Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua một số phương pháp dạy học tích cực khi dạy và học chương i cuộc cách mạng tư sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 32 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chon đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của đề tài.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
2.2. Thực trạng
2.3. Giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.1.2 Kiến nghị.
4. Tài liệu tham khảo
5. Phụ lục

Trang
2
2
3
4
4
4
4
4-6
6
7-15
15
15-16


15
16
17
18-31

1. MỞ ĐẦU.
1


Trong xu thế hội nhập và phát triển của thế giới hiện nay, đòi hỏi con
người phải luôn năng động, sáng tạo; có khả năng tìm kiếm, xử lí thông tin và
ứng phó với các tình huống trong đời sống. Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới của
ngành giáo dục hiện nay có khoảng 35% sinh viên ra trường không tìm được
việc làm do thiếu kĩ năng thực hành xã hội, hơn 80% sinh viên ra trường bị các
nhà tuyển dụng đánh giá là thiếu kĩ năng sống, thiếu năng lực hành động, năng
lực thực tiễn…Chính vì thế, việc giáo dục kỹ năng sống hiện nay càng trở nên
cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi các em chính là những chủ nhân tương lai của
đất nước.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển quốc gia, mục tiêu giáo dục phổ
thông ở nước ta hiện nay bên cạnh việc trang bị kiến thức còn trang bị những
năng lực cần thiết cho học sinh, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực
tiễn. Tuy nhiên, để rèn luyện được những kỹ năng đó đòi hỏi phải tiến hành
đồng bộ nhiều hoạt động, từ việc trang bị lí thuyết cho đến thực hành rèn luyện
kỹ năng sống. Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh một cách hiệu quả, việc
phối hợp với phụ huynh là cực kỳ quan trọng, không nên phụ thuộc quá nhiều
vào giáo viên vì giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ trong ngày một, ngày hai
mà là cả một quá trình lâu dài liên tục được kết hợp có hiệu quả bằng nhiều
phương pháp của việc dạy và học trong nhà trường, gia đình và xã hội.
Một trong những môn học có nhiều thuận lợi trong việc giáo dục, rèn luyện
kỹ năng sống cho học sinh đó là môn Lịch sử, bởi nội dung bài học lịch sử chứa

đựng nhiều bài học quý để giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào
dân tộc, ý thức tự chủ, tinh thần chiến đấu…buộc học sinh phải vận dụng rất
nhiều kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích đánh giá, vận dụng và rút ra bài học bổ
ích cho bản thân. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để trao đổi một kinh nghiệm nhỏ
cùng các đồng nghiệp với mong ước giáo dục, hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh nhất là hoc sinh THPT đạt được nhiều kết quả tốt.
Trong quá trình triển khai tôi được sự giúp đỡ tận tình của bộ phận chuyên
môn, của BGH nhà trường nên đề tài đã mang lại một số kết quả đáng kể trong
những năm học vừa qua. Tôi xin trân thành cảm ơn BGH, tập thể các thầy cô bộ
môn và học sinh các lớp khối 10 đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Rất mong sự
giúp đỡ, góp ý để sáng kiến này thành công hơn và đi vào thực tiễn giảng dạy
trong các nhà trường đạt hiệu quả cao nhất.
1.1. Lí do chọn đề tài:
Thực hiện chủ trương của bộ GD và ĐT triển khai giáo dục kỹ năng sống
trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học. Hoạt động giáo dục
giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh vừa mang tính chiến lược,
vừa mang tính cấp bách, là động cơ và cũng là nhiệm vụ của nhà trường, cơ
quan và của cha mẹ học sinh thường xuyên và lâu dài.
Hiện nay, Bộ GD và ĐT đã đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép
trong các môn học ở THPT nhằm đạt mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến
thức, giá trị thái độ và kỹ năng phù hợp, tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh sử
dụng toàn quyền và bổn phận của mình để phát triển toàn diện về thể chất, trí
tuệ, tinh thần, đạo đức. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên,
trong dạy học các môn học nói chung và dạy học lịch sử ở trường THPT nói
2


riêng, việc thiết kế những bài dạy sao cho vừa đảm bảo yêu cầu về nội dung vừa
giúp HS nhận thức được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách
ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống mà vẫn

tạo hứng thú cho học sinh trong một thời lượng có hạn là vấn đề rất cần thiết đối
với người giáo viên Lịch sử.
Đối với việc dạy học Lịch sử ở các cấp học nói chung và ở trường THPT
nói riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng
thời học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi
mới về phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện.Vì vậy, đòi
hỏi người giáo viên phải vận dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến
thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh hoạt ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ
càng cho việc lên lớp của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế
bài dạy - là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết
học, đặc biệt là trong việc vận dụng và phát huy tối đa công năng của các
phương pháp dạy học tích cực trong việc giáo dục KNS cho HS. Chính vì thế, để
nhằm giáo dục KNS cho học sinh, tôi đã áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực để nâng cao chất lượng giờ dạy như dạy học nhóm, dạy học theo dự án và
dạy học thông qua trò chơi nhằm giúp cho HS phát triển và rèn luyện những kĩ
năng cần thiết để hội nhập cuộc sống một cách chủ động hơn.
Từ thực tế dạy học qua nhiều năm và việc rút kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy, cũng là để trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy
Lịch sử về hướng áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để giáo dục KNS
cho HS lớp 10, khối lớp đầu cấp THPT, tôi mạnh dạn trình bày đề tài “Giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh thông qua một số phương pháp dạy học tích cực khi
dạy và học Chương I: Các cuộc cách mạng tư sản, chương trình Lịch sử lớp 10
trung học phổ thông” mà bản thân tôi nhận thấy có hiệu quả trong quá trình thực
hiện. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để sáng kiến
này thành công hơn và đi và thực tiễn giảng dạy trong nhà trường đạt hiệu quả
cao nhất.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu cơ sở lí luận và pháp lí của đề tài. Xây dựng mô hình giáo dục,
rèn luyện kỹ năng sống thông qua một số phương pháp dạy học tích cực, giúp
học sinh có tinh thần, thái độ học tập tự giác, tích cực, sống có lí tưởng và hoài

bão, ứng xử, hành động mang tính nhân văn. Nó giúp cho học sinh có ý thức bảo
vệ và rèn luyện cơ thể, không vi phạm các tệ nạn xã hội. Giúp học sinh có đủ
khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải
quyết công việc. Đồng thời, góp phần đạt hiệu quả cao trong phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực’’. Ngoài ra, còn thực hiện được
các mục tiêu của giáo dục đã được định hướng: Học để biết, học để làm, học để
cùng chung sống và học để làm người.
1.3 Đối tượng nghiên cứu :
Đề tài hướng vào nghiên cứu đặc điểm của các bài dạy trong phần lịch sử
thế giới (từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII), từ đó áp dụng những
phương pháp dạy học tích cực để lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong môn
lịch sử.
3


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Tìm hiểu về khái niệm kỹ năng sống, đặc điểm cơ bản của một số phương
pháp dạy học tích cực qua đó áp dụng vào dạy và học Chương I. Các cuộc cách
mạng tư sản (từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỷ XVIII). Từ đó lôi cuốn học sinh
hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, nắm vững kiến thức bài học
đồng thời các kỹ năng sống cũng được hình thành.
1.5. Những điểm mới của đề tài:
Sự dụng các phương pháp dạy học tích cực: học nhóm, dạy học theo dự án,
dạy học áp dụng phần mềm Kahoot để củng cố bài hoặc kiểm tra đánh giá học
sinh, thông qua đó làm tăng hứng thú học tập và giáo dục kĩ năng sống cho các
em.
2. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lí luận.
Theo WHO (1993) “Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách có
hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng

của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện
qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa
và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong
việc phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã
hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này”.
Như vậy, KNS chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu
cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Việc đưa giáo dục KNS
vào nhà trường cho thấy mục tiêu của giáo dục trong thời kì mới chú trọng tính
hữu dụng, thiết thực của chương trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng đáp
ứng yêu cầu đào tạo con người mới năng động, tích cực, tự tin, hội nhập thành
công trong xã hội.
Mục tiêu và nội dung môn Lịch sử đã chứa đựng những yếu tố của giáo dục
KNS, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dục KNS, bao gồm kĩ năng tư
duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp,... phù hợp với cách tiếp
cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các nội dung của
môn Lịch sử. Nhiều bài học của môn Lịch sử hướng đến việc giúp HS nhận thức
được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, tình cảm gia đình, bạn bè,
tình yêu đối với quê hương đất nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, lòng biết ơn
sâu sắc. Mặt khác, các KNS còn được giáo dục thông qua phương pháp học tập
tích cực, dựa trên sự tương tác giữa nội dung bài học với những hiểu biết, kinh
nghiệm vốn có của bản thân người học và quá trình đối thoại, tương tác người
học với nhau để thực hành, vận dụng linh hoạt vào các tình huống trong cuộc
sống phù hợp với lứa tuổi của các em.
Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên trong khuôn khổ một sáng kiến
kinh nghiệm, tôi xin trình bày một số vận dụng mà bản thân nhận thấy có hiệu
quả tích cực trong giáo dục KNS cho học sinh ở ba phương pháp: dạy học nhóm,
dạy học theo dự án và phương pháp trò chơi với việc áp dụng phần mềm
Kahoot.
* Phương pháp dạy học nhóm:

4


Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo
từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,
một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng
thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình mà
còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong nhóm.
Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp HS rèn luyện các kĩ năng: đảm
nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn, giải
quyết vấn đề,...
* Phương pháp dạy học theo dự án:
Dạy học theo dự án (DHDA) có nguồn gốc từ châu Âu (thế kỉ 16, ở Ý và
Pháp). Đầu thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lí luận cho dạy
học theo dự án (Richard, J.Dewey,.v.v.), và coi đó là phuoqng pháp dạy học
quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, nhằm
khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi GV là trung tâm. Dạy học
theo dự án là phương pháp trong đó cá nhân hay nhóm người học thiết lập một
dự án có nội dung gắn kết với nội dung học tập. Dựa vào tri thức, kinh nghiệm
và kĩ năng vốn có, trên cơ sở phân tích thực tiễn thuộc phạm vi học tập, cùng với
tài liệu, phương tiện, người học đề xuất ý tưởng, thiết kế dự án, soạn thảo và
hoàn chỉnh dự án. Trong dạy học theo dự án, người học tham gia tích cực và tự
lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học, từ việc xác định mục đích, lập kế
hoạch đến việc thực hiện dự án. Vì thế dạy học theo dự án là một phương pháp
dạy học tích cực, hữu hiệu phát huy được năng lực của học sinh, đồng thời rất
ưu việt trong giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Thực hiện dạy học theo dự án, HS làm việc theo nhóm để giải quyết những
vấn đề có thực mang tính thách đố, dựa trên bài học và thường có tính liên môn.
Vì vậy, đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội. Các dự án học
tập góp phần gắn liền nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội và có thể mang

lại những tác động xã hội tích cực. Dạy học theo dự án không chỉ rèn luyện cho
học sinh các kĩ năng sống cần thiết mà còn tạo ra các sản phẩm cụ thể. Các sản
phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà trong đa số
trường hợp, các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động
thực tiễn, thực hành.
* Phương pháp trò chơi áp dụng phần mềm Kahoot:
A.I Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù của
dạy học kết hợp với trò chơi: “Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là
hình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi…Khi các mối quan hệ chơi bị
xóa bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học, đôi
khi biến thành sự luyện tập”. Vì vậy có thể kết luận: học và chơi là hai việc
không loại trừ lẫn nhau. Trò chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầu
hết các chủ đề hoặc đề tài trong nội dung học tập. Bản chất của phương pháp sử
dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động cho học sinh.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách tự chơi
trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật
chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp
học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá. Trò chơi học tập khác với trò chơi khác
5


là ở chỗ, nhiệm vụ nhận thức và luật chơi trong trò chơi đòi hỏi người chơi phải
huy động trí óc làm việc thực sự nhưng chúng lại được thực hiện dưới hình thức
chơi vui vẻ, thú vị (chơi là phương tiện, học là mục đích). Học trong quá trình
chơi là quá trình lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, khơi dậy
hứng thú tự nguyện và giảm thiểu sự căng thẳng cho học sinh. Học tập thông
qua trò chơi sẽ giúp học sinh ghi nhớ tri thức dễ dàng và bền vững hơn. Trò chơi
học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khác nhau mà không có
chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận được một cách trực tiếp
kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích cực, mở rộng, củng cố và

phát triển vốn hiểu biết của người học.
Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến thức, kĩ
năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo
viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên
việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kĩ năng mới
là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới.
Việc tạo ra các trò chơi mà học không chỉ giúp học sinh khắc sâu tri thức, nâng
cao nhận thức mà còn tăng cường các kĩ năng sống cho học sinh như: biết ứng
xử linh hoạt, quan hệ tích cực và hợp tác,...
2.2. Thực trạng vấn đề.
Trước khi tiến hành áp dụng sáng kiến vào trong giảng dạy môn Lịch sử ở
trường THPT, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể, tôi đã
phát câu hỏi cho học sinh ở bốn lớp 10 mà tôi phụ trách giảng dạy, để cho các
em phát biểu những cảm nhận của mình về những tác dụng của bài học trong
việc rèn luyện kĩ năng sống. Kết quả cụ thể như sau:
TT
Nội dung câu hỏi
Kết quả trả lời của HS

Không
1
Theo em, học Lịch sử ở trường phổ
69/159 HS Không thực tế
thông có giúp em nâng cao khả năng
90/159 HS
nhận thức không?
2
Theo em, học Lịch sử có giúp em điều
45/159 HS
Không biết:

chỉnh hành vi không?
114/159 HS
3
Theo em, học Lịch sử có ý nghĩa
159/159 HS
không?
4
Theo em, học Lịch sử có cần thiết
85/159HS
Không:
không?
74/159HS
Qua kết quả khảo sát, tôi nhận thấy có sự mâu thuẫn trong nhận thức của
HS khi các em nhận định Lịch sử là môn học bổ ích, có ý nghĩa nhưng có đến
46,5% HS cho rằng học Lịch sử là không cần thiết. Hoặc có tới có 56,6% học
sinh cho rằng học lịch sử giúp nâng cao nhận thức nhưng không thực tế vì học
lịch sử trong trường phổ thông phần lớn chỉ phản ánh những cái đã qua nên chỉ
giúp các em nhìn nhận lại quá khứ mà không giúp các em hội nhập với cuộc
sống hiện đại. Thậm chí có đến 71,6% HS không biết là học Lịch sử có giúp em
điều chỉnh hành vi của mình hay không và 46,5% HS kết luận không cần học môn
Lịch sử là một tỉ lệ không nhỏ. Từ đó ta dễ dàng nhận ra HS nhận thấy môn Lịch sử
có ý nghĩa nhưng còn mơ hồ về khả năng áp dụng thực tiễn của môn học này.
6


Từ thực trạng trên, để việc dạy học môn Lịch sử nói chung và giảng dạy
môn Lịch sử ở chương trình lớp 10, lớp đầu cấp của khối THPT - HS còn nhiều
bỡ ngỡ, đạt hiệu quả, hấp dẫn, lôi cuốn và tác động tích cực hơn đối với HS
nhằm giáo dục KNS cho các em, tôi đã tìm cách để nâng cao hiệu quả của việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua dạy và học chương I: Các cuộc

cách mạng tư sản ( thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII), Lịch sử lớp 10 THPT
giúp học sinh có những kĩ năng cần thiết để hội nhập cuộc sống một cách chủ
động hơn.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Phương pháp dạy học nhóm:
Phương pháp dạy học nhóm rất đa dạng từ cách chọn chủ đề cần thảo luận
cho đến cách phân chia nhóm, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt tùy theo từng
mục tiêu và đặc trưng của bài học. Trong phuong pháp dạy học nhóm, có rất nhiều
cách phân chia nhóm khác nhau. Nếu hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên
tạo các nhóm nhỏ, tối đa 10 học sinh một nhóm, để HS có điều kiện thảo luận với
nhau. Các nhóm này cũng không nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của giáo
viên. Việc phân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, đồng thời tạo
cơ hội cho các học sinh được học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp.
Ví dụ, giáo viên có thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một
nhóm, với mô hình lớp học phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện
nay thì cách chia này hiệu quả vì học sinh dễ dàng xoay chuyển để thảo luận
cùng nhau; hoặc trong trường hợp vấn đề cần thảo luận không quá khó ta có thể
chia nhóm theo đơn vị một bàn là một nhóm; ngoài ra cũng có thể chia nhóm
theo ngày sinh, theo sở thích, theo đặc điểm,... hoặc cho học sinh bốc thăm tạo
nhóm theo các chủ đề như: trái cây, các loại hoa, cây cối, tên địa danh thắng
cảnh,... Việc lựa chủ đề thảo luận cũng là một nhân tố quyết định đến việc phân
chia nhóm. Nếu vấn đề thảo luận lớn, cần dung lượng thời gian nhiều để tìm
kiếm thông tin, phân tích, tổng hợp thì giáo viên không nên cho thảo luận trên
lớp mà giao cho các em làm việc ở nhà theo hình thức nghiên cứu dự án.
Bởi khi đó việc thảo luận sẽ chỉ là hình thức. Nhưng cũng không phải bất kì
vấn đề nào cũng tạo nhóm thảo luận trước bởi có những vấn đề giáo viên có thể
yêu cầu học sinh tìm hiểu cá nhân trước sau đó khi lên lớp mới tạo nhóm để cho
HS thảo luận, thống nhất ý kiến trên cơ sở nội dung tìm hiểu của các cá nhân.
Bằng hình thức thảo luận nhóm, bài học sẽ bớt khô khan và học sinh cũng dễ
tiếp nhận hơn vì đã thảo luận và tìm hiểu từ trước. Vấn đề của giáo viên là phải

đưa ra những yêu cầu cụ thể để học sinh không thể thảo luận chiếu lệ mà thực sự
phải tìm tòi, động não và tranh luận thì bài học mới được lĩnh hội dễ dàng hơn,
sâu sắc hơn và các kỹ năng sống từ đó cũng được gia tăng. Chẳng hạn khi dạy
bài Cách mạng tư sản Anh, tôi chia lớp thành 4 nhóm vào giao nhiệm vụ cho các
nhóm tìm hiểu bài trước theo hình thức cá nhân cụ thể: nhóm 1, nhóm 2 tìm hiểu
tình hình nước Anh trước cách mạng. Nhóm 3, nhóm 4 tìm hiểu về diễn biến
chính của cuộc cách mạng Anh thế kỷ XVII. Sau khi học sinh đã có sự chuẩn bị
bài trước ở nhà theo nội dung câu hỏi giáo viên yêu cầu thì lên lớp các em thống
nhất ý kiến của nhóm một cách chung nhất. Khi giáo viên giảng đến phần kiến
thức nào thì mời đại diện của một nhóm lên trình bày nội dung đã được thống
7


nhất ý kiến, các nhóm khác nghe và nhận xét, bổ sung. Như vậy học sinh sẽ chủ
động lĩnh hội kiến thức và dễ dàng trả lời những câu hỏi mang tính vận dụng cao
hơn. Ví dụ sau khi học sinh tìm hiểu xong về đặc điểm tình hình nước Anh trước
cách mạng thì giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn
đến cách mạng tư sản Anh bùng nổ là gì? Khi giảng đến phần diễn biến của cuộc
cách mạng, giáo viên mời đại diện của một trong hai nhóm được giao nhiệm vụ
tìm hiểu ở nhà đứng lên trình bày kết quả tìm hiểu của nhóm mình, các nhóm
còn lại lắng nghe và nhận xét, bổ sung. Sau khi tìm hiểu xong những diễn biến
chính, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu trả lời câu hỏi: đỉnh cao của cách
mạng tư sản Anh là giai đoạn nào, vì sao? Vai trò của giai cấp tư sản và quần
chúng nhân dân trong cuộc cách mạng như thế nào? Như thế, việc học sinh được
tìm hiểu nội dung bài trước ở nhà thông qua thảo luận nhóm rồi sẽ giúp các em
tự tin đứng trước lớp trả lời câu hỏi cô yêu cầu. Qua đó, giáo dục được kĩ năng
mạnh dạn thuyết trình trước đám đông, kỹ năng tự xử lý tình huống có vấn đề
khi giáo viên đặt ra, kỹ năng tự chủ động suy nghĩ và lĩnh hội kiến thức. Như thế
tiết học cũng bớt đơn điệu, nhàm chán.
Khi dạy bài 30: Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ.

ở mục 2. Diễn biến chiến tranh và sự thành lập Hợp chúng quốc Mĩ, giáo viên
chia lớp thành 4 nhóm theo hai dãy bàn ngồi, Nhóm1 và nhóm 2 cùng dãy tìm
hiểu những diễn biến chính của chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa
ở Bắc Mĩ, nhóm 3 và nhóm 4 dãy bàn còn lại tìm hiểu nội dung của bản Tuyên
ngôn độc lập. Học sinh các nhóm thảo luận trong vòng 7 phút, giáo viên yêu cầu
các nhóm dừng thảo luận và tập trung nghe kết quả thảo luận của các nhóm để
nhận xét, bổ sung. Cụ thể, giáo viên mời đại diện của nhóm 1 trình bày diễn biến
chính của chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa ở Bắc Mĩ. Các nhóm
còn lại nghe, nhận xét, bổ sung hoàn chỉnh.
Sau khi học sinh liệt kê xong diễn biến chính của chiến tranh, giáo viên hỏi
học sinh: Trong tiến trình của cuộc chiến tranh có sự kiện nào diễn ra mang tính
khích lệ lớn đến tinh thần chiến đấu của quân dân Bắc Mĩ? Học sinh sẽ trả lời đó
là sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập. Vậy Tuyên ngôn có nội dung gì mà nó có
tính khích lệ lớn đối với cuộc chiến tranh ở 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ, giáo viên
mời đại diện nhóm 4 lên trình bày kết quả thảo luận về nội dung của Tuyên
ngôn. Các nhóm khác nghe và nhận xét bổ sung hoàn chỉnh phần trả lời. sau đó
giáo viên hỏi tiếp: Kết quả đầu diên của nhân dân Bắc Mĩ giành được trong tiến
trình chiến tranh giành độc lập đó là gì? (học sinh trả lời đó là 13 băng thuộc địa
Bắc Mĩ tuyên bố thoát li khỏi chính quốc, thành lập một quốc gia độc lập- Hợp
chúng quốc Mĩ).
Kế tiếp giáo viên hỏi: Điểm tiến bộ và hạn chế của Tuyên ngôn độc lập là
gì? Học sinh dựa vào kênh chữ SGK để trả lời. Sau khi tìm hiểu xong diễn biến
của chiến tranh giành độc lập ở 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ, giáo viên hỏi thêm:
Yếu tố nào giúp nghĩa quân Bắc Mĩ chiến thắng quân Anh, Yếu tố nào là quan
trong nhất? Câu hỏi này sẽ có nhiều ý kiến lập luận khác nhau của học sinh, các
em sẽ đưa ra những quan điểm của mình thông qua các lập luận. Điều này, giúp
rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh như kĩ năng độc lập suy nghĩ, đánh giá, kĩ
8



năng trình bày và thể hiện quan điểm của mình trước cô giáo và các bạn học
sinh trong lớp.
Hay khi dạy tiết 1 của bài 31: Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII,
giáo viên cho học sinh tìm hiểu bài theo nhóm trước ở nhà cụ thể: Nhóm 1, 2 tìm
hiểu và hoàn thành sơ đồ ba đẳng cấp. Nhóm 3, 4: Xây dựng hình tượng nhân
vật vua Lui XVI – người đại diện cho chế độ quân chủ chuyên chế điển hình ở
Pháp. Nhóm 5, 6 tìm hiểu về trào lưu triết học ánh sáng, tác dụng của trào lưu
triết học ánh sáng đối với cuộc cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII. Sau khi các
nhóm nhận nhiệm vụ được giao, các em sẽ có sự chuẩn bị trước ở nhà, đến lớp
các em thống nhất lại ý kiến và chuẩn bị tư thế trả lời khi giáo viên gọi. Khi
nhóm thứ nhất lên trình bày thì nhiệm vụ của các nhóm còn lại là phải theo dõi,
đặt câu hỏi cho nhóm được trình bày nếu thấy vấn đề được trình bày chưa rõ và
có thể dùng bài soạn của nhóm mình để trình bày minh họa bổ sung cho những
luận điểm mà nhóm đã được trình bày còn thiếu. Nếu thời gian cho phép, giáo
viên cũng có thể cho các nhóm lần lượt trình bày để học sinh có sự đối chiếu cụ
thể. Tuy nhiên, nếu muốn giờ dạy có hiệu quả hơn thì giáo viên nên theo dõi quá
trình thống nhất ý kiến, hoàn thiện sản phẩm của học sinh để có những gợi ý cho
học sinh điều chỉnh phù hợp. Dĩ nhiên là để phát huy năng lực sáng tạo của học
sinh, giáo viên chỉ gợi ý, khuyến khích, động viên chứ không nên gò ép học sinh
theo ý của mình. Điều quan trọng là sau khi học sinh trình bày, thảo luận bao giờ
giáo viên cũng phải có phần nhận xét, chốt ý và có những câu hỏi gợi mở, dẫn
dắt để giúp học sinh hiểu rõ hơn những nội dung chưa được thể hiện, hoặc thể
hiện chưa sâu.
Như vậy, phương pháp dạy học nhóm không phải là phương pháp hoàn toàn
mới, ngay từ khi Bộ Giáo Dục chủ trương: dạy học tích cực, lấy học sinh làm
trung tâm, phương pháp này đã được sử dụng rộng rãi bởi đây là một phương
pháp ưu việt trong việc thúc đẩy học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức. Tuy nhiên có
nhiều giờ học, giáo viên chỉ sử dụng phương pháp nhóm chiếu lệ, không phát
huy được hết tác dụng của phương pháp này. Nghĩa là giáo viên vẫn tổ chức
hoạt động nhóm nhưng thực sự các thành viên trong nhóm có hợp tác với nhau

không thì giáo viên không kiểm soát. Hoặc có nhiều giáo viên lại quá lạm dụng,
mỗi hoạt động đều tổ chức thảo luận nhóm khiến học sinh rất áp lực, giờ học
cũng trở nên nhàm chán. Điều này dẫn tới việc học sinh đối phó bằng cách đem
sách giải ra chép để trả lời. Hơn nữa với tiêu chí lồng ghép giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh bằng chiến thuật mưa dầm thấm lâu thì giáo viên cần phải lựa
chọn phương pháp hợp lí để phát huy tác dụng của phương pháp và có những
biện pháp để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải hợp tác tham gia và có
cơ hội rèn luyện kỹ năng sống như nhau.
Trong quá trình dạy và học, giáo viên cũng nên hướng các em đến các kĩ
năng xử lí tình huống như là: không trừ điểm nếu học sinh không trả lời được
câu hỏi của học sinh khác nhưng có cách xử lí hay. Chẳng hạn như học sinh biết
cách chất vấn ngược lại, hoặc tìm cách hứa hẹn trả lời sau,...Với những giải
pháp này, học sinh sẽ dạn dĩ hơn, xử lí tình huống nhanh hơn, đồng thời cũng
hạn chế được việc học sinh tìm cách né tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho bạn
trong nhóm. Nhưng cũng có những vấn đề thảo luận ngay trên lớp, trong một
9


thời gian có hạn mà giáo viên lại muốn học sinh thống nhất ý kiến trên cơ sở
mọi thành viên đều có ý kiến riêng thì lúc đó ta có thể áp dụng kĩ thuật khăn trải
bàn trong việc tổ chức thực hiện hoạt động nhóm.
Giáo viên có thể chuẩn bị những tờ giấy khổ lớn và yêu cầu mỗi thành viên
trong nhóm đều phải ghi ý kiến riêng của mình sau khi đã tìm hiểu nội dung câu
hỏi ở nhà vào các ô xung quanh, sau đó thống nhất ý kiến của cả nhóm và ghi vào
giữa. Với cách này mỗi học sinh đều được thể hiện chính kiến của mình, đồng thời
vẫn phải hợp tác, tranh luận để đi đến thống nhất lựa chọn ý kiến chung.
2.3.2. Phương pháp dạy học theo dự án
Phương pháp dạy học theo dự án là một trong những phương pháp ưu việt
trong việc phát huy năng lực tư duy sáng tạo của chủ thể - trò, đồng thời lồng ghép
được kỹ năng sống hợp lí, tự nhiên. Đây là phương pháp dạy học kết hợp có hiệu

quả việc sử dụng máy tính với các chương trình dạy học hiện có, giúp các giáo viên
phát huy khả năng sáng tạo của mình và phát triển trí tưởng tượng, sở trường của
học sinh ra ngoài phạm vi học đường, học tập kết hợp với thực hành. Để thực hiện
phương pháp dạy học này này, trước hết giáo viên phải chuẩn bị một kế hoạch bài
dạy cụ thể, chi tiết. Hồ sơ và các bước thực hiện bao gồm:
- Bước 1:
+ Kế hoạch bài dạy với các mục tiêu học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu về
kiến thức, kĩ năng của chương trình do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quy định.
+ Thu thập tư liệu, thiết kế bài trình bày đa phương tiện của GV.
+ Thiết lập các tiêu chí đánh giá cho bài trình bày đa phương tiện của học sinh.
+ Bài trình bày, bài báo, tờ giới thiệu, hoặc trang web,… của giáo viên hỗ trợ
cho bài dạy.
- Bước 2:
+ Hướng dẫn HS cách thiết kế các bài trình bày đa phương tiện: PowerPoint,
cách sử dụng phần mềm làm phim: Windows Movie Maker hoặc Corel Video
Studio,...
+ Gợi ý cho HS hình thành ý tưởng, chọn vai.
- Bước 3:
+ Theo dõi quá trình thực hiện dự án của HS.
+ Gợi ý cho HS điều chỉnh để có sản phẩm tốt hơn.
- Bước 4:
+ Thực hiện giờ dạy:
+ HS các nhóm trình bày.
+ GV nhận xét, củng cố nội dung bài học theo từng phần, dùng những câu hỏi
gợi mở để HS các nhóm thảo luận đưa ra ý kiến, sử dụng bài trình bày đa
phương tiện để chốt ý.
- Đánh giá, cho điểm. Lưu ý là khi xây dựng dự án, khâu chọn vai rất quan
trọng. Nếu vai trò đảm nhiệm quá khó hoặc nếu vai không phù hợp học sinh
cũng khó mà thực thi được nhiệm vụ của mình.
Chẳng hạn như khi dạy bài Cách mạng cách mạng tư sản Anh, giáo viên giao

nhiệm vụ cho học sinh nghiên cứu làm việc theo dự án.

10


Trước hết, giáo viên chia học sinh làm hai nhóm lớn và giao nhiệm vụ nghiên cứu
cho các nhóm. Cụ thể, nhóm 1: Hoàn thành dự án về tình hình nước Anh trước
cách mạng. Nhóm 2: Hoàn thành dự án về diễn biến cách mạng tư sản Anh.
- Sau khi giao nhiệm vụ cho các nhóm xong, giáo viên định hướng cho học sinh
các nhóm cách lên ý tưởng: làm phóng sự về tình hình nước Anh trước cách
mạng, phóng sự về diễn biến của cách mạng Anh. lên kế hoạch thực hiện dự án,
đồng thời phân công công việc cho từng thành viên: như nghiên cứu thu thập tài
liệu, hình ảnh phục vụ cho dự án, xây dựng vi deo, lập báo cáo thuyết trình,
chuẩn bị câu hỏi …Học sinh tìm tài liệu phục vụ cho dự án của nhóm bằng cách
vào Internet để tìm tài liệu, tranh ảnh, vi deo phục vụ cho dự án của nhóm.
Trong thời gian học sinh thực hiện dự án cần liên tục báo cáo tiến trình thực hiện
sản phẩm xin ý kiến giáo viên để giáo viên nắm bắt và kịp thời góp ý điều chỉnh.
- Đến ngày báo cáo kết quả dự án, các nhóm tự tin thể hiện bài thuyết trình sản
phẩm của mình. Những phản hồi của các nhóm khác, những câu hỏi nhanh có
quà tặng hấp dẫn và cả những câu hỏi hóc búa của người nghe làm cho tiết học
“nóng” lên, khác hẳn với những tiết học truyền thống.
- Trong quá trình dạy học theo dự án, GV nhất thiết phải có một bài trình bày để
hệ thống kiến thức cho HS nếu không PPDH này sẽ phản tác dụng.
- Sau buổi báo cáo dự án, cô trò đã tiến hành chia sẻ, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Những việc làm được và chưa làm được ở các nhóm để có thể làm tốt hơn ở
những dự án tiếp theo. Thông qua việc học theo dự án, cách học môn Lịch sử đã
có sự thay đổi tích cực: các em được chủ động trong việc học tập, được tự mình
tìm hiểu, nghiên cứu sưu tầm tài liệu, được chia sẻ thông tin, được hợp tác cùng
nhau làm việc, được trình bày một vấn đề trước mọi người. Qua đó, rèn luyện
các kỹ năng sống cho học sinh như: tụ giác nghiên cứu học tập, tính đoàn kết

tinh thần hợp tác làm việc nhóm, sự mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình trước
cô giáo và các bạn học sinh, rèn kỹ năng thuyết trình….
Mặc dù thực hiện phương pháp dạy học theo dự án học sinh rất hứng thú
nhưng nếu GV quá lạm dụng hoặc phó thác hoàn toàn cho học sinh thì có thể sẽ
làm cho học sinh không nắm được kiến thức một cách hệ thống. Tóm lại, với
phương pháp dạy học theo dự án giáo viên sẽ chỉ là người hướng dẫn, định hướng
việc tìm hiểu cũng như chiếm lĩnh nội dung kiến thức trong bài học của học sinh.
Học sinh chính là người thiết kế dự án, lên kế hoạch, thiết lập ý tưởng, tìm hiểu,
phân tích và thể hiện nội dung bài học trong sự tương tác lẫn nhau. Với phương
pháp này bài học luôn luôn mới, đặc biệt trong thời đại hiện nay, chỉ với một chiếc
máy tính ta đã có “cả thế giới trong tầm tay” thì học sinh hoàn toàn có khả năng thể
hiện những bài học đa dạng. Ngoài ra, với phuong pháp dạy học theo dự án này học
sinh còn có thể tạo ra các ấn phẩm bên cạnh những bài trình chiếu.
2.3.3. Phương pháp tổ chức trò chơi.
Phương pháp trò chơi thường được tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng
thú cho học sinh đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã
học qua, hoặc sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng giáo viên
cũng có thể thực hiện phương pháp trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết các
hoạt động của bài học; tạo sự sôi nổi, tránh nhàm chán của tiết học. Việc tổ chức
hình thức chơi rất đa dạng dưới hình thức trả lời các câu hỏi trắc nghiệm. Giáo
11


viên có thể thực hiện trò chơi bằng việc trình chiếu các câu hỏi trên PowerPoint
theo cách truyền thống. Tuy nhiên, để đảm bảo yêu cầu vừa là trò chơi, vừa thông
qua trò chơi để đánh giá khả năng tiếp thu bài ngay tại lớp hoặc kiểm tra bài cũ…
một cách chính xác của tất cả các học sinh trong lớp, tôi đã áp dụng phần mềm
Kahoot vào việc tổ chức trò chơi. Yêu cầu của việc vận dụng phần mềm Kahoot là
mỗi học sinh và giáo viên đều phải có điện thoại hoặc thiết bị có kết nối internet.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, việc mỗi học sinh đều có điện thoại và được kết

nối mạng wf hoặc 3G không phải là điều khó khăn. Thêm vào đó trong các nhà
trường, ở các phòng ban hiện nay như điều kiện của một trường nông thôn như
trường tôi đang giảng dạy đều có mạng wf. Vì vậy nếu áp dụng phần mềm Kahoot
trong kiểm tra ðộ nhận thức của học sinh thì rất dễ thành công.
Cách dạy học trên phần mềm kahoot như sau:
Ví dụ: Khi dạy bài bài Cách mạng tư sản Anh, để củng cố bài đồng thời
kiểm tra kiến thức của học sinh sau khi học xong bài, giáo viên dùng phần mềm
Kahoot để tổ chức trò chơi.
- Bước 1: giáo viên cần đăng ký tài khoản Kahoot tại địa chỉ GetKahoot. com.
- Bước 2: giáo viên tạo bộ câu hỏi trắc nghiệm riêng từ kiến thức liên quan đến
bài học. Khi tạo bộ câu hỏi, giáo viên có thể làm sinh động câu hỏi bằng các
hình ảnh minh họa, sơ đồ,…Mỗi hình ảnh có thể được tải từ máy tính hoặc từ
Internet để đặt câu hỏi trong Kahoot.
Cụ thể: Giáo viên có thể tạo bộ câu hỏi sau khi học bài Cách mạng tư sản
Anh như sau:
- Trước tiên, Giáo viên ấn vào hộp K!Quiz để tạo câu hỏi 1 ( K!Question 1) ghi
nội dung câu hỏi.
- Sau đó, ghi 4 đáp án và chọn hình ảnh minh họa cho câu hỏi nếu có.
- Tích V ở đáp án đúng rồi ấn lưu.
- Tiếp theo bấn Next và bấm Question để đặt câu hỏi tiếp theo.
Ví dụ:
Câu 1: Trong xã hội nước Anh trước cách mạng đã tồn tại những mâu
thuẫn cơ bản nào?
A. Giữa tư sản, quý tộc mới, nông dân với chế độ phong kiến.
B. Giữa nông dân với quý tộc, giữa tư sản, quý tộc mới với chế độ quân chủ.
C. Giữa nông dân với quý tộc, địa chủ và giữa vô sản với tư sản và quý tộc mới.
D. Giữa nông dân, nô lệ với chủ đồn điền và giữa quý tộc mới với tư sản.
Câu trả lời : B
(Ảnh minh họa: Hình 1 trang 20, Hình 2 trang 21)
Câu 2: Tháng 4/1640, vua Sáclơ I đã buộc phải triệu tập Quốc hội để

A. thông qua việc tăng thuế để có tiền chi cho việc đàn áp các cuộc nổi dậy.
B. thông qua những chính sách cải cách về chính trị, quân sự.
C. thông qua những chính sách cải cách về kinh tế, chính trị.
D. Phê chuẩn nội các mới và giảm một số khoản thuế cho tư sản.
Câu trả lời: A.
( Ảnh minh họa: Hình 3 trang 22)
Câu 3: Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến bùng nổ cuộc cách mạng ở Anh là
A. những mâu thuẫn trong xã hội Anh không thể điều hòa được nữa.
12


B. Quốc hội không phê duyệt các khoản thuế mới do vua đặt ra.
C. quân đội đứng về phía Quốc hội chống lại nhà vua.
D. nhân dân đứng về phía Quốc hội phản đối nhà vua quyết liệt.
Câu trả lời: B.
( Ảnh minh họa: Hình 4trang 23)
Câu 4: Từ thế kỷ XVII, tình hình kinh tế Anh có điểm gì nổi bật?
- Sau đó ghi 4 đáp án và chọn hình ảnh minh họa cho câu hỏi nếu có:
A. Nền kinh tế phát triển nhất Châu Âu.
B. Công nghiệp tương đối phát triển, nông nghiệp lạc hậu.
C. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thâm nhập vào nông nghiệp.
D. Bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp.
Đáp án trả lời: A
Câu 5: Sau khi Anh trở thành nước cộng hòa, quyền hành trong nước thuộc
về
A. công nhân và binh lính.
B. quý tộc và tư sản.
C. Quý tộc mới và tư sản.
D. Tư sản và binh lính.
Câu trả lời: C.

( Ảnh minh họa: Hình 5 trang 24)
Câu 6: Ý không phản ánh đúng những biện pháp mà chính quyền phong
kiến Anh đã thực hiện nhằm cản trở sự phát triển kinh doanh của tư sản và
quý tộc mới là
A. đặt ra nhiều thứ thuế mới.
B. duy trì nhiều đặc quyền phong kiến.
C. cấm kinh doanh một số ngành công nghiệp.
D. nhà nước độc quyền thương mại, tàu thuyền.
Câu trả lời: C.
( Ảnh minh họa: Hình 6 trang 25)
Câu 7: Từ thế kỷ XVII, nền nông nghiệp Anh có điểm gì nổi bật?
A. Nông nghiệp lạc hậu, manh mún.
B. Nông nghiệp kém phát triển, bị nông phẩm của Pháp cạnh tranh.
C. Phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa thâm nhập vào nông nghiệp.
D. Bắt đầu cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp.
Câu trả lời: C.
Câu 8: Tầng lớp quý tộc mới ở Anh là
A. tầng lớp có nguồn gốc quý tộc phong kiến, cấu kết với tăng lữ bóc lột nhân
dân.
B. tầng lớp có quyền lợi chính trị gắn với quý tộc phong kiến, nhưng lại có
quyền lợi kinh tế gắn liện với giai cấp tư sản.
C. tầng lớp có quan hệ gần gũi với nhân dân.
D. tầng lớp đã thực hiện nhiều chính sách tiến bộ đối với nhân dân.
Câu trả lời: B.
Câu 9: Năm 1649, cách mạng tư sản Anh đạt đến đỉnh cao vì
A. Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình là lật đổ giai cấp tư sản.
B. Vua Sác lơ I bị xử tử, chế độ cộng hòa được thiết lập.
C. Ngay sau khi cuộc nội chiến kết thúc, chế độ độc tài quân sự được thiết lập.
13



D. Cách mạng đã thiết lập được chế độ quân chủ lập hiến ở nước Anh.
Câu trả lời : B.
Câu 10: Vì sao chế độ quân chủ lập hiến ở Anh được thiết lập?
A. Đây là một thể chế chính trị phù hợp nhất cho sự phát triển của nước Anh.
B. Xét về bản chất, quý tộc mới vẫn có quan hệ với chế độ phong kiến.
C. Là sự thỏa hiệp của quý tộc mới, tư sản Anh với lực lượng phong kiến cũ để
duy trì quyền lực.
D. Quần chúng bất mãn với chế độ cộng hòa vì đã không đem lại quyền lợi cho họ.
Câu trả lời: C
- Sau khi tạo xong bộ câu hỏi, giáo viên bấm Save để lưu.
- Lúc đó màn hình sẽ hiện lên bảng tiếp theo thì bấm I’Done.
( Ảnh minh họa: Hình 7 trang 25)
- Bước 3: giáo viên kích hoạt, chọn bộ trắc nghiệm trong danh sách đã tạo, sau
đó nhấn nút PLAY. ( Ảnh minh họa: Hình 8 trang 26).
- Bước 4: Chọn kiểm tra cá nhân hoặc kiểm tra nhóm.
( Ảnh minh họa: Hình 9 trang 27)
- Bước 5 : Bấm Clasic ( Ảnh minh họa: Hình 10 trang 28).
- Bước 6: Giáo viên copy mã pin và mở một cửa sổ mới với trang Kahootit và
dán mã pin vào, sau đó ấn Enter( Ảnh minh họa: Hình 11 trang 29, hình 12
trang 30, Hình 13 trang 31, hình 14 trang 3 ).
=> Chú ý, các bước này của từ đăng nhập đến tạo bộ câu hỏi, lấy số hiệu (gamepin) đều được giáo viên chuẩn bị sẵn ở nhà.
* Các bước thực hiện trên lớp đối với Kahhoot:
- Bước 5: Khi đến lớp áp dụng dạy phần mềm Kahoot, giáo viên chỉ thông báo
số hiệu (game-pin) cho học sinh. Và hướng dẫn học sinh truy cập vào website
Kahoot.it. Giáo viên chỉ cần hướng dẫn một lần trong tiết dạy đầu tiên, các tiết
dạy áp dụng phần mềm Kahoot sau học sinh sẽ tự truy cập được. Học sinh sẽ
truy cập vào website Kahoot.it bằng bất kỳ thiết bị nào có kết nối internet, và
nhập vào số hiệu (game-pin) nick-name của mình mà không cần đăng ký tài
khoản.

- Bước 6: Học sinh truy cập vào website Kahoot.it và nhập số hiệu, nivk-name
của mình xong, các em bắt đầu sẵn sàng chờ hiệu lệnh của giáo viên để tham gia
trò chơi.
- Bước 7: Bước vào phần thi của học sinh trên Kahoot, giáo viên sẽ nhấn nút
START để kích hoạt các câu hỏi và học sinh sẽ sử dụng thiết bị của mình để trả
lời mỗi câu hỏi sao cho có càng nhiều điểm càng tốt.
( Ảnh minh họa: Hình 13trang 30 , hình 14 trang 31, hình 15 trang 33).
Ưu điểm của phương pháp dạy học này là sau mỗi câu hỏi, giáo viên và học
sinh sẽ xem ngay được kết quả trả lời của từng học sinh, xem có bao nhiêu học
sinh trả lời đúng, số điểm của học sinh sau mỗi câu trả lời. Kết quả trả lời câu
hỏi của học sinh sẽ được phần mềm thống kê theo bảng danh sách điểm từ cao
đến thấp. Ai trả lời đúng và nhanh sẽ được hệ thống phần mềm cộng điểm với số
điểm cao hơn. Để củng cố thêm kiến thức của học sinh, sau khi học sinh trả lời
xong mỗi câu hỏi, giáo viên có thể hỏi học sinh tại sao lại chọn đáp án đó. Giáo
viên có thể tăng độ khó của trò chơi sau 30 giây để tăng sự tập trung cao độ của
14


học sinh vào phần thi của mình. Kết quả kiểm tra như vậy sẽ giúp giáo viên
đánh giá nhanh và chính xác mức độ nhận thức và nắm kiến thức của từng học
sinh sau bài học.
Tóm lại, sử dụng phần mềm Kahoot trong dạy học môn lịch sử sẽ mang lại
không khí chơi mà học giúp tiết học trở nên vui và thú vị hơn. Khi tham gia trò
chơi, học sinh phải tập trung cao độ vào suy nghĩ câu trả lời với một thời gian
nhanh nhất để đạt được kết quả cao nhất và trở thành người chiến thắng trong trò
chơi. Vì vậy, đây là một trong những phương pháp rất hiệu quả trong việc tạo
hứng thú cho học sinh trong giờ học môn Lịch sử và qua đó rèn luyện kĩ năng
sống một cách hữu hiệu nhất cho học sinh như: độc lập suy nghĩ, tính quyết
đoán, bình tĩnh, nhanh mắt, nhanh tay…và quyết tâm để chiến thắng.
2.4. HIỆU QUẢ

Qua thực tiễn dạy học của bản thân những năm gần đây và từ thực tế dạy
học các lớp 10 ban Cơ bản tại trường THPT Hà Trung, tôi nhận thấy các phương
pháp này có những ưu điểm sau đây:
- Kiến thức đúng trọng tâm, tích hợp liên môn, lồng ghép nội dung giáo dục
KNS nhẹ nhàng nhưng hiệu quả.
- Phát huy được khả năng nhiều mặt của học sinh, kích thích động cơ, hứng thú
học tập của người học, phát huy tính độc lập, khả năng sáng tạo. Người học tự
định hướng hoạt động học tập, tự khám phá, tích hợp, trình bày, tự chủ động tổ
chức hoạt động học tập, dám chịu trách nhiệm.
- Rèn luyện cho học sinh năng lực làm việc theo nhóm, vận dụng kiến thức lí
thuyết, năng lực thiết kế, khả năng tổ chức, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực
giải quyết những vấn đề phức hợp, năng lực đánh giá, kĩ năng ứng dụng CNTT,
… Đồng thời còn rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn,… cho các em.
- Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
- Phát huy vai trò tích cực của học sinh trong việc tự khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức của bài học. Tạo hứng thú, kích thích khả năng tư duy của học sinh trong
mỗi giờ học. Đặc biệt là sau một năm học áp dụng các phương pháp dạy học này
bên cạnh các phương pháp truyền thống thì 100% học sinh đều đồng ý là môn
Lịch sử rất cần thiết và hữu ích với các em trong cuộc sống sau này. Đồng thời
có rất nhiều em học sinh yêu thích muốn khám phá nhiều hơn đối với môn học
Lịch sử.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Ba phương pháp dạy học trên chỉ là một trong những kiểu dạy học lấy hoạt
động học của người học làm trung tâm. Mỗi phương pháp dạy học đều có những
điểm khả thi và những hạn chế riêng, vì vậy khi vận dụng phương pháp dạy học
đòi hỏi người dạy phải hết sức linh hoạt lựa chọn sao cho phù hợp với đặc trưng
bài học, năng lực học sinh, điều kiện áp dụng của từng thời điểm,...Trong quá
trình vận dụng, tôi nhận thấy cả ba phương pháp đều đòi hỏi giáo viên phải dành
thời gian, công sức nhiều trong khâu chuẩn bị, lên kế hoạch giảng dạy. Kế hoạch

giảng dạy càng chi tiết thì xác xuất thành công càng cao. Đặc biệt là với phương
pháp dạy học theo dự án, giáo viên phải chấp nhận tốn nhiều thời gian đầu tư
hơn là giờ học thông thường bởi ngoài khâu soạn giảng, giáo viên còn phải
15


chuẩn bị, chỉ dẫn, điều chỉnh cho việc chuẩn bị của học sinh. Ngoài ra để thực
hiện được những tiết dạy như thế này đòi hỏi giáo viên phải có một quá trình tập
luyện từng bước cho học sinh, bởi nếu áp dụng tức thời học sinh sẽ khó hoàn
thành nhiệm vụ, hoặc có thể tạo ra những sản phẩm không tốt bởi chưa quen.
Hơn nữa để triển khai thuận lợi các phương pháp dạy học này đòi hỏi sự đồng
thuận cao của tổ bộ môn, sự ủng hộ của lãnh đạo trong nhà trường. đặc biệt là
việc ứng dụng phần mềm Kahoot trong dạy học, để kiểm tra, đánh giá học sinh,
phát huy vai trò tích cực của chủ thể trò trong giờ học.
3.2. Kiến nghị:
Các phương pháp dạy học ở trên cũng không phải không có những vướng
mắc thuộc về qui chế như phân phối chương trình, thời gian hạn hẹp, áp lực thi
cử, điều kiện học sinh khó khăn,...Vì vậy, nếu được kiến nghị người viết mong
các cấp lãnh đạo cao hơn như Sở Giáo Dục và Đào Tạo, Bộ Giáo dục Đào tạo
thay đổi quy chế, cho phép giáo viên được lựa chọn một số bài nằm trong khung
để dạy mà không phải dạy hết tất cả các bài cũng như các mục trong một bài dạy
để có nhiều thời gian đầu tư hơn, hiệu quả bài dạy cao hơn; ngoài ra nếu được
đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất để học sinh được học với các trang thiết bị hiện
đại chắc chắn hiệu quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều.
Trên đây, chỉ là một vài kinh nghiệm mang tính chất cá nhân mà bản thân tôi
trong quá trình áp dụng thấy có hiệu quả phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện
nay, nhưng cũng có thể không phù hợp với quan điểm dạy học của từng người.
Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và trao đổi chân
thành của các đồng nghiệp về việc áp dụng các phương pháp dạy học khác nhau
trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để tôi có một sự kết hợp phương pháp

tối ưu hơn, hiệu quả hơn trong quá trình giảng dạy.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Hà Trung, ngày 4 tháng 5 năm 2018
Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Đỗ Thị Thu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
16


1. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng môn Lịch sử THPT của Nhà
xuất bản giáo dục.
2. Sách giáo khoa Lịch sử 10 của Nhà xuất bản giáo dục
3. Sách giáo viên lịch sử 10 của Nhà xuất bản giáo dục.
4. Phương pháp dạy học tích cực ở trường THPT của Đại học sư phạm.
5. Sách Kỹ năng sống của Nhà sách Phương Nam- nhà xuất bản Đại học sư
phạm.
6. Sách hướng dẫn giảng dạy theo phương pháp dạy học tích cực của Bộ giáo
dục và Đào tạo.

PHỤ LỤC:
17


( Hình 1)


18


(Hình 2)

19


( Hình 3)

20


( HÌNH 4)

21


( Hình 5)

22


( Hình 6)

( Hình 7)

23



( Hình 8)

24


( Hình 9)

25


×