Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy chủ đề quan hệ với bản thân giáo dục công dân lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.93 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:

TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO GIẢNG DẠY CHỦ ĐỀ:
QUAN HỆ VỚI BẢN THÂN- GDCD LỚP 10

Người thực hiện:
Đỗ Thị Phương
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác:
Trường THPT Lê Lợi
SKKN thuộc lĩnh vực: Giáo dục công dân

THANH HÓA NĂM 2018

1


MỤC LỤC
TT
1

2

Nội dung



Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

4,5

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4,5


Chương I. Thực tiễn tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số

4,5

bài cụ thể trong bộ môn GDCD lớp 10
2.1. Cơ sở lí luận và thực trạng

4,5

2.2. Nguyên nhân thực trạng

6

Chương II. Thực tiễn áp dụng phương pháp dạy học tích cực

6

nhằm tích hợp kỹ năng sống vào bộ môn GDCD
2.3. Những ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng phương pháp

6

dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào bộ môn giáo
dục công dân
2.4. Cách tiến hành

6

2.5. Yêu cầu sư phạm


7

Chương II. Thực tiễn áp dụng phương pháp dạy học tích cực
nhằm tích hợp kỹ năng sống vào bộ môn GDCD
Chương III. Một số kinh nghiệm và hiệu quả khi ứng dụng
phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào
giảng dạy chủ đề: Quan hệ với bản thân- GDCD lớp 10
3

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

7->18
19
20,21

Lời cảm ơn

23

Tài liệu tham khảo

24

Các đề tài SKKN được Hội đồng cấp Sở GD & ĐT đánh giá và
xếp loại

25

2



TÍCH HỢP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG VÀO GIẢNG DẠY CHỦ ĐỀ:
QUAN HỆ VỚI BẢN THÂN- GDCD LỚP 10
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Học sinh THPT là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu
ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn thiếu hiểu biết sâu sắc
về xã hội, còn thiếu kỹ năng sống, đễ bị lôi kéo, kích động vào các hành vi tiêu
cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về
nhân cách. Trong mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường đã xác định đạo
đức là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách, là nền tảng để xây dựng thế
giới tâm hồn của con người.
Hiện nay tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống
ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là cản trở lớn cho
sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc làm cha, làm
mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng
học sinh này trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các
em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh
hoạt, học tập.
Mặt khác, trong bối cảnh xã hội phát triển đầy biến động, tất cả lĩnh vực
phát triển như vũ bão và cuộc sống thay đổi nhanh chóng như hiện nay thì có
quá nhiều thách thức đòi hỏi học sinh cần đối mặt tích cực và hiệu quả. Vì vậy,
bên cạnh nhiệm vụ rèn đức, luyện tài, việc rèn luyện, bồi dưỡng cho các em kỹ
năng đương đầu và vượt qua thử thách trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với
ngành giáo dục.
Thực tế hiện nay một bộ phận lớn học sinh còn thiếu hiểu biết về pháp
luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt kỹ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối
sống có văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động,
chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua

đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả
theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em gia đình có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng
thiếu ý chí vươn lên, tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm
pháp luật, đạo đức, gây ra gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Tuy nhiên tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận
thanh niên học sinh hiện nay như: bạo lực học đường, tình trạng sống buông thả,
thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội…vì thế cần phải có sự quan
tâm nhiều hơn nữa từ phía gia đình, nhà trường và xã hội.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ môn giáo dục công dân
trong việc giáo dục và hình thành nhân cách của thế hệ trẻ, trong thời gian qua
nhà trường đã tạo mọi cơ hội cho việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà
trường, bằng tình thương và trách nhiệm đã từng bước uốn nắn kịp thời để các
em hoàn thiện hơn.
Với phạm vi đề tài tôi xin mạnh dạn trình bày là ứng dụng một số phương
pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy chủ đề cụ thể
trong môn giáo dục công dân lớp 10. Trong quá trình giảng dạy một số bài với
3


hy vọng trao đổi với đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong
thời gian đứng lớp vừa qua, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy của
bộ môn giáo dục công dân trong nhà trường và thực hiện mục tiêu chung của
nền giáo dục đào tạo nước nhà. Đó cũng chính là lí do tôi chọn viết đề tài này: “
Tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy chủ đề: Quan hệ với bản thân Giáo dục công dân lớp 10”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình hội nhập đang diễn ra trên phạm vi
toàn cầu, khi việc phá hoại môi trường đang dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng đe dọa sự tồn vong của nhân loại thì nội dung của đạo đức không chỉ là
lòng yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào, yêu con người, lòng nhân ái nói chung mà còn
bao gồm những nội dung:

- Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng yêu nước, lòng
nhân ái, tự lực tự cường, cần kiệm liêm chính, hiếu học, thủy chung, tình nghĩa,
tôn trọng con người.
- Bảo vệ mội trường , bảo vệ sinh thái.
- Vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình, chống bạo lực và tệ nạn xã hội.
- Đấu tranh cho một thế giới hòa bình, ổn định, bình đẳng và phát triển bền
vững.
Những giá trị đạo đức cần được hình thành ở mỗi cá nhân như:
* Chuẩn mực đạo đức trong gia đình:
- Quy định về cách ứng xử với người thân
- Quy định về trách nhiệm trong gia đình
- Quy định về tình cảm trong gia đình
* Chuẩn mực đạo đức trong xã hội:
- Quy định về trách nhiệm đối với xã hội( cộng đồng)
- Văn hóa đạo đức truyền thống
- Văn hóa đạo đức mang tính toàn cầu
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số bài cụ thể trong môn giáo dục công dân lớp 10.
- Độ tuổi học sinh trung học phổ thông là độ tuổi các em có nhiều biến động về
tâm, sinh lý và cần có những kỹ năng sống cơ bản.
- Vận dụng một số kĩ thuật dạy học mới trong dạy học nhằm tích hợp kỹ năng
sống mà trọng tâm là ứng dụng vào giảng dạy nhằm giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trung học phổ thông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tư duy, động não.
- Phương pháp thuyết trình, diễn giải.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp đóng vai.
- Phương pháp giải quyết tình huống…


4


1.5. Những điểm mới của SKKN
* Về lí luận:
Phương pháp dạy học là một số giúp các em có kỹ năng vững vàng trước
khóa khăn, thử thách. Biết ứng xử giải quyết những tinh huống khó khăn, thử
thách khi gặp phải; biết ứng xử, giải quyết vấn đề phức tạp cả về mặt lí luận lẫn
thực tiễn.
* Về thực tiễn:
Đề xuất việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm tăng
cường việc tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài trong chương trình
Giáo dục công dân lớp 10.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CHƯƠNG I
THỰC TIỄN TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO GIẢNG DẠY TRONG
CHƯƠNG TRÌNH GDCD LỚP 10
2.1. Cơ sở lí luận và thực trạng.
Môn giáo dục công dân có vị trí và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong trường
Trung học phổ thông đối với việc hình thành và phát triển nhân cách, góp phần
tạo xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân là những chủ nhân tương lai của
đất nước. Song vấn đề thực tế hiện nay mà bất cứ ai cũng nhìn thấy rõ khi nó đã
và đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, đó là một bộ phận thanh thiếu niên
nói chung và hoc sinh trung học phổ thông nói riêng đang xuống cấp về mặt đạo
đức, có lối sống buông thả, chạy theo thị hiếu tầm thường mà ít hoặc không
quan tâm tu dưỡng đạo đức dẫn đến vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, thiếu
kỹ năng ứng phó trước những lôi cuốn mà mặt trái của xã hội để lại.
Từ những thách thức và yêu cầu cấp bách trên thì việc đưa kỹ năng sống
vào giảng dạy là hết sức cần thiết và bổ ích, góp phần quan trọng to lớn vào sự

hình thành nhân cách cũng như kỹ năng sống cho học sinh. Có nhiều nguyên
nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân chủ yếu sau đây:
* Về phía xã hội:
Chính sách mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu đã đem lại chất lượng cuộc
sống tốt hơn. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ đó đã kèm theo mặt trái tiêu cực
ngoài xã hội, tác động không nhỏ đến suy nghĩ, hành động của học sinh cộng
với sự phối hợp chưa đồng bộ của một số ngành chức năng. Ta dễ dàng quan sát
thấy hàng loạt quán internet mọc khắp mọi nơi hoạt động không tuân thủ theo
giờ giấc, thiếu sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, xuất hiện nhiều loại
sách, tranh ảnh mang nội dung khiêu dâm, đồi trụy, băng đĩa hình tràn ngập thị
trường với những nội dung tương tự bày bán công khai. Xuất hiện nhiều trò chơi
game online, đồ chơi trẻ em mang tính bạo lực và nhiều tệ nạn xã hội khác.
Những sân chơi lành mạnh còn rất ít, sự phục hồi giá trị văn hóa truyền thống ở
nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức, cho thấy việc việc quản lí và xử lí
chưa nghiêm là vấn đề đáng lo ngại và báo động trong xã hội hiện nay.

5


* Về phía nhà trường:
Nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn giáo dục công dân trong nhà
trường phổ thông, những năm gần đây Bộ giáo dục và Đào tạo đã có nhiều cải
cách và đổi mới trong giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của giáo
dục. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, lấy học sinh làm trung tâm, xây
dựng phong trào“ Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được các thầy cô
giáo và các em học sinh hưởng ứng tích cực. Bằng tình thương và trách nhiệm vì
học sinh, những năm qua đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có nhiều thầy cô giáo ngoài
việc truyền đạt tri thức còn giúp đỡ các em có hoàn cảnh khó khăn biết tự mình
vươn lên trong học tập, trong cuộc sống…điều đó đã làm giảm đáng kể tình

trạng nêu trên.
Tuy nhiên tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tình hình tội phạm
và bạo lực học đường đã và đang diễn ra theo chiều hướng khó kiểm soát. Đây
là điều trăn trở gây lo lắng và bức xúc trong toàn xã hội, đặc biệt là những người
mang trọng trách cao cả trong sự nghiệp “trồng người”.
* Về phía gia đình:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế theo đó là hàng loạt
những khó khăn và thách thức, nhiều bậc phụ huynh phải lao động kiếm tiền,
ngoài việc phục vụ cuộc sống gia đình, chăm sóc cho con cái học hành và nhiều
vấn đề phải lo lắng khác với thời kì bão giá như hiện nay. Nhưng có lẽ điều mà
các bậc phụ huynh trăn trở nhất là trẻ thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự lập, sống
ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã họi làm cho không
ít các bậc phụ huynh phải phiền lòng.
Trước một xã hội ngày càng phát triển nhưng đầy phức tạp, một số phụ
huynh lại lo âu và vội vàng tách con mình ra khỏi môi trường xung quanh, đưa
con mình vào môi trường gò bó nhất định càng khiến cho việc tiếp xúc, trải
nghiệm cuộc sống chỉ là những thứ sẵn có khiến chúng không thể thích nghi với
những thay đổi và khi xảy ra những tình huống thật sự ngoài đời sẽ phản ứng
theo bản năng một cách tiêu cực.
Khi những việc đáng tiếc xảy ra, điều đầu tiên mà người ta nhắc tới là sự
giáo dục lỏng lẻo của nhà trường rồi mới tới trách nhiệm của gia đình. Nhưng
bài học đầu đời về học ăn, học nói, học cách đối nhân xử thế lại bắt nguồn từ
trong gia đình, từ cách cha mẹ cư xử với con cái, với những người xung quanh,
giá trị sống trong mỗi gia đình là kỹ năng sống đầu tiên của mỗi cá nhân trước
khi bước ra môi trường xã hội.
* Về phía bản thân học sinh:
Hiện nay vẫn còn một bộ phận học sinh ham chơi, đua đòi, chạy theo
những thói hư, tật xấu, điển hình thời gian gần đây dư luận xã hội lên án mạnh
mẽ những hành vi bạo lực trong học sinh, những hình ảnh và vụ việc vi phạm
pháp luật của một số học sinh đã thật sự gây tiếng chuông cảnh báo về sự xuống

cấp đạo đức của giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh, gây chấn động đến các các
ngành chức năng có liên quan phải quan tâm nhiều hơn nữa đến đạo đức, lối
sống của học sinh hiện nay.
6


2.2. Nguyên nhân thực trạng trên:
- Thiếu định hướng từ gia đình, do cha mẹ thiếu quan tâm, cha mẹ li hôn hoặc
gia đình bất hòa…
- Thiếu các khu vui chơi, giải trí công cộng thích hợp với độ tuổi, việc tiếp thu
các nền văn hóa từ nhiều quốc gia trên thế giới thiếu kiểm soát.
- Một số trường học chưa chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh, cơ sở tổ chức Đoàn trong nhà trường còn mang tính bề nổi, chưa có những
hoạt động thu hút Đoàn viên thanh niên tham gia.
- Do bản thân học sinh chưa chủ động học tập, do một số thầy cô giáo quá
nghiêm khắc sẽ làm cho học sinh bị áp lực, căng thẳng.
- Phần lớn nhiều trường học, nhiều bậc phụ huynh và ngay cả chính học sinh
đang còn xem nhẹ vai trò của bộ môn học giáo dục công dân trong nhà trường
nên việc học còn mang tính chất đối phó.
- Do ảnh hưởng của điều kiện hoàn cảnh gia đình và tác động của môi trường xã
hội như: phim ảnh, Internet, các trò chơi game online…
2.3. Những ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng phương pháp dạy học tích
cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào bộ môn giáo dục công dân.
- Ưu điểm:
+ Giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để lồng ghép
(cần nói thêm là chọn một vài phương pháp phù hợp với nội dung kiến thức cần
tích hợp cho từng đề mục chứ không phải tất cả phương pháp đều áp dụng vào
đó).
+ Giáo viên dễ dàng đưa vào tích hợp nhiều kỹ năng sống với những vấn đề
nóng bỏng mà xã hội đang quan tâm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên không nên

ôm đồm quá nhiều nội dung vào 1 tiết học sẽ làm cho người tiếp nhận gặp khó
khăn và ảnh hưởng đến nội dung chính của bài học.
+ Người trình bày chủ động về thời gian trình bày theo nội dung chuẩn bị trước
hoặc yêu cầu học sinh chuẩn bị.
+ Do đặc thù của bộ môn giáo dục công dân nên việc giáo dục kỹ năng sống là
gần gũi, thích hợp từ trong chương trình bày dạy gắn liền với liên kết thực tế
cuộc sống.
- Hạn chế:
+ Thời gian tích hợp kỹ năng sống khoảng 5->8 phút, giáo viên dễ bị cuốn theo
những vấn đề học sinh quan tâm về kỹ năng sống của mình ở một số trường
hợp cụ thể nhất định
+ Một số giáo viên kỹ năng sống của bản thân chưa nhiều.
+ Học sinh chỉ thích ứng tích cực với môn học này nhưng chưa có được liên hệ
nhiều với những môn học khác và ngoài xã hội.
2.4. Cách tiến hành:
Giáo viên có thể sử nhiều phương pháp khác nhau làm thế nào chọn phương
pháp phù hợp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Căn cứ vào nội dung nội dung cụ thể của từng đề mục lồng ghép, giáo viên có
thể chuẩn bị tài liệu và nội dung cần tích hợp, có thể giao câu hỏi hoặc những
nội dung liên quan cho học sinh về nhà chuẩn bị trước (đóng vai, thuyết trình,
thảo luận nhóm, hoạt động trải nghiệm…)
7


Chuẩn bị những vật dụng và tài liệu liên quan như: ( bảng phụ, bài báo, giấy khổ
to, bút lông, phim ảnh minh họa…)
2.5. Yêu cầu sư phạm:
Có nhiều phương pháp để có thể vận dụng vào trong tích hợp kỹ năng sống của
từng bài, từng đề mục khác nhau, cho nên giáo viên cần vận dụng một cách sáng
tạo tùy theo chủ đề đó.

Quá trình tích hợp cần diễn ra một cách nhẹ nhàng vừa không gây áp lực cho
học sinh vừa có thể truyền tải được kỹ năng sống mà không làm mất đi nội
dung chính của bài dạy.
CHƯƠNG II:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
NHẰM TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO BỘ MÔN GDCD 10
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi đang có sự thay đổi
mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần, chính vì có sự biến động về mặt tâm- sinh- lý
nên các em rất năng động, luôn tìm tòi, khám phá, có những ước mơ và hoài bão
lớn. Vì thế, độ tuổi này có những em rất ngoan biết vượt lên số phận, nhưng có
những học sinh rất khó dạy bảo, không muốn ai chỉ trích nói đến mình ngay cả
lời dạy bảo của cha mẹ, học sinh cho là lạc hậu, luôn đề cao cái tôi của mình rất
lớn, quan niệm sống buông thả, tầm thường, lố bịch, luôn đua đòi học theo
những thị hiếu mà các em cho rằng đó là cái mốt, thời thượng của một xã hội
phát triển đem lại. Không phủ nhận hoàn toàn cách tiếp cận của học sinh hiện
nay, tuy nhiên các em cần thích ứng như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực xã
hội, văn hóa đó phải được mọi người công nhận và hưởng ứng.
Trước những hành vi phản ứng tích cực và tiêu cực của lứa tuổi này
chứng tỏ các em thiếu kiến thức xã hội nên dễ dàng bị lôi kéo vào những lối
sống thiếu lành mạnh, thói quen sống buông thả chính là nguyên nhân đem đến
hậu quả khó lường. Nói cách khác là các em thiếu kỹ năng sống trước những
thách thức và thay đổi nhanh chóng của hệ quả xã hội phát triển để lại hiện nay.
Vận dụng qua bài dạy cụ thể chủ đề: “ Quan hệ với bản thân- Giáo dục
công dân lớp 10” như sau:
Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân
I. Mục tiêu bài học
1. Về kiến thức: Học xong bài này học sinh hiểu được
- Thế nào là tự hoàn thiện bản thân.
- Vì sao phải tự hoàn thiện bản thân theo các yêu cầu đạo đức xã hội?
2. Kỹ năng

- Biết tự nhận thức về bản thân
- Biết đặt mục tiêu phấn đấu, rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân theo các giá trị
đạo đức của xã hội.
3. Về thái độ
- Coi trọng việc tu dưỡng và tự hoàn thiện bản thân
- Tự trọng, tự tin vào khả năng phát triển của bản thân đồng thời biết tôn trọng,
thừa nhận và học hỏi những điểm tốt của người khác
8


II. Các năng lực hướng tới phát triển học sinh
- Năng lực tự học, năng lực giao tiếp, tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần vượt
khó,…
III. Phương pháp/ kĩ thuật dạy học tích cực
- Xử lí tình huống, thảo luận nhóm, đọc hợp tác, tự liên hệ.
IV. Phương tiện dạy học
- Tranh ảnh, thông tin liên quan đến bài học, sách giáo khoa GDCD lớp 10
- Sách tham khảo: Bác Hồ và những bài học đạo đức lối sống dành cho học
sinh- lớp 10
V Tổ chức dạy học
Hoạt động của giáo viên và học sinh
1. Khởi động
*Mục tiêu:
+Kích thích học sinh tự tìm hiểu về tự hoàn thiện
bản thân
+Rèn luyện năng lực tư duy tự nhận thức và tự
hoàn thiện bản thân
*Cách tiến hành:cho hs đọc thông tin sau.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - MỘT TẤM GƯƠNG
SÁNG VỀ TINH THẦN TỰ HỌC, TỰ RÈN LUYỆN

ĐỂ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH

Ngày nay, trên thế giới quá trình toàn
cầu hóa cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học
công nghệ, yêu cầu mỗi quốc gia dân
tộc để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu,
tránh tụt hậu xa về kinh tế; đồng thời
vươn lên trình độ tiên tiến, phải dựa
trên nền kinh tế tri thức nhằm tạo ra giá
trị sản phẩm lao động cao. Nắm bắt
được xu hướng biến đổi đó, Đảng và
Nhà nước Việt Nam chủ trương thực
hiện đổi mới căn bản, toàn diện về giáo
dục và đào tạo nhằm tạo ra sự chuyển
biến về chất trong lực lượng sản xuất.
Thực tế cho thấy, để làm được như
trên, yêu cầu mỗi con người Việt Nam;
đặc biệt là thế hệ trẻ phải là tấm gương
sáng về tinh thần tự học và tự rèn
luyện. Vì vậy, bài viết này giới thiệu về
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một tấm gương
sáng cho tinh thần tự học, tự rèn luyện
để hoàn thiện nhân cách.

Nội dung bài học
1- Tự nhận thức về bản
thân
- Tự nhận thức về bản thân là
biết nhìn nhận, đánh giá về

khả năng, hành vi, việc làm,
những điểm mạnh, yếu của
bản thân
- Tự nhận thức về bản thân
giúp người ta hiểu đúng về
mình, từ đó có các quyết
định, hành động, cách xử sự
phù hợp trong các mối quan
hệ. đạt được mục đích trong
cuộc sống.
2- Tự hoàn thiện bản thân
a) Thể nào là tự hoàn thiện
bản thân.
- Là vượt lên mọi khó khăn,
trở ngại, không ngừng học
tập, tu dưỡng, rèn luyện.
- Khắc phục, sửa chữa những
khuyết điểm, học hỏi những
điểm hay, điểm tốt của người
khác, phát huy ưu điểm của
mình để ngày một tiến bộ.
b) Vì sao phải hoàn thiện
bản thân.
- Xã hội ngày một phát triển,
do vậy mỗi cá nhân phải tự
hoàn thiện để đáp ứng yêu
cầu của xã hội.
9



lòng ham mê học tiếng nước ngoài để - Tự hoàn thiện bản thân là
một phẩm chất quan trọng
nắm bắt tri thức nhân loại
của thanh thiếu niên, giúp
Trong thời gian hoạt động ở nước ngoài,
cho cá nhân, gia đình và
mặc dù công việc bận rộn, gặp nhiều
cộng đồng xã hội ngày càng
khó khăn gian khổ, nhưng Bác Hồ vẫn
tiến bộ hơn.
ham học và tìm tòi với một quyết tâm
sắt đá. Ở đâu Người cũng học và trước
hết là học tiếng: Anh, Pháp, Nga, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha…; tranh thủ học
mọi lúc, mọi nơi; học bạn bè cùng đi 3- Tự hoàn thiện bản thân
trên tàu, cô sen, học anh thợ nấu bếp, như thế nào ?
thủy thủ trên tàu, học giáo sư người - Mỗi người đều có quyền
Anh…Trước khi đến nước Pháp, Bác đã phấn đấu, tu dưỡng, rèn
đặt cho mình kế hoạch học tiếng Pháp. luyện để tự hoàn thiện bản
Nói về tinh thần say mê học tập của thân theo các yêu cầu đạo
anh Ba trên tàu những ngày lênh đênh đức xã hội.
trên biển khơi, những người làm trên - Có quyền được nhận sự hỗ
tàu kể: “Mỗi ngày, chín giờ tối công việc trợ, giúp đỡ của gia đình,
mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong bản bè, xã hội…để thực hiện
khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh mục tiêu tự hoàn thiện bản
Ba đọc hay viết đến mười một giờ hoặc thân.
nửa đêm”.
* HS cần:
Những lúc tàu đi trên biển dài ngày, - Tự nhận thức đúng về bản
Người đã học tiếng Pháp với anh thủy thân những điểm tốt, điểm

thủ, qua những buổi trò chuyện, những cưa tốt so với chuẩn mực
lúc họ giúp Người rửa nồi, nhặt rau, thái đạo đức xã hội.
măng. Đến Saint Adret, trong lúc ở tạm - Có kế hoạch phấn đấu và
nhà người chủ tàu, Bác tranh thủ học rèn luyện cụ thể theo từng
mốc thời gian.
tiếng với người giúp việc.
- Xác định rõ biện pháp cần
Khi hoạt động ở Pháp, Bác khuyên bạn thực hiện.
bè: “đừng bỏ phí thời giờ vô ích nhìn - Xác định rõ những điểm
những người đàn bà tắm ngoài bãi biển thuận lợi, những điểm khó
mà nên đi du lịch, học hỏi để hiểu biết khăn có thể xảy ra.
được nhiều hơn”.
- Biết tìm sự giúp đỡ ở
Bà Hồ biết nhiều ngoại ngữ không phải những người tin cậy.
hoàn toàn do năng khiếu mà điều chủ
yếu là do Người kiên trì, bền bỉ học tập
và có cách học hợp lí nhất, thông minh
nhất, tốn ít công sức nhất mà lại đạt
hiệu quả cao nhất. Khi học tiếng Pháp,
Người cũng gặp không ít khó khăn trở
ngại: “Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó
10


khăn. Tin tức từ Việt Nam ông Nguyễn
không thiếu. Ông thiếu nhất là văn
Pháp. Ông Nguyễn viết làm hai bản, gửi
cho tòa soạn một bản, giữ lại một bản,
ông hết sức vui sướng khi thấy bài viết
đầu tiên của mình được đăng trên báo,

ông đọc lại bài báo đã in, so sánh và
sửa chữa những chỗ viết sai, ông kiên
nhẫn làm theo cách ấy. khi thấy viết bài
đã bớt sai dần, ông chủ bút bảo ông
Nguyễn: bây giờ Anh viết dài hơn một
tí, viết độ 7-8 dòng…Dần dần ông
Nguyễn có thể viết cả một cột báo và
có khi dài hơn”. Trong quá trình tự học,
Bác rất kiên trì và luôn tìm tòi những
phương pháp đạt kết quả cao: “Sau khi
hỏi được nghĩa những từ mới, Người viết
vào một mảnh giấy, dán vào chỗ hay để
ý nhất, có khi viết vào cánh tay để
trong lúc làm việc vẫn học được. Lại cả
khi đi đường, Người cũng nhẩm bài học.
Ban đêm khi chưa ngủ, Người lấy tay
viết mò những chữ khó xuống chăn cho
kì nhớ mới thôi, và thế là đã học thêm
được vài từ mới nữa”. C.Mác đã từng
nói: “Biết một ngoại ngữ là một vũ khí
đấu tranh trong cuộc sống”, Bác Hồ đã
hiểu rất sâu sắc điều này. Việc học tiếng
nước ngoài của Bác không chỉ để phục
vụ cho giao tiếp và sinh hoạt hàng
ngày. Quan trọng hơn, Bác học tiếng
nước ngoài để làm phương tiện viết
sách báo tuyên truyền thức tỉnh tinh
thần yêu nước, ý thức dân tộc, tố cáo
âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực
dân đối với nhân dân trong nước và

nhân dân các nước thuộc địa. Động cơ
đó luôn thúc đẩy Bác ra sức tự học để
thông thạo tiếng nước ngoài và dùng nó
để phục vụ công tác tuyên truyền cách
mạng. Trong thời gian hoạt động ở
Pháp, Bác đã viết nhiều bài bằng tiếng
Pháp đăng trên báo Nhân Đạo (tờ báo
của Đảng Xã hội Pháp) và tạp chí Đời
11


sống công nhân. Năm 1922, khi vua
Khải Định sang Pari, Người đã viết vở
kịch Con Rồng tre bằng tiếng Pháp để
đả kích ông vua bù nhìn này. Tại Pari,
Bác cùng một số nhà cách mạng ở các
nước thuộc địa Pháp thành lập tổ
chức Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa và ra báo Người cùng khổ (Le
Paria) do chính Người làm chủ nhiệm
kiêm chủ bút. Báo được xuất bản bằng
tiếng Pháp để truyền bá chủ nghĩa MácLênin vào các nước thuộc địa Pháp,
thức tỉnh nhân dân các nước này đứng
lên đấu tranh tự giải phóng. Năm 1925,
cuốn sáchLên án chủ nghĩa thực dân do
Người viết được xuất bản bằng tiếng
Pháp ở Pari. Tác phẩm này cùng những
bài viết của Người có tiếng vang rất lớn
và được dư luận thế giới đánh giá cao.
Tháng 6 năm 1923, Bác Hồ bí mật rời

Pháp sang Liên xô. Trong thời gian một
năm rưỡi ở Liên xô, Người đã tự học và
sử dụng thành thạo tiếng Nga, một
ngoại ngữ khó học, bình thường một
sinh viên đại học phải học bốn năm mới
đọc thông, viết thạo. Để sử dụng tiếng
Nga thành thạo, Bác Hồ phải phấn đấu
liên tục, vừa tự học vừa thực hành nâng
cao. Người đã viết nhiều bài bằng tiếng
Nga đăng trên báo Sự thật (Pravđa)của
Đảng Cộng sản Liên xô và tạp chí Thư
tín Quốc tế. Sau này khi về nước, trong
thời kì hoạt động ở Pắc Bó (Cao Bằng),
Người đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng
sản Liên xô từ bản tiếng Nga sang tiếng
Việt để dùng cho cán bộ, đảng viên học
tập, nghiên cứu. Sau này, trong kháng
chiến chống Pháp, Bác còn dịch cuốn
sách Tỉnh ủy bí mật, của tác giả A.Phêđô-rốp, một nhà lãnh đạo phong trào du
kích ở Liên xô và viết tựa đề cho cuốn
sách này để làm tài liệu tuyên truyền.
Ngay từ năm 1935, ngoài tiếng Hán,
12


Pháp, Anh, Nga được xem là những
ngôn ngữ quốc tế thông dụng ra, Bác
Hồ còn biết cả tiếng Đức, Italia và một
ngôn ngữ của một số nước nữa…Nhờ
biết nhiều ngoại ngữ, Người đã sớm tiếp

thu lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, và
Người đã sử dụng ngoại ngữ như như
một công cụ để hoạt động cách mạng.
Ngoại ngữ đã giúp Bác tìm hiểu và biết
sâu sắc nền văn hóa của nhiều nước
trên thế giới. Người thích đọc các tác
phẩm văn học nước ngoài bằng chính
ngôn ngữ của nước đó: “Bác thích đọc
Sếch-pia và Đich-ken bằng tiếng Anh,
Lỗ Tấn bằng tiếng Hán, Huy-gô và Dô-la
bằng tiếng Pháp”. Trong thời gian bị
giam giữ ở nhà tù của bọn phản động
Tưởng Giới Thạch, Người đã viết tập
thơ Nhật ký trong tù bằng chữ Hán đã
gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước;
đặc biệt Người đã đưa ra định nghĩa văn
hóa góp phần làm sáng tỏ giá trị tinh
thần chung của nhân loại.
Qua tấm gương học ngoại ngữ của Bác,
đã để lại cho chúng ta, đặc biệt là học
sinh sinh viên một bí quyết thành công
khi học tiếng nước ngoài “là tinh thần
chịu khó, bền bỉ, không nóng vội vì học
ngoại ngữ là phải rèn luyện không
ngừng để củng cố kĩ năng ngôn ngữ
mới sử dụng được nó một cách sinh
động có hiệu quả”. Trong thời gian hoạt
động ở Xiêm (Thái lan), Bác Hồ tự học
tiếng Xiêm: “Bác đề ra mỗi ngày học
mười chữ. Có người chê ít, đòi học nhiều

hơn nhưng chỉ ba tháng sau Bác đã xem
được báo chữ Xiêm, còn những người
khác háo hức lúc đầu thì kết quả chẳng
được bao nhiêu…”. Trong một lần đến
thăm và nói chuyện với giáo viên và
sinh viên trường Đại học Sư phạm Ngoại
ngữ Hà Nội, khi nói về việc học tiếng
nước ngoài, Bác có nói: “Nếu chúng ta
học mỗi ngày năm chữ (không yêu cầu
13


nhiều hơn) thì trong một trăm ngày
chúng ta học được năm trăm chữ, sáu
tháng học được tám trăm chữ. Biết tám
trăm chữ chúng ta có thể đọc được báo
đối với một số ngoại ngữ. Như vậy, ước
mơ nắm được ba, bốn ngoại ngữ của
chúng ta không phải là khó đạt tới”.
Sau này, khi đã trở thành Chủ tịch nước,
Người vẫn tranh thủ thời gian để học
ngoại ngữ. Thậm chí, lúc tuổi đã cao
nhưng Bác Hồ vẫn tạo cho mình thói
quen tự học ngoại ngữ. Theo nhà nhiếp
ảnh nổi tiếng Đinh Đăng Định, người
nhiều năm được sống gần Bác Hồ kể lại:
“Hồi trước chiến tranh phá hoại của Mỹ,
lúc sức khỏe còn tốt, Bác Hồ vẫn giành
mỗi tuần một buổi tối để học thêm
tiếng Nga. Ngoài bảy mươi tuổi Người

vẫn đều đặn tự nâng cao trình độ tiếng
nước ngoài”. Từ những vốn ngoại ngữ
qúy giá đã giúp Người tích lũy hiểu biết
về các nước, các dân tộc, hòa hợp trong
Người tất cả những tinh hoa của thế giới
và thời đại.
Xã hội loài người phát triển như ngày
nay, một phần lớn là nhờ con người có
khả năng học tập lẫn nhau cộng hưởng
các sức mạnh cá nhân tạo nên sức
mạnh to lớn của cộng đồng. Sách báo
sẽ là một nguồn tài nguyên vô giá giúp
cho con người học tập và không ngừng
vươn lên để tự hoàn thiện mình. Bài học
tự học qua sách báo của Hồ Chủ tịch sẽ
mãi là tấm gương sáng cho mỗi người
chúng ta học tập và noi theo. Và một
lần nữa chúng ta lại có thêm một minh
chứng của việc “đọc sách, mắt như đèn
muôn dặm” (như lời Cao Bá Quát xưa
từng nói). Ánh sáng từ đôi mắt ấy mãi
mãi sẽ là ngọn đèn soi rọi trên con
đường dân tộc Việt Nam đi.
Ngày nay thanh niên Việt Nam có rất
nhiều điều kiện để tự học tốt hơn,
14


nhưng do thiếu ý chí và thiếu phương
pháp tự học nên kết quả tự học chưa

cao. Học tập tấm gương đạo đức của
Bác, một trong những điều cần thiết đối
với thanh niên, học sinh, sinh viên là
cần tự học tốt, nâng cao trình độ cho
mình để có điều kiện phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân được tốt hơn và bản
thân ngày càng thành đạt.
TS. Ngô Minh Thuận - Phó Trưởng khoa Triết học và
Chính trị học

- GV cho hs xem hình ảnh về sự thành công của
hoa hậu H’HEN NIÊ

GV: Đây là tấm gương tiêu biểu về tự hoàn thiện
bản thân .
GV đặt câu hỏi:
1. Để đạt được kết quả đó, Bác Hồ kính yêu và cô
Hoa hậu người dân tộc thiểu số H’Hen Niê đã
phải rèn luyện như thế nào?
GV:Con người ai cũng muốn sống có ích cho bản
thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, để làm được
như vậy, mỗi người cần phải tự hoàn thiện bản
thân.
15


Muốn tự hoàn thiện bản thân thì phải tự nhận
thức đúng về bản thân.
Vậy thế nào là tự nhận thức về bản thân? Tự
hoàn thiện bản thân? Tự hoàn thiện bản thân như

thế nào? Bài học hôm nay sẽ làm rõ những vấn đề
trên.

2. Hoạt động hình thành kiến thức.
* Hoạt động 1: Thảo luận tìm hiểu tự nhận thức
về bản thân.
* Mục tiêu:
+ Hiểu được thế nào là tự nhận thức về bản thân
+ Rèn luyện năng lực tự nhận thức, năng lực tư
duy phê phán cho học sinh.
* Cách tiến hành:
+ GV yêu cầu học sinh xem lại các phiếu tự nhận
thức về bản thân mà các em đã điền ở nhà.
+ Cho học sinh chia sẻ kết quả tự nhận thức về
mình với các bạn theo bàn.
Câu hỏi:
1. Những điểm nào ở em hài lòng và chưa hài
lòng về bản thân?
2. Em thấy mình có những điểm nào giống, những
điểm nào khác với các bạn trong nhóm ?
3. Để phát triển tốt hơn mỗi người cần phải làm
gì?
4. Thế nào là tự nhận thức về bản thân ? Tự nhận
thức về bản thân có ý nghĩa gì ?
+ Học sinh trình bày quan điểm cá nhân.
+ Cả lớp trao đổi.
-Kết luận:
Để trở thành người thành công, có ích cho gia
đình và xã hội trước hết phải là người có đạo đức,
người biết tuân theo những chuẩn mực đạo đức

của xã hội. Sống hòa nhập, hợp tác với cộng
đồng...Để làm được như thế mỗi người cần phải
biết tự hoàn thiện bản thân
* Hoạt động 2: Đọc hợp tác SGK và tìm hiểu về
tự hoàn thiện bản thân.
* Mục tiêu:
+ Học sinh hiểu được thế nào là tự hoàn thiện bản
thân?
+ Rèn luyện năng lực tư duy, phát triển của bản
thân.
* Cách tiến hành:
- GV yêu cầu HS nghiên cứu SGK, liên hệ thực
16


tiễn, nêu câu hỏi đàm thoại.
1.Thế nào là tự hoàn thiện bản thân ? Cho ví dụ?
+ 2 đến 3 hs phát biểu.
+ Lớp bổ sung.
- GV nhận xét và kết luận
*Hoạt động 3: Vấn đáp tìm hiểu vì sao phải tự
hoàn thiện bản thân.
* Mục tiêu:
+ HS hiểu sự cần thiết phải hoàn thiện bản thân.
+Rèn luyện kỹ năng tự nhận thức và phát triển.
* Cách tiến hành:
+ gọi 2 đến 3 học sinh trả lời
+ Lớp nhận xét.
- GV nhận xét và kết luận.
* Hoạt động 4: Động não tìm hiểu làm thế nào để

tự hoàn thiện bản thân? Học sinh phải làm gì để tự
hoàn thiện bản thân ?
* Mục tiêu:
+ Học sinh hiểu: không ai là hoàn hảo cả, tự hoàn
thiện giúp cá nhân, gia đình, xã hội phát triển tốt
hơn.
+ Rèn luyện năng lực nhận thức, năng lực phát
triển của học sinh.
* Cách tiến hành:
+ GV nêu câu hỏi động não: Theo em làm thế nào
để tự hoàn thiện bản thân, học sinh phải làm gì để
tự hoàn thiện bản thân ?
+ 2 đến 3 học sinh trả lời.
+ Lớp nhận xét và bổ sung.
- GV kết luận:
3.Hoạt động luyện tập.
*Mục tiêu:
- Luyện tập để học sinh củng cố những gì đã biết
về tự nhận thức bản thân, tự hoàn thiện bản thân
và tự hoàn thiện bản thân như thế nào.
- Rèn luyện các năng lực tự nhận thức, tư duy phê
phán, tự chịu trách nhiệm, đánh giá và điều chỉnh
hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp
luật.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân
bài tập SGK
- Học sinh làm bài tập.
- Gọi 2 đến 4 học sinh trả lời.
17



- Lớp bổ sung.
* Giáo viên chính xác hóa đáp án.

Bài tập 1:
-Tự hoàn thiện bản thân là vượt lên mọi khó khăn,
trở ngại, không ngừng lao động, học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, phát huy ưu điểm, khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm, học hỏi nhuwnhx điểm
hay, điểm tốt của người khác để bản thân ngày
một tốt hơn, tiến bộ hơn.
- Phải tự hoàn thiện bản thân vì : mỗi người đều
có điểm mạnh và hạn chế riêng, không có ai hoàn
thiện cả. Mặt khác , xã hội không ngừng phát
triển, luôn đề ra những yêu cầu mới, cao hơn. Vì
vậy ai cũng cần hoàn thiện để phát triển, đáp ứng
được những đòi hỏi của xã hội.
Bài tập 3:
Sản phẩm của học sinh.
*Hoạt động vận dụng
- Tạo cơ hội cho HS vận dụng kiến thức và kỹ năng đã học để vận dụng vào
thực tế cuộc sống.
- Rèn luyện các năng lực tự nhận thức, tư duy phê phán, tự chịu trách nhiệm,
đánh giá và điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
* Cách tiến hành:
+ GV nêu yêu cầu:
. Tự liên hệ:
. Hằng ngày thực hiện và kiểm tra những tiêu chí đã làm được và chưa làm
được theo kế hoạch đã lập ra.

. Hãy nêu cách khắc phục những hành vi, việc làm chưa tốt.
+ Nhận diện xung quanh:
Hãy nêu nhận xét của em về việc thực hiện bản kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để
tự hoàn thện bản thân của các bạn trong lớp em và một số người khác mà em
biết.
+ GV định hướng HS
- Học sinh tôn trọng và thực hiện đúng bản kế hoạch của mình.
- Học sinh làm tiếp bài tập trong SGK
- Học sinh chủ động thực hiện các yêu cầu trên.
* Hoạt động mở rộng.
GV hướng dẫn hs tìm câu chuyện rèn luyện KNS về tự rèn luyện bản thân.
18


Ví dụ : Thiên tài Bettoven đã viết lên những bản nhạc bất hủ trong tình trạng
khiếm thính. Ông đã nhận ra rằng khuyết điểm lớn nhất của người chơi nhạc như
ông là không nghe được gì và ông đã nỗ lực không nản chí để khắc phục điểm
yếu đó, ông đã nói: “ Ta sẽ không để cho khuyết tật hạ gục. Tuy ta không nghe
bằng lỗ tai nhưng ta có thể nghe bằng tâm hồn” Và nghị lực đã giúp ông trở
thành thiên tài âm nhạc.
Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký đã nhận thấy điểm mạnh của mình là kiên trì, nhẫn
nại, có sự quyết tâm… còn nhược điểm là bị khuyết tật ở tay.Và thầy đã phát
huy điểm mạnh của mình và khắc phục điểm yếu, đó là cố gắng kiên trì luyện
viết chữ bằng chân và cuối cùng thầy đã thành công.
GV hỏi: Nếu thiên tài Bettoven hay thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký không đánh giá
đúng về mình, không nhận ra được điểm mạnh và điểm yếu thì các ông có thành
công không? Nó sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào?
HS trả lời.
GV kết luận :Như vậy bằng sự nỗ lực của bản thân, sự kiên trì rèn luyện mà thầy
Nguyễn Ngọc Ký đã dùng đôi chân của mình để thay thế cho đôi tay. Tất cả

những hoạt động hàng ngày của thầy đều được thực hiện bằng đôi chân kì diệu
ấy từ chải đầu, mặc quần áo đến các công việc đòi hỏi sự khéo léo như khâu
vá…Thầy đã cho mọi người thấy rằng mình tàn nhưng không hề phế. Hoặc như
nhà soạn nhạc Bettoven đã nghe những bản nhạc của mình sáng tác bằng cách
ngậm một thanh sắt, đầu kia tì lên thành của cây dương cầm. Khi cách li khỏi sự
huyên náo của cuộc sống, những giai điệu hòa âm mới bắt đầu tuôn trào trong
ông. Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký và nhà soạn nhạc Bettoven chính là những tấm
gương sáng và tiêu biểu về sự hoàn thiện bản thân cho chúng ta noi theo.

19


Kết quả cụ thể khi thực hiện đề tài:
Khi chưa tích hợp kỹ năng sống vào bài dạy:

Stt

Lớp

Sĩ số

1
2
3
4
5
6
7
8
9

10

10A1
10A2
10A3
10A4
10A5
10A6
10A7
10A8
10A9
10A10

42
42
42
41
40
43
43
42
41
39

Liên hệ và ứng
Không liên hệ và
dụng được vào thực ứng dụng được vào
tiễn
thực tiễn
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

22/42
52,4%
20/42
47,6%
18/42
43,0%
24/42
57,0%
15/42
36,0%
27/42
64,0%
17/41
42,0%
24/41
58,0%
16/40
40,0%
24/40
60,0%
19/43
44,2%
24/43
55,8%
22/43
51,2%
21/43
48,8%
17/42
40,5%

15/42
59,5%
16/41
39,0%
25/41
61,0%
14/39
35,8%
17/45
64,2%

Sau khi tích hợp kỹ năng sống vào bài dạy:

Stt

Lớp

Sĩ số

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10


10A1
10A2
10A3
10A4
10A5
10A6
10A7
10A8
10A9
10A10

42
42
42
41
40
43
43
42
41
39

Liên hệ và ứng
Không liên hệ và
dụng được vào thực ứng dụng được vào
tiễn
thực tiễn
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
40/42
95,2%

2/42
4,8%
39/42
92,9%
3/42
7,1%
39/42
92,9%
3/42
7,1%
39/41
95,0%
2/40
5,0%
38/40
95,0%
2/40
5,0%
42/43
97,7%
1/43
2,3%
42/43
97,7%
1/43
2,3%
38/42
90,5%
4/42
9,5%

36/41
87,8%
5/41
12,2%
34/39
87,2%
5/39
12,8%

20


CHƯƠNG III:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ HIỆU QUẢ KHI ỨNG DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO
GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI TRONG BỘ MÔN GDCD LỚP 10

Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, giúp học sinh có cách nhìn nhận
đúng đắn về vai trò của bộ môn giáo dục công dân trong nhà trường. Giáo viên
phải là người có lòng nhiệt huyết, biết lựa chọn và kết hợp tốt các phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá…có nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông. Việc tích hợp kĩ năng
sống vào trong chương trình phải diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái tránh
gây áp lực về tâm lí, điểm số thì việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh mới
đem lại hiệu quả thiết thực.
Vì vậy, khi truyền đạt nội dung bài học, người dạy phải làm thế nào vận dụng
những kiến thức biến thành kỹ năng sống về những tình huống xảy ra trong cuộc
sống, giúp học sinh tìm cách đối diện và đương đầu với những khó khăn, biết
cách tự mình vượt qua cũng như biết cách phòng chống những mâu thuẫn, xung
đột bạo lực giữa người với người.

Thông qua chương trình giáo dục công dân giáo viên có thể tích hợp kỹ năng
sống tùy vào nội dung và kiểu bài khác nhau, có thể lựa chọn nhiều phương
pháp để tích hợp kỹ năng sống phù hợp nhằm thu hút sự tò mò, hiếu kì, kích
thích sự hứng thú của người học. Giáo viên chú ý hệ thống câu hỏi không quá
dài, không quá ngắn cần nhiều câu hỏi gợi mở và liên hệ thực tiễn gần gũi với
cuộc sống, sinh hoạt và học tập của các em. Qua đó sẽ làm thay đổi nhận thức
của học sinh về môn học đồng thời học sinh sẽ có thái độ tích cực hơn trong học
tập và trong cuộc sống.

21


3. PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ.
* KẾT LUẬN:
Như đã trình bày ở trên, nếu như nhìn vào điểm số sẽ thấy rõ kết quả của
môn học giáo dục công dân rất cao, nếu đánh giá về hành vi và thái độ của học
sinh về kỹ năng sống vận dụng vào cuộc sống thì chưa đạt kết quả như mong
muốn. Thời gian gần đây dư luận xã hội lên án mạnh mẽ về hành vi bạo lực
trong học sinh , mọi người không khỏi ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh hờ hững
của những người xung quanh đứng nhìn. Câu chuyện về về giáo dục đạo đức lối
sống cho học sinh cho tới nay không phải là vấn đề mới đưa vào. Tuy nhiên việc
thiếu ý thức và cách hành xử của một bộ phận học sinh nêu trên phải làm cho
những ngành giáo dục phải có cách nhìn nhận mới hơn trong một xã hội đầy
năng động nhưng không kém phần phức tạp như hiện nay. Điều đó sẽ đặt ra
trách nhiệm nặng nề hơn cho những người làm công tác giáo dục mà người thầy
là con thuyền định hướng cho cả một thế hệ trong tương lai.
Nhìn nhận một cách thực tế hiện nay học sinh thiếu kỹ năng sống một cách báo
động, học sinh thiếu kiến thức, suy nghĩ nông cạn, lối sống thực dụng, thiếu hiểu
biết để đối phó với những nảy sinh diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Muốn
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cần nhiều yếu tố phối hợp như: gia đình,

nhà trường, xã hội…mà cốt lõi bản chất của từng cá nhân học sinh, trong đó:
Gia đình phải giáo dục tình thương yêu, định hướng cho con mình tránh xa
những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, biết lắng nghe khi con cần chia sẻ, giúp
đỡ…
Nhà trường cần quan tâm rèn luyện kỹ năng sống ngoài dạy chữ, luôn quan tâm
đến đời sống tâm tư nguyện vọng của các em để có hướng giáo dục kỹ năng
sống cho phù hợp.
Có nhiều phương pháp tích cực trong giảng dạy, kỹ năng sống cũng là một
phương pháp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập. Tuy nhiên
việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào bộ môn giáo dục công dân không phải
là để giải quyết tất cả những tồn tại nêu trên, tuy nhiên sự chủ động tích hợp vào
bộ môn này sẽ phần nào hạn chế tính tiêu cực, cùng với giáo dục toàn diện trong
nhà trường sẽ giúp cho học sinh có những kỹ năng sống vững vàng khi bước vào
đời.

22


* KIẾN NGHỊ:
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, giáo dục kỹ năng sống càng trở nên
cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi vì:
- Xây dựng hành vi sức khoẻ lành mạnh cho cá nhân và cộng đồng góp phần xây
dựng môi trường sống lành mạnh, đảm bảo cho các em phát triển tốt về thể chất
và tinh thần.
- Thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng công
đồng, xã hội lành mạnh.
- Giúp các em sẽ thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng
đồng và đất nước.
- Giúp các các em tránh xa các hành vi tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ, lai
căng, thực dụng, phát triển lệch lạc về nhân cách như: Nghiện hút, bạo lực học

đường, ăn chơi sa đọa...
Giáo dục kỹ năng sống không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi
phải có cả quá trình: nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi.
Kỹ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Kỹ năng sống mang
tính cá nhân vì đó là năng lực của cá nhân. Kỹ năng sống còn mang tính xã hội
vì trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội đòi hỏi kỹ năng sống đa
dạng và phức tạp hơn, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có những kỹ
năng sống thích hợp.
Thực tế cho thấy, có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có
nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng. Ví dụ: Nhiều người biết hút thuốc
lá có thể gây ung thư phổi,... nhưng họ vẫn hút thuốc; dù biết điều khiển xe máy
lạng lách, đánh võng sẽ gây hậu quả nghiêm trọng nhưng tệ nạn này hiện nay
vẫn không hề giảm... Đó chính là vì họ đã thiếu kỹ năng sống.
Hiện nay đã có gần 200 quốc gia trên thế giới quan tâm đến việc đưa kỹ năng
sống vào nhà trường, trong đó có 185 nước đã đưa vào chương trình chính khoá
ở tiểu học và trung học. Không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của môn học
này trong việc rèn luyện và hình thành nhân cách con người, là nhân tố tạo nên
một môi trường ứng xử hài hòa, khoan dung, độ lượng, tạo ra một xã hội văn
minh, hiện đại, phồn vinh và thịnh vượng.
Kiến nghị:
Cần tăng cường thảo luận chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống cho giáo viên có
thể chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm.
Mở các lớp tập huấn về giáo dục kỹ năng sống cho bộ môn giáo dục công
dân.
Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh.
Xuất phát từ thực tiễn trên, với tâm huyết nghề nghiệp, trong quá trình giảng dạy
bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi vận dụng những phương pháp phù hợp nhằm
giúp học sinh hứng thú với bộ môn từ đó học sinh có thể tiếp thu bài học một
cách tốt nhất. Vấn đề quan trọng làm thế nào từ khái niệm, lí thuyết giáo viên áp

dụng tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào thực tiễn. Tích hợp kỹ năng sống mới
được lồng ghép vào bộ môn giáo dục công dân, trong quá trình giảng dạy bản
thân tôi gặp không ít khó khăn vì kinh nghiệm bản thân còn hạn chế. Vì vậy
23


những thiếu sót là không thể tránh khỏi, tuy nhiên với một người đứng lớp đặc
biệt môn giáo dục công dân chưa được người học và xã hội quan tâm đúng mức
thì việc giúp học sinh có kỹ năng sống là vấn đề cần thiết hiện nay nhằm góp
phần đào tạo con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước.

24


LỜI CẢM ƠN
Đề tài này đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân, do đó không thể
tránh khỏi những hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của
đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những thông tin phản
hồi từ phía học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn,
bạn bè đồng nghiệp và các học sinh trong thời gian qua đã nhiệt tình quan tâm,
hưởng ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người

khác.
Người viết

Đỗ Thị Phương

25


×