nhân tại sao lại dẫn đến những vi phạm đó, nếu
HS khó nói thì có thể gặp riêng tơi. Qua đó nhẹ nhàng phân tích cho HS vi phạm
cái đúng và cái sai trong hành vi của em, hướng khắc phục, sửa chữa. Nếu lỗi
nặng tơi sẽ áp dụng hình phạt theo nội quy của lớp, nếu lỗi nhẹ tôi có thể cho
qua. Vì vậy, khi HS bị phạt mà vẫn không thấy oan ức, hoặc phản ứng tiêu cực,
mà cịn rút ra được kỹ năng khi xử lý tình huống cho mình.
Thứ hai: Thơng qua các buổi sinh hoạt cuối tuần GVCN có thể lồng ghép
các chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho HS.

Trong giờ sinh hoạt cuối tuần GVCN giành 15 hoặc 20 phút để tổng kết
1111


tuần và đề ra phương hướng cho tuần sau, hoặc xử lý HS vi phạm. Thời gian cịn
lại (hoặc có thể là cả buổi tuỳ theo công việc của tuần ít hay nhiều) GVCN có
thể lồng ghép các chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho HS. GVCN có thể dùng
các phương pháp sau:
* Phương pháp “trò chơi”:
Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp này tơi đã trình bày ở
trên. Để thành công khi áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần
GVCN cần phải làm tốt công việc sau:Giáo viên chủ nhiệm phải đưa ra trị chơi
mang tính cộng đồng, tập thể, kích thích khả năng tư duy, động não của các em;
Giáo viên chủ nhiệm phải tìm ra một người điều khiển trị chơi có khả năng giao
tiếp tốt và đóng vai trị như một MC để dẫn dắt trò chơi; Giáo viên chủ nhiệm
nên áp dụng phương pháp này nhiều trong các buổi sinh hoạt cuối tuần.
Ví dụ 1: Khi giảng dạy kỹ năng “ Hợp tác” trong buổi sinh hoạt cuối tuần
tôi tổ chức hoạt động trị chơi “chuyển bóng” trong vịng 20 phút. Tơi chia HS
thành những nhóm nhỏ, mỗi nhóm khơng q 4 người, mỗi nhóm được trang bị
bóng bay, 4 HS vừa thổi bóng vừa chuyển bóng về đích bằng trán. Người điều
khiển trò chơi bấm thời gian. Khi hết thời gian, đếm số bóng mỗi đội chuyển
được, so sánh giữa các nhóm. Xảy ra tình huống có đội chuyển được nhiều có
đội chuyển được ít. Giáo viên chủ nhiệm cho cả lớp thảo luận và giải quyết tình
huống. GVCN kết luận, nêu ra bài học và kỹ năng sống cần cho HS là phải hợp
tác với nhau.
Ví dụ 2: Để giáo dục kỹ năng “Tự nhận thức bản thân” GVCN tiến hành
hoạt động trò chơi “Người khác nghĩ về mình”(thời gian 20 phút).
- Dụng cụ: Giấy A4 , bút dạ màu, kéo, băng dính.
- Tiến hành:
* Bước 1: Chia nhóm, phát dụng cụ

- Chia lớp thành 4 nhóm, phát dụng cụ
* Bước 2: hướng dẫn
- Mỗi thành viên trong nhóm cắt giấy A4 thành 2 viết những ưu điểm,
nhược điểm, tính cách của bạn mình (Tinh thần góp ý, khơng phê phán, khơng
làm trị cười cho nhau), dán lên lưng của bạn
* Bước 3: Giải quyết vấn đề
- Giáo viên chủ nhiệm cho một số HS mạnh dạn đứng dậy trình bày
những đặc điểm của mình, vừa được bạn viết ra.
- Giáo viên đưa ra kết luận: Một điểm quan trọng của tự nhận thức bản
thân đó nhận biết sự đánh giá , nhìn nhận của mọi người về mình.
- Sau trị chơi này GVCN lưu ý học HS giữ và đọc những ưu điểm, nhược
điểm của mình đã được bạn chỉ ra để có hướng phát huy, đồng thời khắc phục
những điểm cịn thiếu sót để hồn thiện mình hơn.
Ví dụ 3: Khi giáo dục kỹ năng sống “Tư duy phê phán” GVCN cho chơi
trị chơi “đốn chữ”. GVCN cho HS đốn chữ “ Đồn kết” bằng cách đưa ra câu
hỏi thứ nhất.

1212


Cụm từ này gồm tám chữ, đây là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta!.
Nếu học sinh chưa đoán ra GVCN đưa ra tiếp gợi ý. Truyền thống này được Hồ
Chí Minh đúc kết thành một chân lý, bài học lịch sử của dân tộc ta trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc!. Nếu HS vẫn chưa đoán được. Giáo viên
đưa ra gợi ý cuối cùng. Cụm từ này bắt đầu bằng chữ Đ!
* Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác.
Áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần sẽ giúp cho giáo
viên và HS có thời gian trị chuỵện, trao đổi với nhau nhiều hơn, giúp HS hiểu
được các kỹ năng sống có ý nghĩa với con người như thế nào.
Tuy nhiên áp dụng phương pháp này dễ gây cho HS sự nhàm chán nếu

GVCN không khéo léo kết hợp tốt với các phương pháp khác. Do vậy, GVCN
phải lựa chọn các phương pháp tạo ra sự thu hút và nhu cầu muốn tìm hiểu ở HS.
Ví dụ: Để giáo dục kỹ năng “giải quyết vấn đề và ra quyết định”. GVCN
đọc cho học sinh nghe mẩu truyện “Hãy thử một cách khác” (Hạt giống tâm
hồn và ý nghĩa cuộc sống). Câu chuyện kể về một chú ruồi cố tìm cách thốt
thân bằng cách chui qua tấm kính của cửa sổ, mặc dù chú đã dồn hết sức lực
nhưng vẫn không qua được và cuối cùng chú đã chết. Trong khi đó chỉ cách
mười buớc chân là một cánh cửa đang rộng mở giáo viên nhấn mạnh chi tiết
“Nếu chú ruồi khơng khố chặt mình vào một lối nghĩ duy nhất và thử tìm cách
khác, chú đã tìm ra lối thoát một cách dễ dàng”.
Sau khi đọc xong, GVCN dùng phương pháp thuyết trình kết hợp với
phương pháp động não để tiến hành vói những câu hỏi sau: Em có thích mẩu
truỵên này khơng? Vì sao em thích? Nếu em ở trong trường hợp như chú ruồi
em sẽ làm gì để thốt thân? Tại sao em lại làm như vậy? Câu chuyện nhắc nhở
chúng ta điều gì?
Cho HS lần lượt trả lời xong, GVCN thuyết trình cho các em hiểu về ý
nghĩa của mẫu truyện. Từ đó thuyết trình cho HS hiểu về ý nghĩa của kỹ năng
sống giải quyết vấn đề và ra quyết định. Năm bước căn bản để giải quyết vấn đề
và ra quyết định như: xác định vấn đề; động não về các khả năng; đánh giá các
khả năng; lên kế hoạch hành động; đánh giá và điều chỉnh. Trong khi thuyết
trình GVCN phân tích ví dụ để chứng minh.
* Phương pháp đóng vai:
Nếu áp dụng tốt phương pháp này GVCN sẽ tạo được sự hứng thú và khả
năng sáng tạo của HS, khích lệ được sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo
hướng tích cực. Tuy nhiên, nếu tổ chức khơng tốt có thể trở thành cơ hội để học
sinh chơi đùa, trêu chọc nhau.
Do vậy, giáo viên chủ nhiệm phải tổ chức sao cho phần “diễn” chỉ là phụ
mà quan trọng hơn là phần thảo luận sau đó. Tình huống đưa ra phải thể hiện
được tư duy phê phán và khả năng sáng tạo. Vừa là nội dung của kỹ năng sống
vừa là phương tiện để hình thành kỹ năng sống khác.

Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng giải quyết xung đột (35 phút). GVCN ra
tình huống cho HS đóng vai. Lấy nhóm HS khoảng 5-6 bạn, để đóng vai một
tình huống; Các bạn đang chơi trong sân trường một bạn từ đâu tới xô vào
1313


người bạn trong nhóm, cả hai người cùng ngã. Mặc dù người kia sai, nhưng
bạn trong nhóm vẫn đỡ người đó dậy, nói lời xin lỗi. Tuy nhiên, đáp lại thái độ
lịch sự của bạn trong nhóm, người kia chửi tục và đe doạ bạn trong nhóm.
Khi nhóm học sinh diễn xong, giáo viên chủ nhiệm đưa ra câu hỏi; Nếu là
các em trong tình huống trên em sẽ xử lý như thế nào? GVCN phân lớp thành
bốn nhóm cùng thảo luận tình huống (10 phút). Sau đó cho đại diện các nhóm
đứng lên trình bày ý kiến của mình bằng cách đóng vai.
Cuối buổi GVCN tổng kết và đưa ra cho HS biết các bước giải quyết mâu thuẫn.
* Thứ nhất: Kiềm chế cảm xúc - sử dụng kỹ năng thư giãn. Tự đưa mình
thốt khỏi tâm trạng, tình huống đó.
* Thứ 2: Xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn, cần suy nghĩ tích cực,
vì nó tác động mạnh đến cảm xúc và hành vi tích cực.
2.3.3. Phối kết hợp với giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu, Đoàn thanh
niên và các tổ chức khác trong Nhà trường
a. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo viên bộ môn
Hiệu quả giáo dục của một lớp phụ thuộc một phần quan trọng vào hoạt
động và phẩm chất của GVCN và các giáo viên bộ mơn. Vì vậy GVCN và các
giáo viên bộ mơn phải có sự phối hợp, trao đổi thống nhất tác động sư phạm đến
HS thông qua một số hoạt động:
- Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên theo dõi kết quả học tập của HS
thông qua giáo viên bộ môn (trao đổi trực tiếp với giáo viên bộ môn, thông qua
nhận xét đánh giá của giáo viên bộ môn ở sổ theo dõi tiết học, sổ gọi tên ghi
điểm của lớp mình quản lý).
- Giáo viên chủ nhiệm thông qua việc dự giờ trên lớp các giáo viên bộ

mơn lớp mình quản lý, qua hệ thống camera để quan sát thái độ, hứng thú học
tập từng bộ mơn của HS lớp mình chủ nhiệm.
- Giáo viên chủ nhiệm có thể trao đổi với giáo viên bộ mơn về hồn cảnh
gia đình, sức khỏe, tâm lý, năng lực, sở trường… của từng HS.
Từ đó có những đề xuất với giáo viên bộ môn về phương pháp hướng dẫn
HS học tập và cũng thơng qua đó tiếp thu những ý kiến phản ánh của giáo viên
bộ môn về lớp mình phụ trách. Bên cạnh đó, GVCN cũng nên nêu những
nguyện vọng của lớp đối với giáo viên bộ môn.Thông qua nhận xét của giáo
viên bộ môn, kết hợp với sự theo dõi và quan sát GVCN, mỗi người GVCN sẽ
tìm được một giải pháp phù hợp với thực trạng của lớp, với việc giảng dạy kỹ
năng sống phù hợp với đặc điểm HS của mình.
Ví dụ: Học sinh A có khả năng về mơn tốn, giáo viên chủ nhiệm có thể
gặp giáo viên mơn tốn để phối kết hợp, có biện pháp bồi dưỡng và định hướng
tương lai cho học sinh; học sinh B bị mắc bệnh tim, GVCN trao đổi với giáo
viên dạy bộ môn thể dục và quốc phịng có bài tập phù hợp.
b. GVCN phối kết hợp với Đoàn thanh niên, Ban giám hiệu và các tổ
chức khác trong Nhà trường
Trước hết giáo viên chủ nhiệm phải phối kết hợp thường xuyên với Ban
giám hiệu và tổ chức Đoàn thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, một
1414


trong những vai trị của Đồn là đảm nhận hoạt động bề nổi như: tổ chức các
hoạt động ngày 26/3; 20/11... thơng qua các hoạt động của đồn GVCN có thể
dễ dàng giáo dục kỹ năng sống cho HS. Bởi vì, nhân cách của HS được hình
thành qua hai con đường cơ bản: con đường dạy học trên lớp và con đường hoạt
động ngoài giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) là
một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục ở nhà trường trung học phổ thông.
HĐGDNGLL là sự tiếp nối của hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý
thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, góp

phần hình thành tình cảm, niềm tin cho sự hình thành nhân cách cho các em, là
điều kiện thuận lợi để HS phát huy vai trò chủ thể của mình trong hoạt động,
nâng cao tính tích cực hoạt động rèn luyện để phát triển nhân cách.
Ví dụ: Thông qua hội thi văn nghệ, làm báo tường, thi kéo co để chào
mừng ngày thành lập nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập Đồn (26/3) GVCN có
thể lồng ghép giáo dục kỹ năng sống: hợp tác, hoà nhập, kỹ năng lãnh đạo cho
học sinh lớp mình thơng qua cách phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân trong
lớp, phát huy tinh thần chủ động, tích cực của các em để làm sao đó để lớp mình
có thể đem lại thành tích cao nhất trong cuộc thi.
Ngồi ra, GVCN phải thường xuyên kết hợp với các tổ chức khác trong
nhà trường như tổ giám thị... để xử lý vi phạm của học sinh một cách thuyết
phục và có hiệu quả.
2.3.4. Giáo viên chủ nhiệm phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh
Nhân cách của HS được hình thành dưới tác động của ba mơi trường: gia
đình, nhà trường và xã hội. Trong đó gia đình là mơi trường mang tính trực tiếp
quyết định đến sự hình thành nhân cách của các em. Do vậy, GVCN cần phải có
mối liên hệ chặt chẽ với phụ huynh HS, thông qua phụ huynh, giáo viên chủ
nhiệm có thể nắm bắt được: đặc điểm, cá tính, sở thích của từng HS.Vì hai phần
ba thời gian HS tiếp xúc với gia đình. Do vâỵ, khơng ai hiểu rõ con mình hơn là
phụ huynh. Mặt khác thơng qua phụ huynh, có thể biết được hiệu quả giáo dục
kỹ năng sống cho HS của mình đến đâu. Mặc dù, hiệu quả giáo dục kỹ năng
sống khơng đo được bằng những con số chính xác nhưng được biểu hiện bằng
những thái độ và hành vi cụ thể như: khi về nhà các em có tự tin hơn khơng, có
cịn lúng túng khi giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống không? Trong
quan hệ với bạn bè, làng xóm có hồ nhập hơn khơng? Các em có ý thức sống tự
lập hơn khơng?...Để tạo thành kỹ năng, phản xạ tốt thì cần phải được rèn luyện
thường xuyên, liên tục đến mức thuần thục.. Do đó vai trị của gia đình là khơng
thể thiếu và giữ vị trí hết sức quan trọng.
2.3.5. Giáo viên chủ nhiệm cung cấp cho phụ huynh học sinh những
kiến thức cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các buổi họp

phụ huynh
Ở các nước phát triển, trẻ em sống độc lập, vì vậy tránh được những rủi ro
đáng tiếc. Nhưng ở Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Phần
lớn trong các gia đình vẫn còn tâm lý xem các em như là những đứa trẻ, cần
được bao bọc. Dẫn đến các em thiếu kỹ năng tự vệ, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ
1515


năng lựa chọn nghề nghiệp...Một số phụ huynh thiếu kiến thức về giáo dục kỹ
năng sống cho con em mình (nhất là các vùng nông thôn). Một số phụ huynh do
mải mê với công việc làm ăn nên lãng quên việc giáo dục con. Do vậy trong mỗi
lần họp phụ huynh, tôi thường cung cấp và tư vấn cho phụ huynh HS những nội
dung giáo dục kỹ năng sống như; Kiến thức về giáo dục HS phù hợp với tâm lý,
lứa tuổi, đặc biệt việc phát hiện sớm biểu hiện rối loạn tâm thần của HS, bệnh tật
học đường, định hướng nghề nghiệp, năng khiếu của từng HS...
2.3.6. Xây dựng quy tắc ứng xử giữa học sinh với giáo viên chủ
nhiệm, với giáo viên bộ môn
Trong xã hội hiện nay, mối quan hệ thầy trị có phần thay đổi hơn so với
thời xưa. Thể hiện rõ nhất ở những khía cạnh như; dân chủ hơn, thân thiện và
hoà đồng hơn. Tuy nhiên, để việc giáo dục đạo đức và kĩ năng sống cho học sinh
có hiệu quả hơn giáo viên chủ nhiệm phải xây dựng cho lớp mình một quy chế
giao tiếp và ứng xử giữa “thầy với thầy, trò với trò”gần gũi, thân thiện, rèn luyện
cho học sinh kỹ năng ứng xử văn hố, phịng chống tệ nạn xã hội, bạo lực. Tránh
tình trạng thầy khơng ra thầy, trị khơng ra trị.
Giáo viên chủ nhiệm phải dùng đúng ngơn từ, chuẩn mực lời nói trước
học sinh, vừa giữ đúng vị trí của giáo viên đối với học sinh, vừa gây được tình
cảm thân thiết giữa cơ và trị. Ví dụ trong cách “xưng hơ” giáo viên nói chung và
giáo viên chủ nhiệm nói riêng khơng nên dùng những từ gây khoảng cách đối
với học sinh như; “tôi” và “anh, chị”, hoặc dùng những lời lẽ không chuẩn mực
đối với học sinh như “ mày, tao”....

Giáo viên chủ nhiệm cũng phải yêu cầu HS trong cách xưng hô với
GVCN và giáo viên bộ môn phải đúng chuẩn mực, giữ đúng khoảng cách của
người học đối với thầy, đúng nguyên tắc lễ phép, tôn sư, trọng đạo, không được
dân chủ quá trớn.
Tuy vậy, GVCN cũng phải tạo ra bầu khơng khí cởi mở, thân thiện đối với
học sinh, bằng cách gần gũi, thân thiện, tâm sự với HS như một người bạn thân
thiết. Trong những năm làm chủ nhiệm tôi thường tổ chức những buổi dã ngoại
hoặc những buổi họp mặt tại nhà giáo viên chủ nhiệm. Thơng qua hình thức này
tơi có thể giáo dục cho HS kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hồ nhập. Qua đó tơi cũng
nắm bắt được thơng tin “phản hồi” từ phía học sinh.
2.3.7. Giáo viên chủ nhiệm lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh thơng qua mơn học của mình
Là một GVCN, đồng thời tôi cũng là một giáo viên bộ môn. Với đặc thù
là giáo viên dạy môn sinh học, dạy học sinh học có nhiều thuận lợi trong giáo
dục, rèn luyện kỹ năng sống cho HS bởi sự hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi, bộ
môn chứa đựng nhiều nội giúp giáo dục các em hiểu biết bản thân, môi trường
yêu thiên nhiên bảo vệ môi trường sống, chống biến đổi khí hậu, xây dựng mơi
trường xanh sạch đẹp, ý thức tự chủ, tinh thần chiến đấu. Bản thân Tơi nhận
thức được trong mỗi tiết dạy của mình tơi thường lồng ghép giáo dục kỹ năng
sống cho HS cụ thể như sau.

1616


Ví dụ: Khi dạy bài “ Các cấp tổ chức của thế giới sống”; “Quang hợp”; “
Vi rút gây bệnh ứng dụng của vi rút trong thực tiễn”(Sinh học lớp 10) tôi lồng
ghép dạy kỹ năng tư duy, kĩ năng liên hệ thực tế, trách nhiệm của bản thân đối
với tình hình mơi trường hiện nay.
Mặt khác tơi cịn kết hợp với Ban chấp hành Đoàn trường tổ chức cho các
em đi học tập thực tế kết hợp tham gia làm vệ sinh mơi trường tại khu di tích

lịch sử Lam Kinh và đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai tại xã Kiên Thọ, huyện
Ngọc Lặc, tích hợp giáo dục lịch sử địa phương, giáo dục môi trường. Thông
qua buổi học tập ngoại khóa, em có suy nghĩ gì? Em nên và khơng nên làm gì
khi đến với khu di tích? Đồng thời nêu ra những biện pháp tích cực để giữ gìn
bảo vệ mơi trường sống đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai và phát huy hào khí
Lam Sơn. Giáo dục truyền thống yêu nước yêu quê hương, lòng biết ơn đôi với
các vị anh hùng dân tộc để từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của bản thân đối
với công cuộc xây dựng đất nước trong thời kì có nhiều diễn biến phức tạp như
vấn đề Biển Đơng, vấn đề biên giới Campuchia, biến đổi khí hậu ô nhiễm môi
trường, ý thức giữ gìn các khu di tích lịch sử tại q hương em đang sinh sống.

Hình ảnh: học sinh 10A4 tham gia lao động
Có rất nhiều phương pháp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Nhưng
khơng có một phương pháp nào là “vạn năng”. Do vậy, “nghệ thuật” của một
người GVCN là phải biết kết hợp linh hoạt các biện pháp, kết hợp đúng đối
tượng HS, đúng đặc điểm từng lớp, đúng hoàn cảnh có như vậy thì hiệu quả giáo
dục kỹ năng sống cho HS sẽ thu được hiệu quả cao hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh ngiệm
- Giáo dục kỹ năng cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm sẽ giúp
cho tình cảm giữa GVCN và HS gắn bó hơn. Thầy hiểu trò và trò cũng cảm thấy
tin tưởng, gần gũi hơn đối với thầy cô, giúp cho GVCN dễ dàng hơn trong công
tác giáo dục đạo đức cho HS.
- Tăng cường khả năng phối, kết hợp giữa giáo viên với gia đình và các
tổ chức khác trong Nhà trường trong việc giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng
sống cho HS.
- Giúp giáo viên có một thói quen giáo dục thường xuyên kỹ năng sống
cho HS, không chỉ trong lớp chủ nhiệm mà trong mỗi tiết dạy của bộ mơn mình.
1717



- Giúp cho HS có thể chủ động và tích cực hơn trong quá trình rèn luyện
cho mình một số kỹ năng thiết yếu cho bản thân một cách thường xuyên.
- Khắc phục sự nhàm chán và khô khan trong mỗi tiết sinh hoạt 15 phút
đầu giờ, sinh hoạt tập thể thứ 2 đầu tuần và buổi sinh hoạt cuối tuần.
- Học sinh thân thiện, cởi mở với nhau hơn, đồn kết và tương trợ giúp
đỡ nhau trong q trình học tập và rèn luyện.
- Góp phần tích cực vào phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.
Bảng 3: So sánh kết quả đạt được học sinh ở học kỳ I và học kỳ II
Học kỳ
Giữa kỳ I


số
37

kỳ I
giữa kỳ II
Kỳ II

37 56.7%
37 78.3%
37 86.8%

Tốt
27.0%

Hạnh kiểm
Khá
TB

Yếu
Giỏi
37.8
24.3
10.8
0
%
%
%
24.3% 13.5% 5.4%
2.7%
13.5% 8.1% 0
5,4%
10.8% 5.4% 0
8,1%

Khá
21.6%
29.7%
45.9%
59.4%

Học lực
TB
70.3
%
62.%
48.6%
32.4%


Yếu
8.1%

Kém
0

5.4%
0
0

0
0
0

So sánh với kết quả học kỳ 1. Chất lượng của HS cuối năm đã có chuyển
biến rõ rệt. Học lực tỉ lệ HS khá giỏi tăng lên HS trung bình thấp, cuối năm
khơng cịn HS có học lực yếu. Hạnh kiểm HS xếp loại tốt tăng lên rõ rệt, HS xếp
loại trung bình cuối năm chỉ còn lại 5,40%
Bảng 4:So sánh kết quả khảo sát kỹ năng sống giữa kì I, cuối kì I và giữa
học kì II của học sinh lớp10A4
STT

Những kỹ năng sống

1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12

Kỹ năng ứng phó và vượt qua áp lực
Kỹ năng làm chủ cảm xúc bản thân
Kỹ năng xác lập mục đích cuộc sống
Kỹ năng phân tích tình huống và ra quyết định
Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân
Kỹ năng kiên định
Kỹ năng quản lý thời gian
Kỹ năng giải quyết xung đột
Kỹ năng lắng nghe và bày tỏ nguyện vọng
Kỹ năng chia sẻ và động viên người khác
Kỹ năng hịa nhập và làm việc nhóm
Kỹ năng phán đốn cảm xúc người khác

Giữa
kì I
4,52
4,33
4,31
4,24
4,20
4,19
4,12
4,07

4,02
4,01
4,01
3,97

Cuối
kì I
7,56
6,35
6.30
6,28
6,26
6,25
6.22
6,16
4,12
4,08
4,05
4,02

Giữa kì
II
9,78
8,47
8,42
8,39
8,35
8,33
8,25
8,18

8,15
8,12
8,09
8,05

- Về lao động: 100% học sinh có thái độ lao động nhiệt tình. HS đã tự
giác lao động, thậm chí cả khi khơng có giáo viên chủ nhiệm.
- Về hoạt động bề nổi có 100% HS tham gia nhiệt tình, tích cực.
* Đánh giá của Nhà trường và Đoàn thanh niên
- Về hoạt động phong trào: Lớp 10A4 đạt giải Ba liên hoan văn nghệ chào
mừng ngày nhà giáo việt nam. Giải Nhì Bóng chuyền nam chào mừng ngày thành
1818


lập Đồn thanh niên cơng sản Hồ Chí Minh. Đạt giải Nhì hội thi thanh niên với chủ
đề tình ban, tình yêu và gia đình. Giải Nhất cuộc thi tổng dọn vệ sinh và trang trí
lớp học Xanh – Sạch – Đẹp toàn trường trong 3 đợt thi đua chào mừng các ngày lễ
lớn như 20/11, 8/3, 26/3, lớp đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc, chi Đồn có thành tích
xuất sắc trong cơng tác Đồn và phong trào( có giấy khen).

Ảnh chụp giấy khen của trường và Đoàn thanh niên cho tập thể lớp 10A4

Ảnh chụp cơ và trị lớp 10A4 tháng 5 năm 2019
Qua sự đối chứng trên cho thấy: Lớp 10A4 mà Tôi được giao làm công
tác chủ nhiệm trong năm học này đã có sự tiến bộ đáng kể. Điều đó chứng tỏ,
việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm là việc
làm hết sức bổ ích và cần thiết. Mang lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục
con người tồn diện.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận

Cơng tác giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học
phổ thông hiện nay là một cơng tác có ý nghĩa hết sức quan trọng cần thiết trong
trường phổ thông. Việc thực hiện là một quá trình cơng phu, lâu dài, liên tục và có
sự kết hợp sức mạnh của các môi trường giáo dục: Gia đình - Nhà trường - Xã hội.
Trong Nhà trường, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là trách nhiệm của
tồn thể hội đồng sư phạm. Bên cạnh vai trị của Ban giám hiệu, thì vai trị của
1919


giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng. Có thể nói, trong việc rèn luyện đạo đức và
kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên chủ nhiệm là một bộ phận không thể thiếu.
Thông qua công tác chủ nhiệm, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh sẽ trở
nên dễ dàng hơn, học sinh dễ tiếp cận với kiến thức hơn. Quan trọng hơn là khắc
phục được sự nhàm chán, khô khan trong mỗi tiết sinh hoạt cuối tuần, sự lặp lại
của các hình thức sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Học sinh thấy được vai trị quan
trọng của mình, chủ động, tích cực để rèn luyện cho mình các kỹ năng bổ ích
trong cuộc sống hiện đại.
Để hồn thành nhiệm vụ của mình giáo viên chủ nhiệm phải thực sự có
tâm huyết, thương yêu học sinh. Phải biết kết hợp linh hoạt các biện pháp mới
có thể đem lại kết quả cao trong quá trình giáo dục đạo đức và giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh .
3.2. Kiến nghị
Với tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học
phổ thông hiện nay tôi xin có một số đề xuất sau:
- Ban giám hiệu nhà trường có chủ trương lồng ghép các chuyên đề giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh trong các buổi sinh hoạt cuối tuần, các buổi sinh
hoạt 15 phút đầu giờ (ít nhất là 2 buổi/ tuần).
- Tổ chức một số buổi HĐNGLL cho học sinh tham gia.
- Bên cạnh các hoạt động bề nổi như văn nghệ, báo tường, thể dục thể
thao, Đoàn trường nên tổ chức nhiều các cuộc thi giúp học sinh có dịp thể hiện

tài năng về kiến thức, tư duy của mình đồng thời rèn luyện được kỹ năng thiết
yếu trong thời đại ngày nay.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 26 tháng năm 2019
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác

Cao Quỳnh Như

2020


2121


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo giáo dục và thời đại tháng 8 năm 2015
2. Cuộc sống không giới hạn - Hạt giống tâm hồn (NXB tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh) năm2012
3. Hạt giống tâm hồn và ý nghĩa cuộc sống ( NXB tổng hợp TP.Hồ Chí Minh)
năm 2013
4. Hoạt động giáo dục giá trị sốngvà kỹ năng sống cho học sinh trung học
(Nguyễn Thi Mỹ Lộc - Đinh Thị Kim Thoa)
5. Kỹ năng sống (UNICEF)
6. 7 thói quen giúp bạn trẻ thành đạt ( NXB tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh)
năm 2015
7. Phương pháp giáo dục con người Mỹ giúp trẻ tự lập và trưởng thành (NXB

Hồng Bàng ) năm 2013
8. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm( NXB Hà Nội)

2222


MỤC LỤC
STT
1
2

3
4
5
6
7
8

9
10
11

Tên mục
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận

2.2. Thực trạng kỹ năng sống của học sinh lớp 10A4 trước khi áp dụng sáng
kiến
2.2.1. Thuận lợi:
2.2.3. Thực trạng ở lớp 10 A4
2.3. Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10A4
2.3.1. Cần phải nắm vững những yêu cầu sư phạm đối với giáo viên chủ
nhiệm và những kỹ năng cần giáo dục cho học sinh
2.3.2. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt 15 phút, các buổi sinh hoạt thứ 2 đầu
tuần thứ bảy cuối tuần
2.3.3. Phối kết hợp với giáo viên bộ mơn, Ban giám hiệu, Đồn thanh niên
và các tổ chức khác trong Nhà trường
2.3.4. Giáo viên chủ nhiệm phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh
2.3.5. Giáo viên chủ nhiệm cung cấp cho phụ huynh học sinh những kiến
thức cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các buổi họp phụ
huynh
2.3.6. Xây dựng quy tắc ứng xử giữa học sinh với giáo viên chủ nhiệm, với
giáo viên bộ môn
2.3.7. Giáo viên chủ nhiệm lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
thông qua môn học của mình
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
2

5
6
7

8
14
16

18
20
21

2323



×