Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN kinh nghiệm thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học chương khúc xạ ánh sáng vật lí 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.6 KB, 35 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG PHIẾU HỌC
TẬP TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “KHÚC XẠ ÁNH
SÁNG” VẬT LÍ 11, NHẰM PHÁT HUY HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA HỌC SINH

Người thực hiện:
Chức vụ:
SKKN thuộc môn:

Vũ Thế Biên
Tổ trưởng chuyên môn
Vật lí

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC


DANH MỤC
TỪ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHT:

Phiếu học tập;



SGK:

Sách giáo khoa;

SBT:

Sách bài tập;

HS:

Học sinh;

GV:

Giáo viên;

THPT:

Trung học phổ thông;

DH:

Dạy học;

PPDH:

Phương pháp dạy học;

DHVL:


Dạy học Vật lí;

VL:

Vật lí;

SKKN:

Sáng kiến kinh nghiệm.


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm qua, Ngành giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới về
nội dung và phương pháp dạy học. Trong đó yếu tố phát triển năng lực của
Học sinh được chú trọng và đề cao. Đặc biệt để phù hợp với đổi mới giáo dục
hiện tại và trong tương lai, thì việc tăng cường năng lực tự học cho người học
là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của hoạt động dạy và học [4].
Đã có nhiều đợt tập huấn về phát huy tính tự học của HS cho Giáo viên
các cấp. Trong năm học 2017 - 2018 Sở giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa đã
mở đợt tập huấn cho Tổ trưởng chuyên môn các trường THPT trong tỉnh từ
ngày 20/3 đến 22/3/2018 về phương pháp kỹ thuật tổ chức hoạt động tự học
của Học sinh THPT môn Vật lí. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay tại các nhà
trường nói chung và các trường trên địa bàn các huyện miền núi của Thanh
hóa nói riêng việc này còn gặp nhiều khó khăn. Một số khó khăn có thể kể
đến: điều kiện về cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ dạy học còn thiếu thốn,
Học sinh có tính ì lớn lười vận động, lười tư duy. Phương pháp và hình thực
tổ chức hoạt động học cho HS của GV còn nghèo nàn, vẫn thiên về phương
pháp truyền thống: thầy cô giảng, Học sinh tiếp thu thụ động.

Trước thực trạng trên, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến việc
đổi mới PPDH theo hướng tăng cường vai trò chủ thể của HS, phát huy tính
tích cực, tự lực, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức của HS. Trong đó việc sử dụng
phiếu học tập trong dạy học là một trong những biện pháp quan trọng cần
thiết. Cũng đã có nhiều SKKN, công trình nghiên cứu về việc sử dụng PHT
trong dạy học. Tuy nhiên việc thiết kế và sử dụng PHT như thế nào cho phù
hợp và hiệu quả để phát huy được khả năng tự học của HS hiện nay là vấn đề
đang tiếp tục được bàn luận và quan tâm. Thông qua việc điều tra và trao đổi
thông tin với các đồng nghiệp tôi thấy rằng còn có nhiều đồng nghiệp chưa
thực sự hiểu đúng về PHT hoặc sử dụng PHT chưa phù hợp hiệu quả. SKKN
của tôi xin được trình bày về vấn đề này.
Thực tế hiện nay, việc sử dụng PHT trong dạy học Vật lí nói chung
chưa có hiệu quả cao và chưa có sự quan tâm đúng mức. Thực trạng này cần
được thay đổi trong xu thế đổi mới PPDH hiện nay là tăng cường hoạt động
của người học, đặc biệt là hoạt động nhóm và hoạt động cá nhân. Nguyên
nhân ở đây là do GV chưa có quan niệm cụ thể về PHT, về cách xây dựng và
sử dụng PHT trong DHVL, hoặc do việc xây dựng PHT đòi hỏi phải dành
nhiều thời gian,…vv. Do đó, việc nghiên cứu thiết kế và sử dụng PHT trong
DHVL để từ đó có thể áp dụng đối với từng phần kiến thức và bài học cụ thể
là rất thiết thực nhằm nâng cao năng lực tự học cho HS, góp phần vào đổi mới
phương pháp dạy học Vật lí phù hợp với yêu cầu dạy học hiện nay.

1


Xuất phát từ những lý do trên, qua một số năm làm thử nghiệm và đã
đạt kết quả tốt tại trường THPT Hà Văn Mao tôi đã mạnh dạn lựa chọn chủ
đề: Kinh nghiệm thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học chương
“khúc xạ ánh sáng” Vật lí lớp 11, nhằm phát huy hoạt động tự học của
Học sinh làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. Sở dĩ tôi chọn chương

“khúc xạ ánh sáng” vật lí 11 vì đây là chương đầu tiên của phần II vật lí 11 là
phần có nhiều nội dung liên quan đến thực tiễn đời sống và gần gũi với HS.
Mặt khác, trong chương này nếu dùng PHT một cách phù hợp và kết hợp với
phương tiện hỗ trợ dạy học khác như máy chiếu projecter, máy chiếu hắt,
tivi... để HS có thể quan sát những hiện tượng, hình ảnh trực quan trong thực
tế thì hiệu quả dạy và học sẽ được nâng cao đặc biệt là khả năng tự học của
HS.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận về PHT, các loại PHT và quy trình thiết kế
PHT nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS trong học tập.
Thiết kế được các mẫu phiếu học tập phù hợp chương “khúc xạ ánh
sáng” Vật lí 11. Thông qua việc thực hiện các phiếu học tập trên lớp (ở nhà)
làm nảy sinh yếu tố tìm tòi khám phá cho Học sinh, qua đó HS chủ động tìm
hiểu về vấn đề và lĩnh hội tri thức.
Ngoài ra nếu thiết kế được PHT và sử dụng chúng một cách khoa học
sẽ tăng cường được hoạt dộng nhóm, rèn luyện kỹ năng làm việc tập thể cho
HS. Qua đó làm cho HS thích thú và tự giác hơn trong học tập, từ đó nâng cao
chất lượng dạy và học của môn Vật lí ở trường THPT.
Thông qua nghiên cứu việc sử dụng PHT trong chương “khúc xạ ánh
sáng” lớp 11 đạt hiệu quả có thể mở rộng ra các chương, các bài và ở các khối
lớp khác nhau. Tất nhiên việc sử dụng PHT phải linh động phù hợp với kiểu
bài, nội dung lên lớp, không phải bài nào cũng cần đến PHT.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về thiết kế và sử dụng PHT để dạy học
chương “khúc xạ ánh sáng” Vật lí 11 nhằm tăng cường khả năng tự học của
HS tại trường THPT Hà Văn Mao - Bá Thước.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm kiểm tra kết quả vận dung đề tài ở HS
khối lớp 11 trường THPT Hà Văn Mao thông qua hoạt động dạy học trên lớp,
dự giờ, lấy ý kiến của HS, của GV và bài kiểm tra năng lực HS.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lý thuyết: Tìm hiểu về các nội dung liên quan đến đổi
mới PPDH hiện nay. Nghiên cứu về PHT, các loại PHT, quy trình thiết kế
phiếu học tập nhằm phát huy năng lực tự học cho Học sinh.
2


- Phương pháp tìm tòi, thu thập thông tin: Thu thập thông tin từ phía
GV và HS về nhu cầu và những đề xuất trong phương pháp dạy và học thông
qua dự giờ, phiếu điều tra thông tin....
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: tiến hành thực dạy, dự giờ, kiểm
tra thực nghiệp sư phạm ở các lớp để đánh giá tác dụng của PHT đến hoạt
động học của HS.
- Phương pháp thống kê: Tổng hợp xử lý số liệu để đánh giá tác dụng
của việc sử dụng PHT trong dạy học.

3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm về phiếu học tập
* Định nghĩa phiếu học tập:
PHT là phương tiện DH do GV tự thiết kế, gồm một hoặc một số tờ
giấy rời có ghi những nhiệm vụ học tập (câu hỏi, bài tập, yêu cầu...) kèm theo
những gợi ý, hướng dẫn hoặc thông tin bổ sung cho bài học... mà HS phải tự
lực hoặc hợp tác theo nhóm nhỏ để hoàn thành [1].
* Chức năng của phiếu học tập:
- Chức năng cung cấp thông tin và sự kiện: PHT có thể là văn bản, bảng
số liệu, hình ảnh, sơ đồ... tóm tắt hoặc trình bày bằng những cấu trúc nhất

định một lượng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện xuất phát cần thiết cho người
học. Trong DH hợp tác, người học có thể nghiên cứu những tư liệu này theo
phương thức cá nhân trong nhóm, hoặc cộng tác với nhau trong trong nhóm
trên cơ sở phân chia dữ liệu thành những bộ phận khác nhau cho mỗi thành
viên [1].
- Chức năng công cụ hoạt động và giao tiếp: PHT còn nêu lên nhiệm vụ
học tập, những yêu cầu hoạt động, những hướng dẫn học tập, những công việc
và vấn đề người học cần sử dụng để HS thực hiện hoặc giải quyết. Thông qua
nội dung và tính chất này nó thực hiện chức năng công cụ hướng dẫn và giao
tiếp trong quá trình học tập của người học [1].
1.2. Các dạng phiếu học tập
Tùy theo các căn cứ khác nhau mà ta có các dạng PHT khác nhau:
* Căn cứ vào chức năng của phiếu học tập có thể phân PHT thành 2
dạng sau:
- Phiếu cung cấp thông tin và sự kiện: Đây là loại phiếu có nội dung là
những thông tin bổ sung để làm rõ kiến thức cho bài học. Loại phiếu này
thường được sử dụng khi dạy những bài có nội dung trừu tượng, phức tạp,
khó hiểu hoặc những bài, mục trong sách giáo khoa viết quá ngắn, HS khó có
thể tự hiểu nếu không bổ sung thêm thông tin [1]. Để xây dựng loại phiếu này,
trước hết GV cần có quá trình thu thập thông tin thành kho tư liệu, khi cần có
thể chọn lọc, xử lý thông tin một cách nhanh chóng để đưa vào phiếu.
- Phiếu là công cụ hoạt động và giao tiếp: Loại phiếu này có nội dung
là những câu hỏi, bài tập, mệnh lệnh, yêu cầu... kèm theo những hướng dẫn,
gợi ý để HS hoàn thành nhằm lĩnh hội tri thức của bài học. Loại phiếu này
được sử dụng trong rất nhiều trường hợp khác nhau như kiểm tra bài cũ, dạy
bài mới, củng cố, ôn tập [1]. Khi sử dụng loại phiếu này trong DH, GV chỉ
phải làm ít, nói ít, còn HS phải làm việc nhiều, điều này phù hợp với quan
4



điểm DH lấy HS làm trung tâm. Tuy nhiên, sự hạn chế giao tiếp bằng lời giữa
GV và HS cũng chính là nhược điểm của loại phiếu này. Vì vậy, những câu
hỏi, yêu cầu được đưa ra phải đảm bảo cho tất cả HS đều hiểu được, điều đó
đòi hỏi cách trình bày phiếu phải hết sức khoa học, rõ ràng và chính xác.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng phiếu học tập có các dạng phiếu
sau:
- Phiếu dùng trong kiểm tra bài cũ: Phiếu này có nội dung là một đề
kiểm tra ngắn được in hoặc ghi sẵn vào phiếu có chừa chỗ trống để HS làm
ngay vào đó [1]. Dùng phiếu để kiểm tra bài cũ giúp GV có thể kiểm tra được
cùng lúc nhiều HS, khắc phục được tình trạng GV chỉ gọi một hoặc một vài
HS kiểm tra còn các HS khác chỉ ngồi nghe hoặc làm việc riêng. Tuy nhiên,
loại phiếu này cũng có nhược điểm là không phát huy được năng lực trình bày
và diễn đạt bằng lời nói trực tiếp của HS. Vì vậy, tránh dùng tràn lan loại
phiếu này mà nên kết hợp cân đối với kiểm tra bài cũ truyền thống (còn gọi là
kiểm tra miệng).
- Phiếu dùng trong dạy bài mới: Phiếu dùng trong dạy bài mới là loại
phiếu có ghi rõ các công việc được sắp xếp có hệ thống và logic để HS thực
hiện nhằm tự lực tìm ra kiến thức mới của bài học [1]. Thông thường, phiếu
này phải có gợi ý, hướng dẫn để HS có thể tự lực hoàn thành phiếu. Loại
phiếu này có thể sử dụng cho một hoặc một vài đơn vị kiến thức hay có thể
cho cả bài học. Việc sử dụng PHT trong dạy bài mới có rất nhiều ưu điểm như
phát huy tính tích cực học tập của HS, tự lực tìm ra kiến thức mới, tiết kiệm
được thời gian giao câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ học tập, GV có thể nhận biết
được thái độ, năng lực học tập của từng HS.... Bên cạnh đó, việc sử dụng
phiếu cũng có những hạn chế như việc giao tiếp bằng lời giữa GV và HS
không nhiều, không phải bất cứ HS nào cũng hiểu được và làm được những
yêu cầu mà GV đưa ra để có thể tiếp thu được bài mới, do đó, cần có sự
hướng dẫn riêng đối với những HS này.
- Phiếu dùng trong củng cố bài: Phiếu dùng để củng cố bài là loại
phiếu có những câu hỏi, bài tập, những yêu cầu được viết sẵn trên giấy, có

chừa sẵn chỗ trống để HS thực hiện nhằm mục đích khái quát hóa, hệ thống
lại những kiến thức, kỹ năng vừa mới học [1]. Phiếu này thường được dùng
lúc gần cuối tiết học sau khi học xong bài mới, hoặc có thể dùng sau khi học
xong một phần nào đó của bài mà cần củng cố lại kiến thức của phần đó ngay.
- Phiếu dùng để giao bài về nhà: Đây là loại phiếu được HS thực hiện ở
nhà. Phiếu này dùng để ra bài về nhà là những câu hỏi, bài tập, ... có mục đích
yêu cầu HS vận dụng, ôn tập lại những kiến thức, kỹ năng vừa được học hoặc
tìm hiểu bài mới trước khi đến lớp.
* Căn cứ vào nội dung của phiếu học tập có các dạng phiếu sau:

5


- Phiếu bài tập: Phiếu bài tập là dạng phiếu yêu cầu HS làm bài tập,
trên phiếu có nội dung là những bài tập mà HS cần giải quyết. Những bài tập
này có thể được cho đáp số hoặc trình bày dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm [1].
Để giải được những bài tập này yêu cầu HS phải vận dụng linh hoạt các kiến
thức đã học, qua đó rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho HS. Loại phiếu này
thường được dùng trong tiết bài tập hoặc để củng cố, giao bài về nhà.
- Phiếu yêu cầu giải quyết tình huống: Phiếu yêu cầu giải quyết tình
huống là dạng PHT có nội dung nêu tình huống và vấn đề thảo luận hoặc
nghiên cứu yêu cầu HS phải giải quyết để lĩnh hội các tri thức mới. Loại
phiếu này thường được dùng để dạy bài mới, ra bài về nhà hoặc để kiểm tra
bài cũ.
- Phiếu thực hành: Phiếu thực hành là loại phiếu có nội dung là những
nhiệm vụ thực hành, rèn luyện các kỹ năng thực hành, thí nghiệm. Loại phiếu
này thường được sử dụng khi dạy các bài thực hành [1].
* Căn cứ vào tiêu chí phát triển kỹ năng có thể phân loại PHT thành
các dạng sau:
- Phiếu phát triển kỹ năng quan sát: Đối với loại phiếu này, nội dung

của phiếu là những câu hỏi, nhiệm vụ học tập mà HS phải sử dụng thị giác,
phối hợp với các giác quan khác để xem xét các sự vật, hiện tượng một cách
có ý thức, có mục đích nhằm thu thập thông tin về sự vật, hiện tượng [1]. Đối
tượng quan sát ở đây có thể là hình vẽ, đồ thị, một thí nghiệm, một đoạn
video... Những hình vẽ, đồ thị có thể in sẵn vào phiếu hoặc có thể dùng hình
vẽ trong SGK.
- Phiếu phát triển kỹ năng phân tích: Loại phiếu này đòi hỏi HS phải sử
dụng kỹ năng phân tích để xem xét các nội dung kiến thức trình bày trong
SGK, các sự vật, hiện tượng nhằm rút ra những nhận xét, kết luận để hoàn
thành PHT.
- Phiếu phát triển kỹ năng so sánh: Đây là loại phiếu mà để hoàn thành
nó HS phải nhận xét, so sánh các sự vật, hiện tượng để rút ra được những
điểm giống và khác nhau của nội dung cần so sánh.
- Phiếu phát triển kỹ năng quy nạp, khái quát hóa: Loại phiếu này đòi
hỏi HS phải nắm bắt được những sự kiện riêng biệt từ đó rút ra kết luận, khái
quát hóa kiến thức... hay nói cách khác logic hình thành nội dung nghiên cứu
là đi từ cái riêng đến cái chung, tổng thể.
- Phiếu phát triển kỹ năng suy luận, đề xuất giả thuyết: Loại phiếu này
đòi hỏi các em phải tư duy để suy luận đề xuất ra những ý tưởng mới, những
cách giải quyết mới.
1.3. Vai trò của phiếu học tập trong dạy học phát huy tính tích cực
nhận thức của Học sinh
6


Việc đổi mới PPDH hiện nay đều hướng tới mục tiêu phát huy tính tích
cực nhận thức của HS. Hầu hết các nhà nghiên cứu giáo dục đều cho rằng
PPDH hiệu quả nhất là PPDH trong đó đề cao hoạt động chủ động, tích cực,
sáng tạo của HS. Để thực hiện được PPDH tích cực đó, đáp ứng được mục
tiêu đổi mới PPDH, một trong những điều kiện quan trọng cần phải có, đó là

phương tiện DH phải được đáp ứng đầy đủ [4].
Phiếu học tập là một phương tiện DH do GV tự thiết kế bao gồm những
nhiệm vụ học tập được trình bày một cách logic, khoa học, trong đó GV đã
tính toán kĩ từng bước nhỏ, vừa sức với HS để các em có thể tự làm được, qua
đó có thể tự mình chiếm lĩnh kiến thức mới. PHT đồng thời cũng là công cụ
để GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS. HS sử dụng PHT như một tài
liệu học tập để thực hiện các nhiệm vụ học tập được giao nhằm lĩnh hội kiến
thức mới. Thông qua các hoạt động cá nhân hay hoạt động nhóm, HS rèn
luyện được kỹ năng học tập độc lập hay học tập hợp tác, kỹ năng trình bày ý
kiến, thảo luận,...
Khi sử dụng PHT, HS phải tự nghiên cứu SGK và các tài liệu tham
khảo, mọi HS phải tự thực hiện nhiệm vụ được giao trong PHT, hạn chế được
thói quen ỷ lại, dựa dẫm của đa số HS kém và trung bình. Trong lúc HS tiến
hành các hoạt động học tập bằng tay, các biến đổi sinh hóa được diễn ra một
cách mạnh mẽ, sâu sắc trong não của các em, giúp các em hiểu sâu và nhớ lâu
bài học. Trong quá trình thảo luận để hoàn thành phiếu, HS được tự do trình
bày ý kiến của mình trước lớp, qua đó sẽ bộc lộ những quan niệm của HS, từ
đó GV sẽ có hướng khắc phục các quan niệm của HS, đặc biệt là những quan
niệm sai lầm, không chính xác. Đồng thời, khi tiếp nhận những ý kiến đóng
góp, sửa đổi của các HS khác trong nhóm, lớp, của GV, các em sẽ phần nào tự
đánh giá được kết quả làm việc của mình.
Mặt khác, trong quá trình HS thực hiện nhiệm vụ trong PHT, qua quan
sát, GV có thể thu nhận được thông tin về năng lực, thái độ học tập của HS để
có biện pháp uốn nắn kịp thời. Đồng thời, qua các sản phẩm của quá trình làm
việc bằng tay của HS, GV có được nguồn thông tin phản hồi trung thực hơn,
từ đó điều chỉnh được PPDH của mình.
Như vậy, việc sử dụng PHT đóng một vai trò quan trọng trong DH phát
huy tính tích cực nhận thức của HS. Do đó, việc nghiên cứu thiết kế và đưa
vào sử dụng PHT trong dạy học Vật lí là rất quan trọng và cần thiết.
2. Thực trạng vấn đề

Để biết rõ về tình hình thực tế của việc thiết kế và sử dụng PHT trong
dạy học Vật lí, làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài tôi đã tiến hành trao đổi
và dự giờ các tiết dạy của các GV ở trường THPT Hà Văn Mao ở nhiều môn
khác nhau. Qua khảo sát thăm dò ý kiến của GV cho thấy tình hình thực tế
của việc thiết kế và sử dụng PHT trong DHVL hiện nay như sau:
7


- Đa số GV thừa nhận PHT rất quan trọng và cần thiết trong DH phát
huy tính tích cực nhận thức của HS, tuy nhiên kinh nghiệm thiết kế PHT cho
phù hợp với đối tượng phát huy được tính chủ động của người học còn gặp
khó khăn, chưa được đầu tư.
- Có rất ít GV sử dụng PHT ở mức độ thường xuyên, phần nhiều các
GV có sử dụng PHT nhưng ở mức độ không thường xuyên. Số GV hoàn toàn
không sử dụng PHT chiếm tỉ lệ ít đó là những GV lớn tuổi, có kinh nghiệm
DH lâu năm.
- Đa số GV sử dụng hình thức DH theo nhóm và theo cá nhân. Trong
đó chủ yếu là hình thức DH theo nhóm được nhiều GV quan tâm hơn cả.
- Qua kết quả thăm dò ý kiến GV cho thấy hầu hết các GV thường sử
dụng PHT trong khâu củng cố bài và dạy bài mới là chính. Trong đó, phần
nhiều GV ưu tiên sử dụng PHT trong khâu củng cố bài, việc sử dụng PHT
trong khâu kiểm tra bài cũ thì được lựa chọn ít hơn so với trong khâu dạy bài
mới và rất ít GV sử dụng PHT để giao bài về nhà. Cũng có ý kiến GV cho
rằng việc sử dụng PHT trong khâu nào của quá trình DH còn tùy thuộc vào
từng bài học.
- Khi điều tra về những thuận lợi và khó khăn trong việc thiết kế và sử
dụng PHT trong DHVL ở trường THPT Hà Văn Mao, tôi đã thu được những ý
kiến như sau:
* Thuận lợi
Các GV cho rằng ý thức học tập của HS đối với môn Vật lí ngày càng

cao, hơn nữa Học sinh THPT đang hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu
nên rất thích hợp cho việc học tập độc lập, tự làm việc theo hướng dẫn của
PHT.
Bên cạnh đó, theo xu thế đổi mới PPDH hiện nay, nhà trường đang
khuyến khích, ủng hộ các GV tiếp cận những phương pháp mới nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập. Đây là nguồn
động viên rất lớn cho GV trong việc sử dụng các PPDH mới.
Ngoài ra, việc sử dụng PHT còn giúp GV đánh giá được thái độ và khả
năng học tập của HS thông qua quá trình quan sát HS làm việc với phiếu và từ
kết quả thể hiện trên phiếu học tập.
* Khó khăn
Hầu hết GV đều gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình thiết kế và sử
dụng PHT, trong đó khó khăn mà không phải ai cũng khắc phục được đó là
việc soạn PHT mất nhiều thời gian, GV phải đầu tư nhiều công sức, việc in
sao phiếu lại rất tốn kém đối với mức thu nhập của người GV. Hơn nữa, thời
gian tiết học thì quá ngắn không đủ để HS làm việc với phiếu. Ngoài ra, cơ sở
vật chất, thiết bị, đồ dùng DH trong tình hình hiện nay còn lạc hậu, thiếu thốn,
8


số lượng HS trong một lớp học còn quá đông,... chưa đáp ứng được yêu cầu
khi sử dụng PHT.
3. Các biện pháp tiến hành nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về thiết kế và sử dụng PHT trong DHVL.
Các tài liệu liên quan đến phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực.
- Nghiên cứu chuẩn kiến thức kỹ năng yêu cầu trong chương 6 “khúc
xạ ánh sáng”. Chương trình SGK, SBT Vật lí 11 và các sách tham khảo.
- Thiết kế và sử dụng PHT trong DH chương “khúc xạ ánh sáng” Vật lí
11 chương trình chuẩn.
- Thiết kế giáo án mẫu về sử dụng PHT của một bài trong chương

“khúc xạ ánh sáng” Vật lí 11.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở khối 11 trong trường THPT Hà Văn
Mao để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng PHT trong DHVL.
4. Kinh nghiệm thiết kế phiếu học tập trong dạy học
4.1. Quy trình thiết kế phiếu học tập
Bước 1: Xác định những nội dung DH quan trọng, cụ thể trong từng
bài.
Xác định mục tiêu bài học và mục tiêu từng phần của bài học để nắm
được cái đích mà HS cần phải đạt tới. Trên cơ sở xác định mục tiêu từng phần
của bài học, GV cần phân tích nội dung của bài học để xác định các kiến thức
trọng tâm và các kỹ năng cơ bản của bài học. Từ đó GV vạch ra nhiệm vụ cụ
thể của HS ở từng phần của bài học: Cần làm gì? Giải quyết những vấn đề gì?
... Đồng thời, GV cũng cần xác định các hình thức, phương pháp và phương
tiện DH cần sử dụng trong bài học. Dựa vào đó, GV xác định những phần nội
dung cụ thể trong bài cần sử dụng PHT.
Bước 2: Xác định cấu trúc, lôgic các nội dung DH của PHT.
Nội dung của PHT được xác định thường dựa vào những kiến thức
trọng tâm của phần nội dung cần sử dụng PHT. Đó là những kiến thức, kỹ
năng cơ bản mà HS cần khám phá, lĩnh hội và rèn luyện. Nội dung PHT có
thể là các câu hỏi, bài tập thực hành, bài tập xử lý tình huống, yêu cầu giải
quyết vấn đề hay viết báo cáo tham luận, làm đồ dùng học tập, thực hiện bài
kiểm tra... Các nội dung này phải được trình bày theo đúng thứ tự logic của
quá trình nhận thức
Bước 3: Lựa chọn hình thức trình bày PHT.
Hình thức trình bày PHT có thể là văn bản, bảng điền kiến thức hoặc sơ
đồ, biểu mẫu,... Để tăng hứng thú học tập cho HS, khi thiết kế PHT, GV cần
tăng tính thẩm mỹ của PHT và đa dạng hóa về hình thức trình bày. Tăng
9



cường sử dụng kết hợp kênh hình và kênh chữ nhằm giúp HS tiếp nhận thông
tin nhanh hơn và nhớ bài tốt hơn.
Bước 4: Biên soạn phiếu học tập
Dựa vào mục tiêu, nội dung, tài liệu và phương tiện đã xác định, đồng
thời dựa vào mức độ nhận thức của HS trong lớp để GV đưa ra các câu hỏi,
bài tập cho phù hợp. Các thông tin, nhiệm vụ học tập được giao trong phiếu
phải được trình bày một cách rõ ràng, ngắn gọn dưới dạng tường minh. Các
câu hỏi, nhiệm vụ học tập đưa ra trong phiếu phải đảm bảo mọi HS đều hiểu
được phải làm gì. Thông thường, những yêu cầu đưa ra cần phải chỉ rõ căn cứ,
nguồn để HS có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ đề ra, như: “Căn cứ vào....
hãy cho biết...”, “Dựa vào... hãy chứng minh...”, “Từ thí nghiệm ... hãy nhận
xét...”. Sau mỗi câu hỏi, bài tập cần có một khoảng trống thích hợp để HS
trình bày kết quả. Khối lượng công việc cần phù hợp với thời gian suy nghĩ và
thời gian trình bày phiếu. Mỗi phiếu có thể thể hiện một đơn vị kiến thức hoặc
nhiều đơn vị kiến thức.
4.2. Phiếu học tập để tổ chức học bài mới
Phiếu dùng trong dạy bài mới là loại phiếu hỗ trợ cho quá trình nhận
thức bài mới của HS. Trong phiếu có ghi rõ các yêu cầu, được sắp xếp có hệ
thống và logic để HS thực hiện nhằm tự lực tìm ra kiến thức mới của bài học
[1]. Thông thường, phiếu này phải có gợi ý, hướng dẫn để HS có thể tự lực
hoàn thành phiếu. Loại phiếu này có thể sử dụng cho một hoặc một vài đơn vị
kiến thức hay có thể cho cả bài học (phụ lục 1).
Việc sử dụng PHT trong dạy bài mới có rất nhiều ưu điểm như phát huy
tính tích cực học tập của HS, tự lực tìm ra kiến thức mới, tiết kiệm được thời
gian giao câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ học tập, GV có thể nhận biết được thái
độ, năng lực học tập của từng HS... Bên cạnh đó, việc sử dụng phiếu cũng có
những hạn chế như việc giao tiếp bằng lời giữa GV và HS không nhiều,
không phải bất cứ HS nào cũng hiểu được và làm được những yêu cầu mà GV
đưa ra để có thể tiếp thu được bài mới, do đó, cần có sự hướng dẫn riêng đối
với những HS này.

4.3. Phiếu học tập để Học sinh tự học ở nhà
Việc học tập ở nhà của HS là nguồn dự trữ quan trọng để nâng cao kết
quả học tập. Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của HS gắn bó hữu cơ với
sự cần thiết phải cải tiến hơn nữa công tác học tập ở nhà của các em. Vật lý
học là môn học có kiến thức liên quan chặt chẽ với kỹ thuật và đời sống. Vì
vậy, nếu HS chỉ dành thời gian học trên lớp thôi thì không đủ để các em nắm
vững được các kiến thức, sẽ không vận dụng chúng một cách có hiệu quả để
giải quyết được những vấn đề mà thực tiễn đặt ra [5]. Như N. K. Crupxkaia đã
nói: “Nếu việc học ở nhà của HS được tổ chức tốt, nó sẽ rèn luyện cho HS

10


thói quen làm việc tự lực, giáo dục cho HS những tình cảm, tinh thần trách
nhiệm, giúp các em nắm vững tri thức, kỹ năng và kỹ xảo”.
Công việc học tập ở nhà của HS có những đặc điểm sau:
+ Thứ nhất, là công việc được tiến hành trong một thời gian ngắn
không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV. HS phải tự mình hoàn thành, tự
kiểm soát công việc mình làm.
+ Thứ hai, là công việc này được thực hiện tuần tự tuỳ theo hứng thú,
nhu cầu và năng lực của HS.
+ Thứ ba, là dễ bị chi phối bởi những ngoại cảnh khác nhau.
Việc học tập ở nhà của HS phụ thuộc vào việc DH trên lớp, vào sự
hướng dẫn và yêu cầu nhiệm vụ về nhà của GV. Vì vậy, khi thiết kế PHT cho
HS trong quá trình tự học ở nhà, GV nên đưa ra yêu cầu có tính hệ thống đảm
bảo cho việc học tập của HS có một trình tự chặt chẽ, nhờ đó mà HS có thể tự
lực giải quyết các yêu cầu kể cả những yêu cầu khó. Việc này giúp HS học tập
có kế hoạch và có thể tự lực giải quyết được nhiều yêu cầu của GV.
Chọn những nội dung để đưa vào PHT trước hết là giúp các em ôn tập,
củng cố được kiến thức đã thu nhận trên lớp. Những nội dung này phải phù

hợp với HS cả về mức độ và số lượng, và phải đảm bảo rèn luyện được cho
HS các kỹ năng vận dụng kiến thức. Tiếp theo, GV chọn những yêu cầu mang
tính chất sáng tạo nhiều hơn, vì khi tự học ở nhà các em sẽ chủ động hơn về
thời gian cũng như tài liệu tham khảo. Vì vậy, GV phải đầu tư, tránh đưa ra
những yêu cầu có nội dung giống hệt như SGK hay SBT.
Ngoài ra, trong PHT để HS tự học ở nhà GV nên hướng dẫn HS chuẩn
bị trước nội dung kiến thức, cũng như chuẩn bị một số công việc cho bài học
sau. Ngay cả trong nội dung luyện tập cũng cần thiết mang những yếu tố
chuẩn bị cho việc tiếp thu kiến thức mới. Sự chuẩn bị này giúp cho việc tiếp
thu kiến thức của các em được thuận lợi hơn, các em nhanh chóng nắm bắt
được kiến thức mới. Những yêu cầu mà GV cho HS chuẩn bị không những
giúp cho HS đỡ bỡ ngỡ trước kiến thức mới mà còn giúp HS giải quyết được
nhanh chóng phần kiến thức của bài mới. Từ đó, GV sẽ có nhiều thời gian
hơn trong khâu củng cố, giúp HS hệ thống kiến thức được sâu sắc hơn (phụ
lục 3).
4.4. Nguyên tắc sử dụng phiếu học tập
Khi sử dụng PHT trong DHVL để đạt hiệu quả tốt, Tôi thấy rằng Giáo
viên cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
4.4.1. Sử dụng đúng mục đích, đúng nội dung, đúng đối tượng
Các loại PHT có tác dụng hình thành kiến thức, rèn luyện các kỹ năng
khác nhau. Nếu là bài lý thuyết thì PHT yêu cầu khai thác kiến thức lý thuyết,
11


nếu là bài thực hành thì PHT phải yêu cầu rèn luyện kỹ năng thí nghiệm, thực
hành.
Việc sử dụng PHT cũng cần lưu ý đến đối tượng HS ở các vùng miền
khác nhau và trình độ nhận thức chung của lớp mà thiết kế và sử dụng PHT
có nội dung phù hợp.
4.4.2. Sử dụng vừa đủ số lượng phiếu học tập trong một tiết học

Sử dụng quá nhiều phiếu trong một tiết học sẽ mất thời gian phát phiếu,
tốn kém trong in ấn, mà lại không đủ thời gian để xử lý những tình huống
ngoài dự kiến. Vì vậy, nếu sử dụng phiếu trong tiết dạy bài mới (nếu được) thì
nên kết hợp các nội dung kiến thức thành một phiếu.
4.4.3. Sử dụng phiếu học tập kết hợp với các tài liệu học tập và
phương tiện dạy học khác
Việc DH VL rất cần sử dụng các đồ dùng DH như SGK, dụng cụ tiến
hành thí nghiệm, tranh ảnh, mô hình máy móc hoặc những thí nghiệm không
tiến hành trực tiếp được thì cần các video mô phỏng thí nghiệm... Bên cạnh
đó, các phương tiện DH như đèn chiếu projector, máy chiếu overheat,... giúp
cho GV thuận lợi hơn trong việc giảng dạy và tiết kiệm được thời gian. Do
đó, để phát huy tốt tính tích cực nhận thức của HS, GV cần sử dụng PHT kết
hợp với các tài liệu học tập và phương tiện DH khác.
5. Hiệu quả của việc dùng phiếu học tập trong dạy học
Việc sử dụng phiếu học tập trong dạy học chương “khúc xạ ánh sáng”
môn Vật lí 11, tôi đã thực hiện trong một số năm gần đây và đã mở rộng cho
các chương, bài và ở các khối lớp khác nhau. Sau nhiều lần rút kinh nghiệm
trong thiết kế mẫu phiếu, hình thức giao nhiệm vụ cho Học sinh bằng phiếu
học tập, tôi rút ra được một số kết quả sau đây:
- Học sinh hứng thú và chủ động hơn trong việc thảo luận trên lớp.
- Những phiếu giao về nhà được HS chuẩn bị tích cực hơn, đặc biệt
những phiếu là dạng câu hỏi tìm tòi, những tình huống Vật lí trong thực tế tự
nhiên để tiếp cận bài mới, sau khi có sự chuẩn bị HS lên lớp trao đổi mạnh
dạn hơn.
- Việc sử dụng PHT thay cho việc yêu cầu các em Học sinh về đọc
SKG để chuẩn bị bài mới là hiệu quả hơn rõ rệt. Qua việc đánh giá sự chuẩn
bị các PHT GV có thể cho điểm động viên khích lệ HS.
- Tính tự học của HS được nâng lên, HS năng động hơn trong việc lĩnh
hội kiến thức mới.
- Cụ thể về kết quả thực nghiệm sư phạm như sau:

+ Trước hết tôi họp nhóm chuyên môn phân công GV dạy ở hai lớp
khác nhau và dự giờ cùng một bài trong chương “khúc xạ ánh sáng” Vật lí 11.
12


Trong đó, một lớp dạy theo phương pháp truyền thống bình thường, một lớp
dùng PHT. Thông qua việc dự giờ tôi đã quan sát HS làm việc với PHT kết
hợp với lấy ý kiến của Học sinh về việc dùng PHT. Hầu hết HS đều hứng thú
với PHT, bản thân GV giảng dạy cũng thoải mái đỡ vất vả hơn vì làm việc ít
hơn. Thông qua quan sát HS làm việc, GV cũng nhận định được năng lực của
mỗi HS thông qua các hoạt động nhóm.
+ Sau đó bản thân tôi trực tiếp dạy chương “khúc xạ ánh sáng” ở hai
lớp (học theo chương trình chuẩn) đó là lớp 11A2 và 11A3 trường THPT Hà
Văn Mao năm học 2016 - 2017. Trong đó lớp 11A2 dùng PHT trong dạy học
còn lớp 11A3 không dùng PHT. Sau khi kết thúc chương tôi cho HS hai lớp
làm bài kiểm tra (phụ lục 5) và kết quả như sau:
TC
Lớp

Số HS

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu


32

6

14

11

1

(100%)

(18,75%
)

(43,75%)

(34,38%)

(3,12%)

35

3

12

16

4


(100%)

(8,57%)

(34,29%)

(45,71%)

(11,43%)

kiểm tra

11A2

11A3

+ Trong năm học 2017 - 2018 tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm ở hai
lớp 11A4 và 11A6. Trong đó, lớp 11A6 tôi sử dụng PHT trong dạy học còn
11A4 thì không. Sau khi kết thúc chương 6 tôi tiến hành kiểm tra ở hai lớp kết
quả như sau:
TC
Lớp

11A4

11A6

Số HS


Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

43

0

12

23

8

(100%)

(0%)

(27,9%)

(53,5%)

(18,6%)

41


4

17

18

2

(100%)

(9,7%)

(41,5%)

(43,9%)

(4,9%)

kiểm tra

+ Qua kết quả thực nghiệm trong hai năm học 2016 - 2017 và 2017 2018 cho thấy, việc sử dụng PHT trong dạy học đã có tác động tích cực đến
kết quả học tập của HS. Ngoài kết quả thể hiện ở điểm số thì việc dùng PHT
trong dạy học còn hình thành các kỹ năng cần thiết cho Học sinh như làm việc
tập thể, thuyết trình...vv.
13


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ và những kết quả nghiên cứu trong quá
trình thực hiện đề tài: Kinh nghiệm thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong
dạy học chương “khúc xạ ánh sáng” Vật lí lớp 11, nhằm phát huy hoạt
động tự học của Học sinh tôi thu được một số kết quả sau:
- Đề tài đã trình bày được cơ sở lí luận của việc thiết kế và sử dụng
PHT trong DHVL theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức cho HS, tăng
cường khả năng tự học cho HS. Đây là cơ sở lí luận cho việc thiết kế và sử
dụng PHT trong dạy học nói chung có thể áp dụng cho các môn học khác
nhau.
- Đề tài cũng đã nêu rõ các bước thực hiện trong thiết kế PHT, khi nào
thì nên sử dụng PHT, thiết kế và sử dụng PHT thế nào để phù hợp với người
học để đạt hiệu quả cao nhất, không gây nhàm chán cho HS. Đây là yếu tố
quyết định đến hiệu quả của đề tài mà tôi trình bày ở trên.
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm chương trình, chuẩn kiến thức kỹ
năng của chương “khúc xạ ánh sáng” Vật lí 11, đề tài đã xây dựng quy trình
thiết kế và tiến hành thiết kế các PHT cho các bài trong chương phù hợp với
đặc điểm HS trường THPT Hà Văn Mao. Bên cạnh đó tôi cũng đưa vào một
bài soạn mẫu tiết dạy có sử dụng PHT (phụ lục 4).
- Với những kết quả thu được, đề tài cũng chỉ ra một khả năng và triển
vọng trong việc khai thác, xây dựng và sử dụng PHT theo hướng tích cực hoá
hoạt động nhận thức cho HS. Đặc biệt với xu hướng đổi mới chương trình
SGK, đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tự học của HS thì
PHT phần nào đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay. Qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả dạy và học Vật lí ở trường THPT nói chung và trường THPT Hà
Văn Mao nói riêng.
- Đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo cho GV trong dạy học Vật lí
THPT và cho cả các môn học khác.
2. Kiến nghị
Qua việc thực hiện đề tài này bản thân tôi xin có một số kiến nghị như
sau:

- Đối với tổ, nhóm chuyên môn: cần tăng cường đổi mới sinh hoạt
chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học. Qua đó trao đổi và thảo luận về
việc thiết kế và sử dụng PHT cho bài học đó nếu bài dạy phù hợp cho việc
dùng PHT.
- Nhà trường: cần có chế độ khuyến khích, ủng hộ GV về điều kiện vật
chất cũng như tinh thần trong việc áp dụng phương pháp dạy học có sử dụng
14


PHT vì việc dạy học có sử dụng PHT Giáo viên cần có nhiều thời gian để
thiết kế phiếu, đồng thời cần photo phiếu cho từng HS (hoặc nhóm HS).
- Các Sở, Ban, Ngành: cần có sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật
chất cho nhà trường như: giảm bớt số lượng HS trên một lớp, tăng cường các
thiết bị DH như máy chiếu, bảng học nhóm, phim giáo khoa.
Trên đây là nội dung SKKN của tôi, chắc chắn còn có nhiều thiếu sót
rất mong được quý Thầy cô và đồng nghiệp tham khảo, góp ý kiến.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 25 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Vũ Thế Biên

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thành Hưng (2004), “Thiết kế và sử dụng Phiếu học tập trong dạy
học hợp tác”, Tạp chí Phát triển Giáo Dục.
2. Nguồn internet.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), “Tài liệu tập huấn tổ trưởng chuyên môn
về phương pháp và kỹ thuật tổ chức hoạt động tự học của Học sinh trung học
phổ thông môn Vật lí”. Tập huấn tại Thanh Hóa, từ 20/3/2018 - 23/3/2018.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), “Một số vấn đề về đổi mới PPDH ở trường
Trung học phổ thông”, Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
5. Phạm Hữu Tòng (2004), “Dạy học Vật lí ở trường phổ thông theo định
hướng phát triển, hoạt động tích cực, tự chủ, sáng tạo và tư duy khoa học”,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
6. Lương Duyên Bình, Vũ Quang (2006), “Sách giáo khoa, sách bài tập Vật lí
11”, NXB Giáo dục.


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
--Họ và tên tác giả:

Vũ Thế Biên

Chức vụ và đơn vị công tác: TTCM, trường THPT Hà Văn Mao - Bá Thước

TT

1

2


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
Kết quả
giá, xếp loại đánh giá
xếp loại

Ứng dụng mối liên hệ giữa Sở Giáo dục
chuyển động tròn đều và và Đào tạo
dao động điều hòa, để giải Thanh Hóa
bài toán về dao động điều
hòa.
Kinh nghiệm giải nhanh bài Sở Giáo dục
toán cực trị trong dòng điện và Đào tạo
xoay chiều không phân Thanh Hóa
nhánh.

Năm học
được đánh
giá xếp loại

Loại C

2012-2013

Loại C

2014-2015



PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các PHT Trong dạy kiến thức mới trên lớp
1. PHT dùng trong DH bài: ““khúc xạ ánh sáng””
PHIẾU HỌC TẬP SỐ ......
(Dùng trong DH phần II bài 26-”khúc xạ ánh sáng”, SGK vật lý 11)
----1. Quan sát thí nghiệm khảo sát hiện tượng “khúc xạ ánh sáng” (hình 26.3
SGK), cho biết các phát biểu sau đây đúng hay sai? (Hãy điền từ “đúng” hoặc
“sai” vào cột nhận xét trong bảng sau).
Phát biểu

Nhận xét

a) Tia khúc xạ nằm trong mặt phẳng tới.
b) Tia tới và tia khúc xạ nằm về một phía so với pháp tuyến tại
điểm tới.
c) Khi tăng góc tới thì góc khúc xạ tăng theo.
2. Quan sát thí nghiệm và ghi giá trị các góc tới i và góc khúc xạ r vào bảng
sau. Tính các tỉ số và

.
i
r
i
r
sin i
sin r

3. Từ kết quả đã tính ở trên em có kết luận gì về mối quan hệ giữa góc khúc
xạ r và góc tới i. Nguyên nhân của sai khác rất nhỏ trong kết quả tính các tỉ số

là gì?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................


.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
2. Các PHT dùng trong dạy học bài: “Phản xạ toàn phần”
PHIẾU HỌC TẬP SỐ ......
(Dùng trong DH phần I bài 27. Phản xạ toàn phần, SGK vật lý 11)
----1. Chiếu tia sáng đi từ môi trường chiết quang kém (chiết suất n 1) sang môi
trường chiết quang hơn (chiết suất n2) (Hình 27.1- SGK). Thay đổi góc tới i.
Quan sát thí nghiệm và áp dụng định luật “khúc xạ ánh sáng” hãy trả lời các
câu hỏi sau:
a) Góc tới i và góc khúc xạ r có thể lấy các giá trị trong khoảng nào?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
b) Góc tới i và góc khúc xạ r góc nào lớn hơn? Vì sao?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
c) Ta đã biết nếu tăng dần góc tới i thì góc khúc xạ r cũng tăng theo. Góc tới i
đạt tới giá trị lớn nhất thì góc khúc xạ r đạt giá trị giới hạn i gh. Lập công thức
tính igh theo n1, n2?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
d) Kết luận về sự tồn tại tia khúc xạ:
.............................................................................................................................

.............................................................................................................................
2. Chiếu tia sáng đi từ môi trường chiết quang hơn (chiết suất n 1) sang môi
trường chiết quang kém (chiết suất n2) (Hình 27.2- SGK). Thay đổi góc tới i.
Quan sát thí nghiệm và áp dụng định luật “khúc xạ ánh sáng” hãy trả lời các
câu hỏi sau:
a) Góc tới i và góc khúc xạ r góc nào lớn hơn? Vì sao?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................


b) Khi góc tới i tăng dần thì góc khúc xạ có thể nhận giá trị lớn nhất bằng bao
nhiêu?
.............................................................................................................................
c) Khi góc tới i đạt giá trị i gh thì góc khúc xạ r có giá trị lớn nhất. Lập công
thức tính igh theo n1, n2?
.............................................................................................................................
d) Khi góc tới i > igh thì hiện tượng gì xảy ra ở mặt phân cách?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

PHIẾU HỌC TẬP SỐ......
(Dùng trong phần III, bài 27: Phản xạ toàn phần, SGK vật lý 11).
----Đọc phần III, trang 171 SGK Vật lí 11. Hãy trình bày tóm tắt: Cấu tạo
của sợi quang? Sự truyền dẫn ánh sáng trong sợi quang? Các ứng dụng của
sợi quang và cáp quang?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................


Phụ lục 2: Các PHT Dùng để củng cố bài
1. PHT dùng củng cố bài trong DH bài 26: ““khúc xạ ánh sáng””
PHIẾU HỌC TẬP SỐ .......
(Dùng trong phần củng cố bài 26: “khúc xạ ánh sáng”, SGK vật lý 11).
---1. Hình vẽ biểu thị đúng một tia sáng đi từ môi trường kém chiết quang (n 1)
sang môi trường chiết quang hơn (n2) là:
A.

B.
n1

C.
n1

n2

n2

D.
n1


n2

n1

n2

2. Chọn câu sai:
A. Tích chiết suất tuyệt đối của một môi trường trong suốt với vận tốc truyền
ánh sáng trong môi trường đó bằng hằng số.
B. Chiết suất là đại lượng không có đơn vị.
C. Chiết suất tuyệt đối của chân không bằng 1.
D. Chiết suất tuyệt đối của các môi trường trong suốt luôn nhỏ hơn 1.
3. Một tia sáng chiếu từ nước (có chiết suất n = 4/3) ra ngoài không khí (có
chiết suất n' = 1) dưới góc tới 30°. Góc khúc xạ bằng
A. 2° 23′ .

B. 41° 48′ .

C. 22° 2′ .

D. 41° 81'.

4. Một thợ lặn làm việc dưới nước nhìn thấy Mặt Trời ở độ cao 60º (độ cao
biểu kiến: góc hợp bởi đường thẳng qua mặt trời và vị trí quan sát với mặt
phẳng nằm ngang). Độ cao thật của mặt trời là bao nhiêu? Cho biết nước có
chiết suất
A. 42º.

. Tính tròn số.

B. 48º.

C. 22º.

D. 41°.


2. PHT dùng củng cố bài trong DH bài 27: “Phản xạ toàn phần”
PHIẾU HỌC TẬP SỐ .......
(Dùng củng cố trong dạy học bài 27. Phản xạ toàn phần, SGK vật lý 11)
----Chọn phương án đúng:
Câu 1: Khi ánh sáng đi từ môi trường có chiết suất n 1 sang môi trường có
chiết suất n2 (với n1< n2) thì góc khúc xạ giới hạn được xác định bởi công
thức
A.

B.

C.

D.

Câu 2: Một tia sáng (đơn sắc) truyền trong môi trường (1), chiết suất n 1 tới
mặt phân cách với môi trường (2), chiết suất n 2≠n1. Nếu tia này phản xạ toàn
phần thì góc tới giới hạn được xác định bởi hệ thức nào?
A.

.

B.


.

C.

. với điều kiện n1
D.

với điều kiện n2>n1.

Câu 3: Chọn câu đúng. Khi xảy ra phản xạ toàn phần thì
A. mọi tia tới đều bị phản xạ và tuân theo định luật phản xạ ánh sáng.
B. chỉ có một phần nhỏ của chùm tia tới bị khúc xạ.
C. tia phản xạ rất rõ còn tia tới rất mờ.
D. toàn bộ chùm tia tới bị giữ ở mặt phản xạ.
Câu 4: Một bóng đèn nhỏ đặt dưới đáy hồ,
cách mặt nước 1m (hình vẽ). Biết chiết suất
của nước là n=4/3. Đường kính vùng trên mặt
nước có tia sáng ló ra là (làm tròn 2 chữ số
phần thập phân)
A. 2,26m.

B. 1,13m.

C. 2,54m.

D.1,33m.



×