Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội, thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 37 trang )

SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................1
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu. ........................................................................3
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu............................................................4
NỘI DUNG...................................................................................................4
2. Thực trạng ..............................................................................................14
1. Đóng góp của đề tài................................................................................33
3. Kiến nghị hướng phát triển đề tài...........................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc
Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử. Nắm vững và vận dụng quy luật đó, ngày
nay Đảng ta khẳng định: “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng xác định Giáo dục Quốc phòng - An
ninh là một bộ phận quan trọng trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, đáp ứng
yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trong
những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Giáo dục Quốc phòng - An ninh
là bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; là môn học chính khoá trong chương
trình giáo dục của cấp THPT.

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế



1


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Luật Giáo dục Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã xác định mục
tiêu giáo dục là: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tuởng độc lập dân tộc
và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chương trình Giáo dục Quốc phòng – An ninh góp phần giáo dục toàn diện
cho học sinh về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng
đối với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức
trách nhiệm công dân; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây
dựng, củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Vậy, việc giảng dạy và học tập bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh
trong nhà trường THPT là hết sức cần thiết. Nhưng thực tế trong chương trình giáo
dục phổ thông hiện hành, các môn Lịch sử, Địa lý nội dung kiến thức có đề cập
đến vấn đề biển, đảo nhưng chưa nhiều. Khi hỏi các em học sinh về biển, đảo của
nước ta, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đa số các em học sinh trả
lời đó là “một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc”. Nhưng để lý giải nguồn
gốc của nó như thế nào, có tiềm năng, thế mạnh, nguồn lợi kinh tế ra sao thì không
phải học sinh nào cũng trả lời được. Nhìn chung, kiến thức về biển, đảo của phần
lớn các em học sinh hiện nay còn yếu.
Thời gian qua, tình hình tranh chấp ngày càng gia tăng và diễn biến ngày
càng phức tạp về chủ quyền của một số nước trên biển Đông, trong đó có Việt

Nam. Vấn đề về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và vận mệnh của đất nước đều nhận được sự quan tâm của mọi người
trong đó có học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Lợi dụng về vấn đề tranh chấp trên biển Đông, chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các thế lực thù địch trong và ngoài
nước đã tiến hành xuyên tạc, kích động nhằm chống đối cách mạng nước ta, làm
mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đối với học sinh là lực lượng
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

2


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

đông đảo và có vai trò to lớn trong đời sống xã hội; là bộ phận năng động, nhạy
bén, có khả năng thích nghi cái mới nhanh, nhiệt tình, xông xáo; nhưng vốn sống
và kinh nghiệm ít, kiến thức và bản lĩnh chính trị có hạn, mức độ kiềm chế và
năng lực đề kháng trước những cám dỗ còn thấp, dễ bị lôi kéo bởi những nguồn
thông tin sai lệch.
Từ ý nghĩa và thực tiễn đó tôi chọn đề tài: “Giáo dục tình yêu biển, đảo
cho học sinh trường THPT Gia Hội, thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng –
An ninh. ” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An
ninh tại các Trường THPT trong toàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và trường
THPT Gia Hội nói riêng, đồng thời để bồi dưỡng đào tạo thêm kiến thức GDQP AN cho đội ngũ giáo viên.
Giúp học sinh hứng thú hơn, tích cực hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức
và kiến thức về tình yêu biển, đảo; chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và biên giới
quốc gia.

Giúp học sinh hiểu được khái niệm; sự hình thành; các bộ phận cấu thành
lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam và cách xác định
đường biên giới quốc gia trên biển.
Quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà nước; các nội dung biện pháp cơ
bản về xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia.
Xác định thái độ, trách nhiệm của học sinh trong xây dựng, quản lý và bảo vệ
biên giới quốc gia.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Trao đổi thảo luận với đồng nghiệp và học sinh.
Nghiên cứu sách Lịch sử, sách Địa lý và trao đổi, thảo luận với giáo viên
giảng dạy môn Lịch sử, môn Địa lý của trường THPT Gia Hội.
Nghiên cứu nội dung, mục tiêu các bài học trong sách giáo khoa, sưu tầm

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

3


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

thêm tài liệu, thông tin, bản đồ biển, đảo để từ đó xây dựng sơ đồ tư duy phù hợp
với chương trình và giảng dạy.
Trao đổi với học sinh để tìm hiểu đặc tính tâm sinh lý trong quá trình giảng dạy.
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Gia Hội .
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng là học sinh các lớp: 11A 1; 11A2; 11B7; 11B8; của khối lớp 11;
học môn GDQP-AN năm học 2013 - 2014 của trường THPT Gia Hội.
Đề tài tập trung nghiên cứu những hình ảnh, xây dựng các cổng thông tin về
vấn đề tranh chấp trên biển Đông; khái quát về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa

của Việt Nam và các bản đồ về biển, đảo để đưa vào các tiết dạy sao cho sinh động
hợp lý, phát huy tính tích cực, tự học, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt
động học tập, khắc phục thói quen học tập thụ động, lối truyền thụ kiến thức một
chiều phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay.

NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái quát về biển, đảo Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm trong khu vực trung tâm của Đông
Nam Á. Bờ biển Việt Nam dài 3.260km, từ Quảng Ninh ở phía Đông Bắc tới Kiên
Giang ở phía Tây Nam. Có 28/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam nằm ven biển,
chiếm 42% diện tích và 45% dân số cả nước; có khoảng 15,5 triệu người sống gần
bờ biển và hơn 175 ngàn người sông ở đảo. Tính trung bình tỉ lệ diện tích theo số
km bờ biển thì cứ 100km 2 có 1km bờ biển (so với trung bình của thế giới là
600km2 đất liền trên 1km bờ biển).
Biển đảo Việt Nam có thể chia thành 4 khu vực: Biển Đông Bắc (một phần
vịnh Bắc Bộ) nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam và tiếp giáp với Trung Quốc (đảo
Hải Nam); Biển Bắc Trung Bộ (một phần biển Đông) ở phía Đông Việt Nam; Biển
Nam Trung Bộ (một phần biển Đông) ở phía Đông Nam và vùng biển Tây Nam
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

4


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

(một phần vịnh Thái Lan) nằm phía Tây Nam của Việt Nam tiếp giáp với
Campuchia và Thái Lan.
Vùng biển Việt Nam bao gồm vùng nội thủy nằm bên trong đường cơ sở;

lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý (1 hải lý tương đương 1.852km); vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở; riêng thềm
lục địa có thể kéo dài 350 hải lý. Theo công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển
năm 1982, vùng biển Việt Nam có diện tích trên 1 triệu km 2 gấp 3 lần diện tích đất
liền và chiếm 30% diện tích biển Đông. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối
với các vùng biển trên. Năm 1982, Chính Phủ Việt Nam đã tuyên bố xác định
đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm.
Vùng biển Việt Nam có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là
Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó: 84 đảo có diện tích trên 1km 2; 24 đảo có diện
tích trên 10km2; 66 đảo có dân sinh sống với tổng số dân là 175 nghìn người. Hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia đã làm
tăng giá trị kinh tế và an ninh quốc phòng đất nước. Các đảo có diện tích lớn nhất:
Đảo Phú Quốc (320km2 có 50 nghìn dân); Đảo Cái Bầu (200km 2 trên 21 nghìn
dân); Đảo Cát Bà (149km2 trên 15 nghìn dân); Đảo Côn Đảo (56,7km 2 có 1.640
dân); Đảo Phú Quý (32km2 gần 18 nghìn dân) và Đảo Lý Sơn (3km 2 có trên 16
nghìn dân sinh sống).
Ý nghĩa kinh tế lớn nhất của đảo không chỉ là giá trị vật chất của bản thân
chúng mà còn là vị trí chiến lược, là cầu nối vươn ra biển cả, là điểm tựa khai thác
các nguồn lợi biển, là những điểm tiền tiêu bảo vệ Tổ quốc. Nhờ có hệ thống đảo
ven bờ được vận dụng làm các điểm cơ sở của hệ thống đường cơ sở thẳng nên đã
tạo ra vùng nội thủy rộng lớn, do đó vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa cũng được mở rộng ra hướng biển. Về giá trị văn hóa, hệ thống đảo đã
tạo nên những cảnh quan thiên nhiên như những di sản văn hóa có sức thu hút
mạnh đối với du khách (ví dụ Vịnh Hạ Long).

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

5



SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Vịnh Hạ Long – Kỳ quan thiên nhiên của Thế Giới

1.2. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
1.2.1. Vùng nội thủy
Vùng nội thủy là vùng nước biển được xác định bởi một bên là bờ biển và
một bên khác là đường cơ sở của quốc gia ven biển. Vùng nước nội thủy thuộc chủ
quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ của quốc gia ven biển. Chủ quyền này bao
gồm cả lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời trên nội thủy.
Thực tế của các quốc gia có biển cho thấy, vùng nước nội thủy bao gồm
nhiều bộ phận có tính chất và quy chế pháp lý khác nhau. Trong vùng này các quốc
gia ven biển sẽ thực hiện đầy đủ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giống như
trên đất liền. Mọi luật lệ do quốc gia ban hành đều được áp dụng cho vùng nội thủy
mà không có một ngoại lệ nào.
Chủ quyền quốc gia ven biển trong vùng nội thủy được quy định rõ ràng và
chủ yếu trong các văn bản pháp luật quốc gia. Theo pháp luật Việt Nam, chủ quyền
quốc gia trong nhiều văn bản pháp luật, từ hiến pháp đến các luật và các văn bản

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

6


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

dưới luật như Luật hình sự Việt Nam năm 1999, Luật biên giới quốc gia năm

2003.... .

Nguồn: www.vietbao.com.vn

1.2.2. Vùng nước lãnh hải
Vùng nước lãnh hải là vùng biển nằm bên ngoài và tiếp liền với vùng nước
nội thủy của quốc gia (hoặc vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo). Chủ
quyền này được mở rộng đến vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển (Công
ước 1982). Bề rộng của lãnh hải theo Công ước Luật Biển năm 1982 do quốc gia
tự quy định nhưng không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của quốc gia (điều 3 Công ước 1982).
Tuyên bố năm 1977 của Chính Phủ Việt Nam đã nêu rõ: “Lãnh hải của
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường
cơ sở nối liền các điểm nhô ra xa nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các
đảo ven bờ của Việt Nam, tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất trở ra. Nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn
đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển của lãnh hải”.

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

7


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Luật biên giới quốc gia năm 2003 quy định: “Lãnh hải của Việt Nam rộng
12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh
hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo”.

Theo các văn bản pháp luật này, chiều rộng của lãnh hải Việt Nam đã tuyên
bố hoàn toàn phù hợp với quy định tại điều 3 Công ước năm 1982. Theo đó: “Với
điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay
không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải”.
Quyền này được cộng đồng quốc tế thừa nhận vì lợi ích phát triển, hợp tác trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, hàng hải và an ninh quốc phòng của
các quốc gia trong quan hệ quốc tế từ trước đến nay.

1.3. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia
1.3.1. Vùng tiếp giáp lãnh hải
“Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng của lãnh hải” (điều 33 Công ước 1982).
Tuyên bố 1977 của Chính Phủ Việt Nam: “Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải
Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành vùng biển
rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam”.
Vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng
không phải là một bộ phận của biển quốc tế. Về bản chất, vùng tiếp giáp lãnh hải là
vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển. Trên
vùng biển này, quốc gia ven biển ngăn ngừa và trừng trị những vi phạm về hải
quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

8


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.


Nguồn: www.tuyengiaoqna.vn

1.3.2. Vùng đặc quyền kinh tế
“Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển
rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam”
(tuyên bố của Chính Phủ Việt Nam năm 1977).
Theo Công ước 1982: “Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía
ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định
trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các
quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước
điều chỉnh”.
Theo quy định của Công ước 1982, quốc gia ven biển có các quyền thuộc
quyền chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên
thiên nhiên, sinh vật hay không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò
và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước,
hải lưu và gió.
Các quốc gia khác muốn nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế
của quốc gia ven biển phải được sự đồng ý của quốc gia ven biển. Đồng thời khi
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

9


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc gia khác phải tôn trọng luật pháp
của quốc gia ven biển và những quy định của luật pháp quốc tế.


Ngày 26/05/2011 ba tàu Hải giám của Trung Quốc mang số hiệu 12, 17 và 84 cắt cáp của tàu
Bình Minh 02 đang làm nhiệm vụ thăm dò khảo sát địa chấn bằng phương pháp thu nổ tại lô
125 – 126 và 148 – 149 thuộc vùng lãnh hải của Việt Nam.
Nguồn: www.laodong.com.vn

1.3.3. Thềm lục địa
“Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần đất kéo dài tự nhiên của
lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến các
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục
địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn” (Công ước 1982).
“ Thềm lục địa của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bao gồm
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt
Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào
bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải
Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ
đường cơ sở đó” (Tuyên bố của Chính Phủ Việt Nam 1977).
Các quyền chủ quyền mà quốc gia ven biển có được trên thềm lục địa của

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

10


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

mình xuất phát từ chủ quyền trên lãnh thổ đất liền. Mặt khác, các quyền chủ quyền
này mang tính “đặc quyền”, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò, khai

thác tài nguyên sinh vật, vi sinh vật trên thềm lục địa của mình thì không ai có
quyền tiến hành các hoạt động đó.
Trong nhiều năm qua, đặc biệt là từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ
XX, chúng ta đã tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác các loại
tài nguyên khoáng sản và đặc biệt là dầu khí, cũng như thành lập các cụm khoa
học, kinh tế và dịch vụ trên thềm lục địa Việt Nam, đặt dây cáp, ống dẫn ngầm để
chứng minh và khẳng định quyền chủ quyền đối với thềm lục địa Việt Nam với
cộng đồng quốc tế.

1.4. Khái quát hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
1.4.1. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Quần đảo Hoàng Sa là một trong hai quần đảo xa bờ thuộc chủ quyền của
Việt Nam từ lâu đời. Trong lịch sử quần đảo Hoàng Sa còn có tên là “Bãi Cát
Vàng”. Tên quốc tế thường được thể hiện trên các hải đồ là Paracels. Quần đảo
gồm 37 đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một số đối tượng địa lý khác thuộc huyện
Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng. Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng
30.000km2. Phạm vi quần đảo được giới hạn bằng các đảo, bãi ở các cực Bắc,
Nam, Đông, Tây như sau:

Vị trí các cực của quần đảo

Vĩ độ Bắc

Kinh độ Đông

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

11



SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Cực Bắc: Đảo Đá Bắc

170 06’ 0”

1110 30’ 8”

Cực Nam: Bãi ngầm Ốc Tai Voi

150 44’ 2”

1120 14’ 1”

Cực Đông: Bãi cạn Gò Nổi

160 49’ 7”

1120 53’ 4”

Cực Tây: Đảo Tri Ôn

150 47’ 2”

1110 11’ 8”

Về khoảng cách đến đất liền, từ đảo Tri Ôn đến mũi Ba Làng An, tỉnh
Quảng Nam là 135 hải lý; đến Cù Lao Ré tỉnh Quảng Ngãi 123 hải lý. Tổng diện
tích phần nổi của quần đảo Hoàng Sa khoảng 10km 2, đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm

với diện tích khoảng 1,5km2. Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi.
Hoàng Sa nằm trong vùng “xích đạo từ” có độ sai lệch từ không thay đổi
hoặc thay đổi rất nhỏ, rất thuận lợi cho việc đi biển. Quần đảo này có khí hậu nhiệt
đới, nóng ẩm, mưa nhiều, thường có sương mù và nhiều giông bão, nhất là từ
tháng 6 đến tháng 8 hằng năm. Trên một số đảo có nguồn nước ngọt, cây cối um
tùm, vô số chim và đặc biệt là có nhiều Rùa biển sinh sống.
Nằm phía Đông của Việt Nam, Hoàng Sa án ngự đường hàng hải quốc tế
huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng biển
này có tiềm năng lớn về khoáng sản và nguồn hải sản, thuận lợi trong việc phát
triển kinh tế, quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường
giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc Biển Đông.

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

12


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Nguồn: www.truongsahoangsa. infonet.vn

1.4.2. Quần đảo Trường Sa của Việt Nam
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là
khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý; cách Vũng Tàu 305 hải lý;
cách Cam Ranh 250 hải lý; cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan
Thiết) 270 hải lý. Quần đảo trải dài từ 60 2’ vĩ Bắc đến 1110 28’ vĩ Bắc; từ kinh độ
1120 Đông đến 1150 Đông trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km 2 đến
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế


13


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

180.000km2. Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước lại
rất ít, chỉ tổng cộng 11km2.
Về số lượng đảo theo thống kê của tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao (vụ Biển
thuộc Ban Biên Giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, bãi; không kể 05
bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam gồm: bãi Phúc Trần; bãi Huyền Trân; bãi
Quế Đường; bãi Phúc Nguyên; bãi Tứ Chính.

Nguồn: www.baoquangngai.com.vn

2. Thực trạng
2.1. Nội dung chương trình giáo dục phổ thông
Chương trình giáo dục phổ thông, nội dung kiến thức trong các môn Địa Lý,
Lịch Sử và Giáo dục Quốc phòng – An ninh có đề cập đến vấn đề biển, đảo chưa
nhiều; chưa đảm bảo để thực hiện được Quyết định số 373/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc “ Phê duyệt đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý,
bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam”; và Quyết định số
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

14


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.


1461/QĐ-BGDĐT về việc giao nhiệm vụ “ Xây dựng và thực hiện đề án tăng
cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương
trình giáo dục các cấp học và các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc
dân giai đoạn 2010-2015”.
2.2. Tình hình tranh chấp trên biển Đông
Tình hình tranh chấp trên biển Đông ngày càng gia tăng và diễn biến ngày
càng phức tạp về chủ quyền của một số nước trên biển Đông, trong đó có Việt
Nam. Vấn đề về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và vận mệnh của đất nước nhận được sự quan tâm của mọi người, trong
đó có học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.
2.3. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề biển Đông
để chống phá cách mạng nước ta
Lợi dụng về vấn đề tranh chấp trên biển Đông, chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các thế lực thù địch trong và ngoài nước
đã tiến hành xuyên tạc, kích động nhằm chống đối cách mạng nước ta, làm mất ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nhận thức và thực tế như trên, với trách nhiệm là giáo viên giảng dạy bộ môn
GDQP – AN của trường THPT Gia Hội; tôi chỉ nêu lên một số giải pháp có hiệu
quả từ kinh nghiệm sử dụng tư liệu sưu tầm để giáo dục tình yêu biển, đảo phục vụ
giảng dạy cho học sinh của trường THPT Gia Hội năm học 2013 – 2014, thể hiện
qua những giải pháp sau đây.
3. Giải pháp chính của sáng kiến
Trong quá trình giảng dạy, để nâng cao chất lượng tiết dạy “Bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ và biên giới quốc gia” môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh lớp 11, ngoài
những nội dung chính của bài tôi đã cung cấp thêm một số giải pháp chính của
sáng kiến như sau:
3.1. Một số kiến thức về biển, đảo Việt Nam; đặc biệt là hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế


15


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Khái quát về biển, đảo Việt Nam.
Khái quát về quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Khái quát về quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
3.2. Một số kiến thức về biển, đảo Việt Nam theo pháp luật quốc tế
- Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
+ Vùng nội thủy.
+ Vùng nước lãnh hải.
- Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia.
+ Vùng tiếp giáp lãnh hải.
+ Vùng đặc quyền kinh tế.
+ Thềm lục địa.
3.3. Một số kiến thức về lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền của Việt
Nam trên quần đảo Hoàng Sa
- Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và
thực thi chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa, ít nhất là từ thế kỷ XVII.
Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự, liên tục, hòa bình, phù hợp
với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Chúng ta có đầy đủ các bằng
chứng pháp lý và cứ liệu lịch sử có giá trị để chứng minh sự thật hiển nhiên này
qua các giai đoạn lịch sử có liên quan.
- Trước năm 1884.
+ Nhà nước Đại Việt thời Chúa Nguyễn đã xác lập và thực thi chủ quyền tại
Hoàng Sa (Suốt trong ba thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX; một tổ chức
của Nhà nước Việt Nam: Đội Hoàng Sa, là bằng chứng hùng hồn về xác lập và

thực thi chủ quyền của Đại Việt ở Đàng Trong đối với Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa ra
đời ở Cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré thuộc tỉnh Quảng Ngãi).
+ Nhà nước Đại Việt thời Tây Sơn chống Hải tặc và bảo vệ biển Đông (1771
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

16


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

– 1801). Trong thời gian từ năm 1771 đến năm 1801, gần như lúc nào cũng có
chiến tranh, trên đất liền cũng như ngoài biển Đông, từng khu vực đều có lực
lượng do Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh hoặc quân Tây Sơn làm chủ)
- Với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại, Cộng Hòa Pháp tiếp tục
khẳng định, quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trong thời kỳ
Pháp thuộc (1884 – 1945).
- Lợi dụng Việt Nam đang lo đối phó với sự trở lại của thực dân Pháp và lo
kháng chiến chống Pháp, quân Tưởng Giới Thạch và sau đó là quân của CHND
Trung Hoa đã tiến hành chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(1946 – 1956).
- Quân Pháp rút khỏi Việt Nam sau khi thua trận ở Điện Biên Phủ, buộc
Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ và trong thời kỳ đất nước Việt Nam bị chia cắt
khiến Trung Quốc; Đài Loan; Philippines tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và
Trường sa thuộc quyền quản lý, bảo vệ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
(1956 – 1975).

3.4. Một số vụ “gây hấn” của Trung Quốc đối với Việt Nam trên biển
Đông trong thời gian gần đây.
Ngày 07/05/2009 Trung Quốc chính thức yêu cầu Liên Hiệp Quốc lưu

truyền trong cộng đồng các nước thành viên tấm bản đồ thể hiện đường lưỡi bò
(đường chữ U hay đường đứt khúc chín đoạn).
Ngày 26/05/2011 ba tàu Hải giám của Trung Quốc mang số hiệu 12, 17 và
84 cắt cáp của tàu Bình Minh 02 đang làm nhiệm vụ thăm dò khảo sát địa chấn
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

17


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

bằng phương pháp thu nổ tại lô 125 – 126 và 148 – 149 thuộc vùng lãnh hải của
Việt Nam.
Ngày 21/06/2012 Trung Quốc tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam
Sa” (Trung Quốc chọn đảo Phú Lâm và đặt tên là Vĩnh Hưng làm thủ phủ).
Ngày 02/07/2012 đội tàu tuần tra Trung Quốc gồm bốn tàu Hải giám mang
số hiệu 83, 84, 66, 71 đã rời bãi đá Chữ thập tại quần đảo Trường Sa vốn thuộc chủ
quyền không thể tranh cải của Việt Nam và bắt đầu các cuộc diễn tập tuần tra phi
pháp trên biển Đông.
10 giờ 00 ngày 12/07/2012 (giờ Việt Nam). Trung Quốc xua 30 tàu cá chia
thành hai biên đội gồm 6 tổ nhỏ từ cảng Tam Á đến khu vực gần đảo Đá Chữ Thập
thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 21/07/2012 Trung Quốc tổ chức Đại hội Đại biểu nhân dân khóa I,
trong đó có hơn 1100 cử tri thuộc ba đảo mà Trung Quốc gọi là “thành phố Tam
Sa” đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân.
Ngày 24/07/2012 trên đảo Phú Lâm, bất chấp Luật pháp quốc tế và sự phản
đối từ phía Việt Nam và các nước ASEAN khác, Trung Quốc ngang ngược và
trắng trợn tổ chức lễ ra mắt cái gọi là “thành phố Tam Sa”. Buổi lễ được truyền
hình trực tiếp trên đài truyền hình trung ương Trung Quốc.

Ngày 25/08/2012 Trung Quốc bắt đầu xây dựng các cơ sở xử lý rác thải cho
cái gọi là “thành phố Tam Sa”. Trung Quốc sẽ xây dựng cơ sở tập kết và xử lý rác
thải trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 28/08/2012 Tổng công ty dầu khí Trung Quốc (CNOCC) công bố mời
thầu quốc tế 26 lô dầu khí, trong đó có lô dầu khí 65/12 nằm cách đảo Cây thuộc
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam khoảng 3 hải lý.
Ngày 23/09/2012 báo chí Trung Quốc đưa tin nước này sẽ sử dụng máy bay
không người lái tăng cường giám sát các vùng biển, trong đó có quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

18


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Ngày 01/10/2012 Trung Quốc tổ chức lễ kéo cờ kỷ niệm Quốc khánh tại đảo
Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 08/10/2012 Trung Quốc thành lập phòng khí tượng “thành phố Tam
Sa” trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 10/11/2012 Trung Quốc đã khởi công xây dựng nhà máy lọc nước
biển trị giá 70 triệu nhân dân tệ (11,2 triệu USD) ở cái gọi là “thành phố Tam Sa”
trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Những hoạt động nói trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm
luật pháp quốc tế và quyền chủ quyền, quyền tài phán và quyền lợi quốc gia chính
đáng của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển
1982, vi phạm thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển

giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; đi ngược lại tinh thần tuyên bố
về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa ASEAN và Trung
Quốc. Những việc làm của phía Trung Quốc là hoàn toàn vô giá trị.

3.5. Một số bản đồ chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (NXB Thượng Hải 1904)

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

19


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” (Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của Trung Quốc được thực
hiện dưới thời nhà Thanh) Xuất bản năm 1904 ghi rõ cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam,
không hề bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa. Nguồn www.hanoimoi.com.vn

Bản đồ An Nam Nhất Thống toàn đồ (đời Minh Mạng 1820 – 1841)

Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

20


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.


Bản đồ Việt Nam thời nhà Nguyễn vẽ khoảng năm 1838, đã vẽ “Hoàng Sa”; “Vạn Lý Trường
Sa” thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam.
Nguồn: www.biengioilanhtho.gov.vn

Hồng Đức bản đồ (1774)
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

21


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Đây là một trong những bản đồ của cuốn sách “Phủ Biên Tạp Lục” do Lê Quý Đôn (1726 –
1784), một nhà Bác học Việt Nam biên soạn năm 1776. Lê Quý Đôn mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý,
tài nguyên ở Hoàng Sa và Trường Sa; công việc khai thác của Chúa Nguyễn đối với hai quần
đảo này.
Nguồn: www.biengioilanhtho.gov.vn

Bản dập mộc bản của Vua Minh Mạng năm 1836
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

22


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Bản dập mộc bản ghi việc Vua Minh Mạng giúp thuyền buôn Phương Tây
bị mắc cạn ở Hoàng Sa năm 1836

Nguồn: www.tintuc.hoasen.edu.vn

Bản đồ Phủ Biên Tạp Lục.
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

23


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Đây là một trong những bản đồ của cuốn sách “Phủ Biên Tạp Lục” do Lê Quý Đôn (1726 –
1784), một nhà Bác học Việt Nam biên soạn năm 1776. Lê Quý Đôn mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý,
tài nguyên ở Hoàng Sa và Trường Sa; công việc khai thác của Chúa Nguyễn đối với hai quần
đảo này.
Nguồn: www.biengioilanhtho.gov.vn

Bản đồ Hàng hải Châu Âu (thế kỷ XV – XVI)
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

24


SKKN: Giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh trường THPT Gia Hội,
thông qua bộ môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.

Bản đồ hàng hải Châu Âu (TK XV – XVI), thể hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như
hình cờ đuôi nheo
Nguồn: www.biengioilanhtho.gov.vn


Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
Nguyễn Đức Huyền Thắng – Trường THPT Gia Hội, Thành Phố Huế - Tỉnh TT. Huế

25


×