Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN giáo dục truyền thống hiếu học cho học sinh trường THPT hoằng hóa 4 qua việc ôn lại truyền thống hiếu học xưa ở hoằng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.2 KB, 15 trang )

1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá là vùng đất Việt cổ có lịch sử từ lâu đời.
Đồng hành cùng dân tộc trong suốt mấy nghìn năm dựng nước, trải qua quá trình
cải biến thiên nhiên, phòng chống thiên tai, địch hoạ, giao lưu, tiếp biến văn hoá,
nhân dân Hoằng Hoá đã xác lập nên những giá trị văn hóa riêng có của mình. Một
trong những giá trị đặc sắc đó là tinh thần hiếu học, một truyền thống lưu chuyển
cùng với những thăng trầm của lịch sử dân tộc và đã được lắng lưu ở nơi đây như
một hằng số văn hóa.
Hiện nay trong các nhà trường trên địa bàn huyện Hoằng Hóa nói chung và
trường THPT Hoằng Hóa 4 nói riêng, việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa
của huyện nhà ít được chú trọng. Một mặt, do hạn chế về thời lượng chương trình,
mặt khác do giáo viên chưa được trang bị kiến thức lịch sử văn hóa địa phương một
cách có hệ thống. Vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng tình cảm, lòng tự hào
về quê hương xóm làng.
Xuất phát từ thực tế đó, nhận thức được sự lớn mạnh của lịch sử địa phương
trong hình thành nhân cách học sinh. Bởi vì bản thân những tư liệu lịch sử, văn hóa
địa phương nó gần gũi về vị trí địa lý, gần gũi với tập tục địa phương, gần gũi với
sinh hoạt hằng ngày ở làng xóm mà bản thân các em “Đụng chạm” hàng ngày. Bản
thân tôi đã tiến hành sưu tầm, biên soạn những đơn vị kiến thức lịch sử địa phương
huyện Hoằng Hóa, thông qua đó giáo dục các em truyền thống lịch sử, văn hóa
Hoằng Hóa, bồi dưỡng các em lòng tự hào quê hương.
Qua 2 năm áp dụng và khảo nghiệm ở trường THPT Hoằng Hóa 4, bước đầu
tôi đã đúc rút được những kinh nghiệm cho bản thân. Vì vậy, trong khuôn khổ sáng
kiến kinh nghiệm, tôi mạnh dạn chọn Đề tài: “Giáo dục truyền thống hiếu học
cho học sinh trường THPT Hoằng Hóa 4 thông qua việc ôn lại truyền thống
hiếu học xưa ở Hoằng Hóa và học tập ngoại khóa tại di tích Đình Bảng thuộc
xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa”, với mong muốn được phổ
biến kinh nghiệm, kiến thức lịch sử địa phương và có điều kiện trao đổi sâu hơn về
vấn đề mà sáng kiến đề cập. Đồng thời giáo dục cho học sinh niềm tự hào về nền
giáo dục huyện nhà xưa và nay, từ đó các em có ý thức phát huy tốt hơn nữa về


truyền thống quê hương.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài góp phần hình thành cho các em học sinh trường THPT Hoằng Hóa 4
niềm tự hào về truyền thống lịch sử, truyền thống giáo dục của huyện nhà, qua đó
nhằm giáo dục cho các em cần phải tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của cha
ông để lại, giáo dục các em sống phải có trách nhiệm với bản thân với gia đình và
quê hương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư liệu về lịch sử hình thành và phát triển
làng Đình Bảng, về truyền thống giáo dục huyện Hoằng Hóa xưa.
1


Học sinh khối lớp 10 trường THPT Hoằng Hóa 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã tiến hành các phương pháp
nghiên cứu sau:
Để có nguồn tư liệu thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành đọc, sưu tầm tư liệu từ
các nguồn lịch sử Đảng bộ huyện Hoằng Hóa, Lịch sử Đảng Bộ xã Hoằng Lộc.
Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, nguồn tư liệu Internet. Trên cơ sở đó, phân loại,
lựa chọn những đơn vị kiến thức tiêu biểu, điển hình, có giá trị cao trong giáo dục
truyền thống tốt đẹp của quê hương đến học sinh.
Thực hiện đề tài, tôi sử dụng các phương pháp: Cho các em học tập thực tế
phương pháp điền địa phương có những di tích, nhân vật… liên quan đề tài; Tiến
hành điều tra, phỏng vấn đồng nghiệp và học sinh. Phương pháp thống kê định
lượng, phân tích kết quả phỏng vấn, kết quả thực nghiệm để rút ra kết luận của đề
tài.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc thì lịch sử địa

phương là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Trong lúc gia nhập vào cái
chung của lịch sử dân tộc thì lịch sử địa phương còn giữ cho mình một sắc thái
riêng, mà các địa phương khác không có. Do đó, muốn hiểu cái chung, chúng ta
cần phải biết cái riêng, cái cụ thể của từng địa phương, đồng thời từ cái riêng mà
hiểu cái tổng thể, cái chung.
Việc tìm hiểu lịch sử địa phương góp phần hiểu sâu hơn, rõ hơn lịch sử dân
tộc, đồng thời giáo dục tư tưởng, tình cảm truyền thống của mỗi địa phương. Mặt
khác, lịch sử địa phương là cung cấp cho học sinh những hiểu biết về những gì xảy
ra trên mảnh đất địa phương quê hương mình, tạo cho các em cảm xúc mạnh mẽ.
Bởi vì, ở đó có nhiều dấu tích, tên đất, tên người, những câu chuyện được lưu
truyền, thậm chí có cả những nhân chứng. Cho nên việc tận dụng triệt để các đơn vị
kiến thức lịch sử, văn hóa địa phương lồng ghép vào các tiết giảng dạy lịch sử
chính khóa là hết sức cần thiết. Góp phần giáo dục truyền thống, tự hào quê hương,
ngoài ra còn giúp cho bài giảng của giáo viên sinh động, mềm mại. Điều này đã
được cố thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ dẫn: “Giáo dục phổ thông phải gắn liền với
lịch sử thiên nhiên, xã hội, con người ở địa phương, làm cho việc học tập ở nhà
trường thấm đượm hơn cuộc đời thực, học sinh ngay từ khi đi học đã học, đã sống
với xã hội thực xung quanh”.
Vì vậy, ngoài kiến thức lịch sử dân tộc, giáo viên lịch sử phải có vốn kiến thức
lịch sử địa phương, kể cả quá trình hình thành mảnh đất, dân cư, văn học dân gian,
nhân vật, địa danh lịch sử.
Do phân phối chương trình lịch sử địa phương trong thời lượng giảng dạy lịch
sử lớp 10 là 1 tiết nên rất hạn hẹp. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy giáo viên cần

2


phải tích hợp, vận dụng, lồng ghép vào các tiết dạy lịch sử chính khóa hoặc vận
dụng vào tiết học ngoại khóa.
2.2. Thực trạng giáo dục truyền thống hiếu học cho học sinh trường

THPT Hoằng Hóa 4:
Hiện nay, chưa có một đồng nghiệp môn lịch sử ở huyện Hoằng Hóa đề cập
đến nội dung này trong các sáng kiến kinh nghiệm đã được công bố. Điều đó chứng
tỏ, việc giáo dục truyền thống hiếu học của huyện Hoằng Hóa chưa được chú trọng
nhiều trong giảng dạy, hoặc giảng dạy một cách có hệ thống.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát đối với giáo viên và học sinh:
- Đối với giáo viên: Câu hỏi phỏng vấn “Giáo dục truyền thống hiếu học
cho học sinh trường THPT Hoằng Hóa 4 thông qua dạy học lịch sử được thầy
(cô) thực hiện như thế nào ?”
Kết quả: 70% giáo viên trả lời không; 30% trả lời thỉnh thoảng.
- Đối với học sinh: Tôi sử dụng hệ thống câu hỏi hiểu biết về một số địa danh
như: Nhà thờ Nguyễn Quỳnh, di tích Đình Bảng; Nhân vật như: Lương Đắc Bằng,
Bùi Khắc Nhất, Nguyễn Sư Lộ… Kết quả hiểu biết của các em rất hạn chế, thậm
chí không biết, hoặc trả lời sai về chính những địa danh, những sự kiện, văn hóa
của quê hương mình.
Từ thực tiễn đó, tôi nhận thấy cần phải xây dựng hệ thống các đơn vị kiến
thức lịch sử địa phương để tích hợp, lồng ghép vào các tiết dạy học lịch sử để giáo
dục các em về lịch sử truyền thống, văn hóa của địa phương.
2.3. Các giải pháp thực hiện giáo dục truyền thống hiếu học cho học sinh
trường THPT Hoằng Hóa 4 qua việc ôn lại truyền thống hiếu học xưa ở Hoằng
Hóa và thông qua dạy học thực tế tại di tích Đình Bảng Hoằng Lộc:
2.3.1. Một số nguyên tắc khi thực hiện giáo dục truyền thống hiếu học:
Đảm bảo tính lịch sử: Tư liệu phải đảm bảo tính lịch sử, gần gũi về thời gian,
lôgic với những sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử có thật ở địa phương.
Đảm bảo không ảnh hưởng đến thời lượng phân phối chương trình: Việc lựa
chọn các đơn vị lịch sử địa phương để giáo dục phải tinh gọn, không dài trải, ôm
đồm làm ảnh hưởng đến tiến độ chương trình và kế hoạch giảng dạy theo quy định.
Muốn vậy, giáo viên phải gọt rũa đơn vị kiến thức lịch sử địa phương thật sự tiêu
biểu, phù hợp với nội dung, ý tưởng giáo dục học sinh.
Trong quá trình giáo dục có thể sử dụng các hình ảnh, đoạn phim, giao nhiệm

vụ cho học sinh sưu tầm, viết bài thuyết trình, giới thiệu… trò chơi phù hợp nhằm
làm sinh động tiết học, tránh nhàm chán.
Giáo viên có thể sử dụng lồng nghép tư liệu địa phương trực tiếp vào những
đơn vị kiến thức của bài dạy, ở phần mở đầu giúp cho tiết học hứng khởi, hoặc ở
phần củng cố bài học để liên hệ…
2.3.2. Các giải pháp thực hiện:
2.3.2.1. Giáo viên lược lại truyền hiếu học nói chung xưa ở Hoằng Hóa:

3


Từ xưa, kẻ sỹ Hoằng Hoá đã được ca ngợi: “Thí Hoằng Hoá, khoá Đông
Sơn”; “Cơm Nông Cống, cá Quảng Xương, văn chương Hoằng Hoá”, “mẹo mực
Quảng Xương, văn chương Hoằng Hoá”... Người Hoằng Hoá, trong đời sống
hàng ngày của mình luôn phải đấu tranh gian khổ để sinh tồn, và chính điều này
đã tạo nên ở họ tính cách chịu đựng khó khăn, đặc biệt là ý thức vươn lên làm chủ
số phận, ứng xử chủ động với thiên nhiên. Nó cũng cho thấy rằng, để “Đổi đời”,
thoát khỏi cảnh vất vả của cuộc sống họ chỉ có con đường duy nhất là học tập. Đó
là một trong những lý do khiến bao thế hệ học trò, sĩ tử Hoằng Hoá đã vượt lên
mọi gian khổ thử thách để tôi luyện cốt cách, trí tuệ, dùi mài kinh sử, thăng tiến
bằng con đường học vấn, quan trường. Ở mảnh đất này, sự học không hoàn toàn
mang ý nghĩa là một nỗ lực của cá nhân người đi học mà là một kỳ vọng, một nỗ
lực xã hội. Do đó một người đỗ đạt thường làm rạng danh cho cả gia đình, dòng
tộc, xóm làng...
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, giai đoạn nào cũng thấy xuất hiện những
nhân tài trên đất Hoằng Hoá. Suốt chế độ thi cử thời Trung đại, chỉ tính từ thời
Trần trở đi, huyện Hoằng Hoá có 48 người đỗ đại khoa (Có 36 người được ghi tên
trong bia tiến sỹ tại Văn miếu Quốc Tử Giám ở Thăng Long); Tính từ thời Hậu Lê
(Năm 1700 trở đi) có 154 người đỗ Trung khoa (Cử nhân). Hoằng Hoá là nơi sản
sinh ra nhiều người nổi tiếng, có đức, có tài, lập được nhiều công tích cho dân cho

nước, được dòng họ, xã hội và quốc gia tôn vinh như: Đông các Đại học sỹ Lưu
Diễm, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, Tiến sỹ xuất thân Nguyễn Nhân Thiệm,
Hoàng giáp Lưu Đình Chất, Cử nhân Nguyễn Viên, Đệ nhị giáp Tiến sỹ Nguyễn
Bá Nhạ, Hương cống Nhữ Bá Sỹ, Phó bảng Nguyễn Đôn Tiết... Đó là chưa kể còn
bao người khác học lực uyên thâm, tư duy sáng láng nhưng không đi thi, hoặc thi
không đỗ, bởi họ đã vượt ra ngoài phép tắc thi cử (Do thời thế) nhưng được nhân
dân mến phục, ngợi ca (Lê Bặt Triệu, Cả Bích, Trạng Quỳnh, Xiển Bột...). Sự
hiện diện dày đặc các danh nhân tên tuổi, những trí thức tài năng... mãi mãi là
niềm tự hào to lớn, là những bông hoa tiêu biểu của mảnh đất “Địa linh nhân kiệt”
có bề dày truyền thống văn hoá, khoa bảng rất đỗi tự hào này.
- Truyền thống hiếu học, cần học, khổ học:
Sỹ tử Hoằng Hoá, trừ một số rất ít con nhà giàu, nhà quan có điều kiện được
chăm lo ăn học chu đáo, còn lại nhiều người phải ăn ngô, ăn khoai, đi ở, đi mót, đi
làm thuê... để theo đuổi việc học tập. Phần lớn trong số những nhân tài đỗ đạt
thành danh của quê hương đều xuất thân từ những gia đình lao động bình dân,
nghèo khó. Như làng Chuế Thôn xã Hoằng Yến có Trương Đức Quang, thông
minh, nhà nghèo, mồ côi cha mẹ từ trẻ, ông phải đi đó đây để kiếm kế sinh nhai,
làm thuê cho một nhà ở ngoài Bắc. Nhà chủ thấy ông hay chữ, nuôi cho ăn học,
càng học càng tấn tới. Khoa thi năm Nhâm Tuất (1502) ông đỗ Đệ nhị giáp, tiến
sỹ xuất thân (Hoàng Giáp); Lê Quý Vĩ ở làng Đằng Cao (Hoằng Đạo) ăn khoai, đi
học với một thầy ở Bút Sơn, vừa đi học vừa làm đầy tớ cho thầy. Mượn sách của
bạn, xin giấy đã viết lộn lại đóng thành vở để học. Thầy thương tình, dốc lòng dạy
4


bảo. Khoa thi hương Mậu Dần (1878) ông đỗ cử nhân. Đỗ về, ông chỉ mua được
cỗ xôi con gà khao làng.
Ngay cả Lương Hữu Khánh, con trai Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, khi mẹ sinh
ra thì cha đã qua đời. Cha làm quan thanh bạch nên năm 15 tuổi, gia đình đã sa sút,
ông phải từ biệt mẹ đi kiếm kế sinh nhai, làm thuê đủ nghề: Phát cỏ, nhổ mạ, gánh

thuê... vừa làm vừa theo học thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau về Thanh Hoá phò Lê
Diệt Mạc, làm quan đến Binh Bộ Thượng Thư.
Để chăm lo việc học, nhiều làng xã, dòng họ trong huyện còn có khoán ước,
hương lệ cổ vũ việc học của con em. Hương ước của làng Nhân Vực (Hoằng Hợp)
quy định: “Những người trong làng nhà nghèo mà học giỏi, có thể làm gương cho
đời sau thì được thưởng tiền giấy bút hàng năm là 4 đồng”; Gia phả của dòng họ
Nguyễn Nhân Lễ ở Hoằng Lộc ghi rõ; “Họ có 8 sào ruộng, người nào trong họ đỗ
đại khoa sẽ được cho một phần trong số ruộng đấy để xây nhà ở. Số còn lại dùng
làm “Học điền” cho con em trong họ”... Ngoài ra, những người đi học còn được
miễn phu phen tạp dịch, đến tuổi đi làm việc làng việc xã được ngồi chiếu trên;
Những bà vợ, bà mẹ đang hoặc đã nuôi chồng, con ăn học thành đạt, nếu làm nghề
buôn bán thì được làng ưu tiên chỗ ngồi thuận tiện trong chợ, nếu làm nghề nông,
được cày số ruộng tốt làng dành cho. Đặc biệt, một số làng xã trong huyện còn
thành lập các Hội tư văn để khuyến khích việc học hành của kẻ sỹ. Nhiệm vụ của
Hội tư văn là tổ chức việc tế lễ ở các Văn chỉ, nơi thờ Khổng Tử, đọc văn tế nơi
hành miếu, tổ chức các đợt giảng văn, bình thơ, phối hợp tiếp đón những người đậu
đạt vinh quy bái tổ... Hội tư văn đã tạo nên đầu óc ngôi thứ, ganh đua giữa kẻ sỹ
trong làng, từ đó tạo ra được nhiều thế hệ thành đạt và có nhiều cống hiến cho đất
nước, quê hương.
Như trên đã nói, sự học ngày xưa là cả một kỳ vọng, một nỗ lực xã hội, do đó
ở Hoằng Hoá, có rất nhiều câu chuyện cảm động về đức hy sinh cho con cái, cho
chồng về chuyện ăn học, công danh. Không ít bà mẹ, bà vợ đã mòn chân bên khung
dệt canh khuya, mòn vai chạy chợ đường xa, tảo tần hôm sớm kiếm tiền cho con,
cho chồng ăn học. Nhiều người vợ đã chịu đói, chịu rét, lo cho chồng từng bữa
cơm, từng tập giấy, thỏi mực, đĩa dầu. Họ coi sự thành đạt của chồng, niềm vinh
quang của chồng như chính của mình vậy. Chính công sức đó đã “Chắp cánh tương
lai” cho bao thế hệ sỹ tử Hoằng Hoá khổ luyện phấn đấu trưởng thành nên người...
- Những cái rốn khoa bảng:
Những cái rốn khoa bảng ở Hoằng Hoá là các làng Bột Thượng, Bột Thái
(Hoằng Lộc); Nguyệt Viên, Vĩnh Trị, Phù Quang (Hoằng Quang); Quỳ Chữ, Đông

Khê (Hoằng Quỳ); Hội Triều (Hoằng Phong); Cát Xuyên (Hoằng Cát) rồi Phượng
Đình, Phượng Trì, Đại Trung, Từ Quang, Lam Cầu, Bái Cầu...
Làng Nguỵêt Viên (Hoằng Quang) có sông Mã đi qua, có núi Hàm Rồng chầu
về, có núi Ngọc đứng kề, trông tựa như cái bảng. Nguyệt Viên có 11 người đỗ đại
khoa nhưng dân Nguyệt Viên lại nói:
Nguyệt Viên mười tám ông nghè
5


Ông cưỡi lọng tía, ông che tán vàng.
Làng Hội Triều xã Hoằng Phong từ xưa đã nổi tiếng với thế đất:
Song long đáo hải
Lưỡng phượng trình tường.
Chỉ riêng một dòng họ Lương trong làng đã có tới 5 người được ghi danh Văn
Miếu ở Thăng Long mà nức tiếng nhất là 3 tiến sỹ: Lương Đắc Bằng, Lương Tôn
Huệ, Lương Khiêm Hanh.
Xã Bái Cầu cũ (nay thuộc Hoằng Trạch) cũng nổi tiếng có 2 người đỗ tiến sỹ
là Lê Duy Hàn và Lê Kiêm. Làng Lam Cầu (Hoằng Đại) cũng có 2 tiến sỹ là
Nguyễn Tác Dĩnh và Nguyễn Vĩnh.
Riêng ở xã Hoằng Lộc, theo thống kê chưa đầy đủ, trong suốt chế độ khoa cử
thời phong kiến, số người đỗ tiến sỹ là 12. Chỉ tính riêng trong đời Lê (1428 1884), số người đỗ hương cống, hương tiến, giám sinh Quốc tử giám, nho sinh là
149 người. Đời Nguyễn (1902 - 1919), có 37 người đỗ cử nhân và 140 người đỗ tú
tài.
Hoằng Hoá có không ít trường hợp trong một gia đình, cha con, ông cháu,
anh em cùng thi đậu. Như gia đình họ Nhữ ở Cát Thôn (Hoằng Cát), anh Nhữ
Đình An đỗ khoa Kỷ Mão (1819), em Nhữ Bá Sỹ đỗ khoa Tân Tỵ niên hiệu Minh
Mệnh 2 (1821), con Nhữ Bá Sỹ là Nhữ Dĩ Huyên đỗ khoa Ất Mão, niên hiệu Tự
Đức 7 (1855), con thứ là Nhữ Trí thuật đỗ khoa Canh Ngọ, niên hiệu Tự Đức 23
(1870). Cháu Nhữ Bá Sỹ, con Nhữ Dĩ Huyên là Nhữ Duy Cơ đỗ khoa Giáp Ngọ,
niên hiệu Thành Thái 6 (1894). Như vậy gia đình họ Nhữ kế thế đăng khoa.

Gia đình họ Nguyễn ở Phượng Đình (Hoằng Anh) anh em, cha con đều thi
đậu. Anh, Nguyễn Đình Văn, đỗ cử nhân khoa Mậu Tí, niên hiệu Đồng Khánh 3
(1888), sau đó năm 1892, thi Hội đậu Phó Bảng. Em, Nguyễn Hữu Đan đỗ cử
nhân khoa Quý Mão, niên hiệu Thành Thái 15 (1903), con Nguyễn Đình Văn là
Nguyễn Đình Ngân đỗ cử nhân khoa Nhâm Tí, niên hiệu Duy Tân 6 (1912).
Gia đình họ Lê ở Thọ Vực (Hoằng Đức) ông, con, cháu đều thi đỗ cử nhân.
ông, Lê Danh Tùng, đỗ khoa Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị 3 (1843); con, Lê Thận
Ngôn đỗ khoa Tân Dậu, niên hiệu Tự Đức 14 (1861); con Lê Thận Ngôn là Lê Đôn
Phục đỗ khoa Bính Ngọ, niên hiệu Thành Thái 18 (1906)...
- Một số gương hiếu học tiêu biểu:
Lưu Diễm: (Có sách chép là Lưu Bính), thôn Vĩnh Trị, xã Hoằng Quang,
người mở đầu cho nền khoa bảng ở Hoằng Hoá và cho cả xứ Thanh. Đỗ thứ hai Đệ
nhất giáp (Bảng nhãn) khoa thi Thái học sinh năm Nhâm Thìn hiệu Kiến Trung 8
(1232) đời Trần Thái Tông năm 22 tuổi, làm quan đến chức Đông các Đại học sỹ;
Lưu Miễn: thôn Vĩnh Trị, xã Hoằng Quang, anh của Lưu Diễm. Đỗ thứ nhất
giáp khoa thi Thái học sinh (Trạng Nguyên) năm Kỷ Hợi niên hiệu Thiên ứng
Chính Bình (1239) đời Trần Thái Tông, làm quan đến chức Tả tư mã;
Lương Đắc Bằng: (1475 - 1526), thôn Hội Triều, xã Hoằng Phong. Đỗ Hội
nguyên, Đệ nhất giáp tiến sỹ cập Đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Kỷ Mùi, niên hiệu
6


Cảnh Thống 2 (1499) đời Lê Hiến Tông năm 28 tuổi, làm quan đến chức Lại bộ
Thượng thư kiêm Đông các đại học sỹ Tri kinh diên, tham dự Triều chính, tước
Đôn trung bá;
Nguyễn Sư Lộ: (1519 - ?) xã Bột Thái, nay thuộc xã Hoằng Lộc. Đỗ Đệ nhất
giáp chế (Thám hoa) khoa Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình 6 (1554) đời Lê Trung
Tông năm 26 tuổi, làm quan đến chức Lại đô khoa cấp sự trung;
Bùi Khắc Nhất: (1544 - ?) xã Bột Thái, nay thuộc xã Hoằng Lộc. Đỗ Đệ nhất
giáp chế xuất thân (Bảng nhãn) khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Trị 8 (1565) đời Lê

Anh Tông, làm quan đến chức Bộ hộ Thượng thư, tước Văn phú bá, được vinh
phong là Kiệt tiết tuyên lực hiệp mưu tá lý công thần;
Lưu Đình Chất: (1566 - ?) thôn Đông Khê xã Hoằng Quỳ. Năm 42 tuổi đỗ
Đình nguyên, Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi hiên hiệu
Hoằng Định 8 (1607) đời Lê Kính Tông. Từng được cử đi sứ sang nhà Minh. Làm
quan đến chức Tá lý công thần, tham tụng. Hộ bộ Thượng thư, Thiếu bảo, tước Lộc
quận công. Khi mất được thăng Thiếu sư;
Nguyễn Vĩnh: (1616 - ?) thôn Lam Hà xã Hoằng Đại. Năm 31 tuổi đỗ Đệ tam
giáp đồng tiến sỹ xuất thân, khoa Bính Tuất hiệu Phúc Thái 4 (1646) đời Lê Chân
Tông, làm quan đến chức Tham chính, tước Nam;
Hà Duy Phiên: ( ? – 1853) làng Bột Thượng xã Hoằng Lộc, đỗ Hương cống
khoa Kỷ Mão niên hiệu Gia Long 18 (1819), làm quan tới chức thượng Thư bộ Hộ,
Hiệp biện đại học sỹ, xung cơ mật viện đại thần, phó tổng đài sử quán. Tương
truyền đã từng được vua giao quyền nhiếp chính khi kinh lý nơi xa;
Nhữ Bá Sỹ: (1788 – 1867) làng Cát Xuyên xã Hoằng Cát, đỗ Hương cống ân
khoa Tân Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 2 (1821) làm quan đến chức Hàn lâm thị tộc,
đốc học Thanh Hoá...
Trên đây là những nét cơ bản nhất về truyền thống hiếu học ở huyện Hoằng
Hoá. Có thể nói, truyền thống hiếu học là một giá trị văn hoá đặc sắc tốt đẹp của
dân tộc ta, có mặt ở nhiều nơi, song ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có biểu
hiện, mức độ khác nhau. Xưa kia, so với Kinh Bắc thì Hoằng Hoá (cũng như Xứ
Thanh là đất trại), vì thế việc học ở đây đã được nâng lên thành một triết lý đổi đời,
thành tiêu chuẩn thiêng liêng đặc trưng cho gia đình, dòng tộc, xóm làng và phiên
trấn. Do đấy nó dần trở thành một giá trị ổn định dù cho cơ cấu xã hội đã có thay
đổi căn bản về lịch sử. Bởi thế, cũng như nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp khác,
tinh thần hiếu học ở Hoằng Hoá ngày nay vẫn được tôn vinh và bồi đắp ngày thêm
rạng rỡ. Hiện tại, mỗi năm Hoằng Hoá có gần 3000 học sinh thi đậu vào các trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp trong cả nước, trong đó có nhiều em
đậu thủ khoa, á khoa; Nhiều em đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc
gia, cấp tỉnh. Con em Hoằng Hoá có nhiều người đỗ đạt thành danh hiện đang giữ

những chức vụ cao trong Đảng, Nhà nước và Lực lượng vũ trang như: GS.TS.
NGND Trịnh Nhu, GS Viện sỹ Lê Viết Ly, GS.TS Lưu Trần Tiêu, PGS Ninh Viết
Giao, TS Lê Xuân Thảo, Trung tướng TS Lê Quang Bình... Trong thành công
7


chung đó, truyền thống hiếu học của quê hương chính là mạch nguồn, là động lực
để mỗi người Hoằng Hoá phấn đấu vươn lên, góp phần xứng đáng xây dựng tổ
quốc, quê hương ngày càng tươi đẹp.
2.3.2.2. Giáo viên cho học sinh tham gia một tiết học ngoại khóa tại di tích
Đình Bảng - Hoằng Lộc:
Đầu tiên tôi sẽ đặt một câu hỏi để kiểm tra hiểu biết về kiến thức địa phương
của học sinh: Em hãy nêu những hiểu biết của em về di tích Bảng Môn Đình ? Sau
khi học sinh trả lời, tôi chốt lại một lần nữa.
Ở Hoằng Hoá, có lẽ ngôi đình nổi tiếng nhất là đình Bảng Môn xã Hoằng Lộc.
Đình tọa lạc trên một khuôn viên rộng, mặt quay về hướng nam, phía trước là một
bãi đất bằng phẳng và rộng rãi gồm một tòa đại đình chạy ngang và nối từ gian giữa
ra phía sau là một tòa hậu cung chạy dọc thành kiểu bố cục chữ “Đinh”. Truyền
thuyết dân gian kể rằng ngôi đình có từ thời Lê sơ. Đình Bảng thờ thành hoàng của
làng là Nguyễn Tuyên, một vị tướng có công bình Chiêm dưới thời nhà Lý. Sau khi
ông mất được nhà nước phong tặng “Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương”. Tuy là
ngôi đình nhưng ngoài chức năng hội họp bình thường của cộng đồng làng xã, đây
còn là nơi hội họp của hội Tư văn, nơi đón nhận chúc mừng những người đỗ đạt
của cộng đồng mà trong đó có mười hai Tiến sĩ vinh quy về làng cùng hàng trăm
hương cống, tú tài; Nghĩa là đình được kiêm thêm chức năng của một văn chỉ. Nó
ra đời trên mảnh đất có truyền thống học hành khoa bảng nên đã được nhân dân địa
phương đặt cho tên gọi rất đẹp: Bảng Môn (Cửa vào của các nhà khoa bảng). Đình
Bảng Môn đã được công nhận là di tích văn hóa cấp Quốc gia năm 1990.

Hình ảnh: Bảng Môn Đình, ngôi đình làng tôn vinh sự học độc đáo ở xứ Thanh


8


Sau khi cho học sinh nêu những hiểu biết cơ bản về Bảng Môn Đình tôi tiếp
tục hướng các em vào vấn đề trọng tâm của tiết học ngoại khóa, đó chính là đi sâu
vào tìm hiểu cụ thể hơn về di tích: Tôi đặt câu hỏi cho học sinh: Các em biết gì về
Cụ Nguyễn Tuyên - Thành Hoàng Làng ? Sau khi học sinh trả lời, tôi tiếp tục chốt
ý:
Tìm hiểu thần phả đang còn ghi chép ở Bảng Môn Đình thì nguồn gốc vị
Thành hoàng làng là cụ Nguyễn Tuyên sinh ngày 10 tháng 3 năm Đinh Sửu (1017)
là con trai độc nhất của ông Nguyễn Công Thanh và bà Lê Thị Hạnh, một nhà nho
nghèo ở trang Bột Đà, huyện Cổ Đằng, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa nay là xã
Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Tương truyền, dù mới 21 tuổi nhưng Nguyễn Tuyên đã là một vị tướng quân
rất tài giỏi, khi nhà Lý tìm người hiền tài đứng ra giúp vua đánh giặc, Nguyễn
Tuyên đã xung trận cùng vua đánh tan quân Chiêm Thành. Khi giặc tan, người trở
về vinh quy bái tổ. Khi trở về kinh thành, nơi đây bỗng sấm sét đầy trời. Rồi vị
tướng không bệnh mà mất, qua một đêm mối đùn lên thành một ngôi mộ rất lớn.
Ngay tại nơi tướng quân hóa thân, người dân đã lập đình để thờ và tưởng nhớ công
ơn của người.
Vào thế kỷ XV, khi Nho học chiếm ưu thế, sự học của Nho sinh ở làng Hoằng
Bột đã làm hiển danh thành đất Trạng, ngôi đền được chuyển tên và hàm chứa giá
trị mới của Nho giáo: Đình Bảng Môn - Nơi nêu tên bảng vàng và vinh danh sự
học. Tuy là ngôi đình nhưng ngoài chức năng hội họp bình thường của cộng đồng
làng xã, đây còn là nơi hội họp của hội Tư văn, nơi đón nhận chúc mừng những
người đỗ đạt của cộng đồng mà trong đó có 12 tiến sĩ vinh quy về làng cùng hàng
trăm hương cống, tú tài. Trong đó có nhiều vị khoa bảng nổi tiếng tài năng, nhân
cách chính trực, thanh liêm như: Nguyễn Nhân Lễ, Nguyễn Sư Lộ, Nguyễn Cẩn...
Từ chỗ là chốn thờ cúng Thành Hoàng, đình làng đã trở thành nơi tôn vinh

học vấn. Vì thế, ngày nay, khi nhắc đến địa danh này, người ta không quên gắn với
những danh hiệu cao quý như: “Làng hiếu học”, “Làng tiến sĩ”, “Làng khoa
bảng”... Không phụ lòng các thế hệ tiền nhân, con cháu hậu sinh ở Hoằng Lộc vẫn
tiếp bước làm rạng danh mảnh đất này.

9


Hình ảnh: Giáo viên đang giới thiệu điện thờ chính của Bảng Môn Đình
Giáo viên giới thiệu xong phần trung tâm của Bảng Môn Đình, tiếp tục cho
các em di chuyển sang phía cánh phải của chính cung đó là nơi có bảng tóm tắt về
quá trình hình thành Bảng Môn Đình và một số nhân vật lịch sử có công đối với
quê hương xã Hoằng Lộc. Bên cánh trái là bảng ghi tên những người học giỏi đỗ
đạt qua các thời kì.

Hình ảnh: Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu
về lịch sử ra đời và phát triển của Bảng Môn Đình

10


Hình ảnh giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về lịch sử ra đời và phát triển
của Bảng Môn Đình
Tiếp tục giáo viên hướng dẫn các em di chuyển ra phía bên ngoài, tiến lại khu
vực văn bia dựng trước sân đinh ghi danh công trạng những người đỗ đạt cao, có
công với làng với nước. Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày phần bài tập đã được
giao về việc tìm hiểu về những người đỗ đạt và ý nghĩa của việc dựng văn bia.

Hình ảnh: Học sinh tìm hiểu ý nghĩa của bia tiến sĩ
Sau khi học sinh làm việc xong giáo viên chốt lại ý nghĩa của việc dựng văn

bia: việc làm này tác dụng khuyến khích học tập, đè cao những người tài giỏi cần
cho đất nước.

11


Hình ảnh: Học sinh thuyết trình về văn bia tiến sĩ tại Đình Bảng.
Sau khi các em làm việc xong phần này tôi chốt ý và gợi cho các em nhớ lại
kiến thức ở bài 20 - SGK lịch sử lớp 10 Ban Cơ bản - trang 131: Xây dựng và phát
triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X -XV, ở mục II.1.Giáo dục: gợi cho học sinh
nhận thức được những đóng góp của quê hương xã Hoằng lộc nói riêng và huyện
Hoằng Hóa nói chung đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giáo dục nước nhà thế
kỉ X - XV.
Theo tôi với tiết học ngoại khóa này sẽ mang lại cho học sinh của tôi những
hiểu biết cơ bản về lịch sử địa phương nơi các em đang sinh sống và học tập. Từ đó
hình thành cho các em lòng tự hào về quê hương, về truyền thống hiếu học. Tiếp
thêm sực mạnh và động lực để các em vươn lên trong cuộc sống hàng ngày. Hiện
nay ngôi đình là niềm tự hào của làng nên mọi người dân ai cũng có ý thức giữ gìn
bảo vệ. “Hằng ngày đình vẫn luôn mở cửa để đón người dân và các cháu nhỏ đến
đình để thắp hương, học hành. Không phụ lòng tiền nhân, con cháu Hoằng Lộc
nhiều thế hệ đều học hành đỗ đạt làm rạng danh quê hương. Khoảng 10 năm trở lại
đây, năm nào con em Hoằng Lộc cũng đỗ đại học thuộc tốp đầu của huyện, nhiều
cháu còn đậu thủ khoa ở những trường danh tiếng với số điểm tuyệt đối.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
- Đối với hoạt động giáo dục:

12



+ Trong quá trình giảng dạy học sinh rất hứng thú, thực hiện tốt và hiệu quả
nhiệm vụ được giao.
+ Tôi tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp 10 A1 và lớp 10 A2 để đối chứng. Sau
khi dạy tiết học ngoại khóa, tôi tiến hành khảo sát các em ở lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng. Với các câu hỏi trắc nghiệm hiểu biết về những địa danh, di tích, nhân
vật… của Bảng Môn Đình. Bên cạnh đó là một câu hỏi nhận thức về trách nhiệm
của bản thân trong việc phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa của quê hương
Hoằng Hóa trong công cuộc xây dựng huyện Hoằng Hóa trở thành huyện “Kiểu
mẫu” hiện nay.
+ Kết quả thực nghiệm như sau:
Điểm
Đối tượng

Lớp


số

0 > 3,5

3,5 > 5

5 > 6,5

6,5 > 8,0

8,0 - 10

SL %


SL

%

SL

SL

SL

1

2,3

11 26,2 18 42,9 12 28,6

Thực nghiệm

10A1

42

0

0

Đối chứng

10A2


42

3

7,2

%

15 35,8 18 42,8

6

%

14,2

0

%

0

- Đối với bản thân: Qua 2 năm thực hiện giáo dục truyền thống lịch sử, văn
hóa huyện Hoằng Hóa trong dạy học lịch sử lớp 10, bản thân tôi đã xây dựng được
hệ thống kiến thức lịch sử, văn hóa địa phương Hoằng Hóa và kinh nghiệm lồng
ghép, tích hợp… vào tiết dạy để nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử, cũng như
nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Làm cho tiết học trở nên sinh động và lý
thú.
- Đối với đồng nghiệp: Sáng kiến của bản thân tôi có thể trở thành nguồn tư
liệu tham khảo cho các đồng nghiệp dạy môn lịch sử và các bộ môn thuộc KH - XH

ở trường THPT Hoằng Hóa 4 và các đơn vị bạn có thể tham khảo ở những mức độ
khác nhau. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất, đối tượng học sinh
mà sử dụng ở những mức độ phù hợp. Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi còn
có thể cung cấp cho đồng nghiệp phương pháp, hoặc cách thức tích hợp, lồng ghép
những đơn vị kiến thức lịch sử địa phương vào bài dạy lịch sử chính khóa.

3. Kết luận, kiến nghị:
13


3.1. Kết luận:
Lịch sử địa phương là một nội dung quan trọng của chương trình lịch sử ở
trường phổ thông, có ý nghĩa to lớn về mặt giáo dưỡng, giáo dục và hình thành kĩ
năng, giá trị sống. Vì vậy, mỗi giáo viên phải tâm huyết, nhiệt tình với việc sưu
tầm, biên tập để lồng nghép vào các tiết dạy chính khóa giúp cho học sinh hình
dung ra được bức tranh lịch sử, văn hóa của quê hương.
Qua 2 năm thực hiện, bản thân tôi nhận thấy, việc giáo dục truyền thống lịch
sử văn hóa quê hương Hoằng Hóa cho học sinh trong các tiết dạy chính khóa là hết
sức cần thiết, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học và
đáp ứng yêu cầu dạy học lịch sử hướng đến vận dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, để
thực hiện có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có sự lựa chọn phù hợp, phương thức
tiến hành khéo léo để không ảnh hưởng đến nội dung chương trình chính khóa theo
quy định.
3.2. Kiến nghị:
- Đối với các cấp quản lý chuyên môn: Cần mở thêm các lớp chuyên đề bồi
dưỡng về phương pháp khai thác, sử dụng lịch sử địa phương trong các tiết dạy
chính khóa. Cần quy định mềm về phân phối chương trình để giáo viên mềm dẻo
vận dụng, có điều kiện làm phong phú các hình thức dạy học lịch sử.
- Đối với nhà trường: Tạo điều kiện cơ sở vật chất, thời gian, kinh phí, con
người để giáo viên có thể đa dạng hóa các hình thức dạy học lịch sử như: Dạy học

tại thực địa, tại di tích, hoặc các hoạt động trải nghiệm ngoài nhà trường. Bên cạnh
đó, giao cho Đoàn thanh niên, Ban nữ công phối hợp với nhóm lịch sử tổ chức các
hoạt động ngoại khóa theo chủ đề hướng về những giá trị lịch sử, văn hóa của quê
hương.
- Đối với giáo viên: Nhận thức đúng đắn và khai thác triệt để thế mạnh của
lịch sử địa phương trong giáo dục, hình thành nhân cách học sinh. Đa dạng hóa các
hình thức tổ chức dạy học lịch sử. Ngoài việc dạy học ở lớp, ở phòng bộ môn, cần
phải tổ chức các buổi ngoại khóa tại di tích lịch sử, gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với
các nhân chứng lịch sử, nhân vật lịch sử... Để gây hứng thú cho học sinh, từ đó
hình thành nên lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi. Những kinh nghiệm bước
đầu được tích lũy là tiền đề để tôi tiếp tục đúc rút kinh nghiệm trong những năm
tiếp theo. Vì vậy, kính mong nhận được sự đóng góp của Hội đồng khoa học và các
bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện hơn, được áp dụng có
hiệu quả trong nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn !.

Thanh Hóa, ngày 29 tháng 5 năm 2019
14


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép của người khác
nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Thị Thủy


15



×