Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh qua bài thơ “từ ấy” của tố hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.34 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
STT
Tên đề mục
Trang
1
Mục lục
1
1. MỞ ĐẦU
2
1.1 Lí do chọn đề tài
2
2
1.2 Mục đích nghiên cứu
4
1.3 Đối tượng nghiên cứu
4
1.4 Phương pháp nghiên cứu
4
2. NỘI DUNG
5
2.1 Cơ sở lí luận
5
2.1.1 Về lí tưởng sống của con người
5
2.1.2 Về lí tưởng cách mạng
5
2.1.3 Đánh giá về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng trong thơ
6
Việt Nam hiện đại
2.1.4 Một số hướng tiếp cận lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
7


trong thơ trữ tình
2.2 Thực trạng vấn đề
8
2.2.1 Thực trạng học sinh
8
2.2.2 Thực trạng giáo viên
9
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
10
2.3.1 Giải pháp 1: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
10
3
cho học sinh thông qua tấm gương cuộc đời hoạt động cách
mạng của nhà thơ Tố Hữu
2.3.2 Giải pháp 2: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
11
cho học sinh qua phần đọc văn bản bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu
2.3.3 Giải pháp 3: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
12
cho học sinh thông qua việc tìm hiểu văn bản tác phẩm
2.3.4 Giải pháp 4: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
14
cho học sinh thông qua bài kiểm tra đánh giá
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
15
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1 Đối với hoạt động giáo dục
15
2.4.2 Đối với bản thân
16

2.4.3 Với đồng nghiệp và nhà trường
16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI
17
4
3.1 Kết luận
17
3.2 Kiến nghị
18
5
Tài liệu tham khảo
19
6
Danh mục các SKKN đã đạt được trong các năm học trước
20
1. MỞ ĐẦU
18


1.1 Lí do chọn đề tài
Trong nhiều năm trở lại đây, hiện tượng một bộ phận lớp trẻ nói chung, học
sinh phổ thông nói riêng có nhận thức sai trái hoặc sống thiếu hoài bão, phai
nhạt lí tưởng diễn ra với những con số đáng báo động. Những vụ án, sự việc đau
lòng diễn ra trong bộ phận trẻ vị thành niên mà báo chí đưa tin trong thời gian
vừa qua là hồi chuông cảnh báo đối với mỗi chúng ta về sự xuống cấp của đạo
đức, lối sống, nhận thức, lí tưởng sống của một bộ phận thanh thiếu niên trong
xã hội ngày nay. Đặc biệt trong số này, có một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ
đang là học sinh, sinh viên bị lôi kéo tham gia vào các tổ chức chính trị, tôn giáo
phản động chống phá Đảng và nhà nước ta, đi ngược lại truyền thống đạo lí và
thuần phong mĩ tục của người Việt Nam. Những hiện tượng đó đã tác động

không nhỏ tới bộ phận những người trẻ trong xã hội, nhất là học sinh phổ thông
- lứa tuổi dễ bị tác động, lôi kéo và chưa ý thức rõ về hành vi của mình. Nó cản
trở và làm tác động xấu đến quá trình tự rèn luyện trí tuệ cũng như đạo đức,
nhân cách của học sinh. Đồng thời ảnh hưởng lớn đến quá trình giáo dục chung
của các nhà trường phổ thông.
Từ năm 1945, trong thư gửi học sinh cả nước nhân ngày khai trường đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
về“một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích
cho nước Việt Nam”. Người đã định hướng cho ngành giáo dục cách mạng phải
đặt mục tiêu đào tạo con người lên hàng đầu. Trong nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khoá XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã nêu rõ mục tiêu tổng quát của
giáo dục - đào tạo là “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu
Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả”. Trong các chương trình
trước đây, mục tiêu giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện đã được
ngành giáo dục và đào tạo đặt ra. Tuy nhiên, những quan điểm đó chưa đầy đủ,
thiếu tính toàn diện và thực tế trong quá trình thực hiện. Tinh thần mới hiện nay
đặt ra nhiệm vụ cho giáo dục vừa đào tạo nên những con người phát triển hài
hoà, có đức, trí, thể, mĩ nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì còn phải quan tâm phát triển toàn diện con người cá nhân nhằm phát
huy cao nhất tiềm năng sẵn có của mỗi con người. Tuy nhiên, sự phai nhạt lí
tưởng trong một bộ phận người trẻ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
giáo dục và đào tạo của mỗi nhà trường phổ thông. Đó là cái nhìn thiếu nhất
quán về các hiện tượng xã hội, hình thành thói a dua, sống theo trào lưu, không
thể hiện được bản lĩnh của mình trước các hiện tượng xã hội đang xảy đến,...
Điều đó đòi hỏi giáo dục cần phải quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy
học để lồng ghép giáo dục đạo đức, lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng vào bài
học giáo dục kiến thức hàng ngày cho học sinh.


18


Ngữ văn là một môn học đóng vai trò quan trọng trong công tác giáo dục
học sinh tại các nhà trường, nhất là đối với bậc học THPT. Môn Ngữ văn đòi hỏi
người dạy phải phát huy các giá trị cơ bản của môn học nhằm hình thành các kĩ
năng, vốn sống và tăng cường phẩm chất, năng lực và nhân cách của người học.
Quá trình thực hiện các phương pháp dạy học phải làm sao cho hiệu quả, vừa
đảm bảo nội dung kiến thức cơ bản, vừa đào sâu vận dụng để có những hiểu biết
sâu sắc về bản chất của bài học cũng như những giá trị thẩm mĩ sâu xa của tác
phẩm. Từ đó, bài học hướng tới hình thành ở các em nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng của lí tưởng, hoài bão và khát vọng, hướng tới các giá trị nhân văn
cao đẹp của cuộc sống. Tuy nhiên, để làm được điều đó là vấn đề không hề dễ
dàng đối với cả giáo viên và học sinh. Trong chương trình Ngữ văn 11 THPT
Chương trình Chuẩn, lượng tác phẩm thơ ca cách mạng chiếm số lượng rất hạn
chế, trong khi giá trị của thơ ca cách mạng có vai trò hết sức quan trọng trong
việc giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng đối với người học.
Trong quá trình tổ chức bài học tác phẩm thơ cách mạng tại các nhà trường
phổ thông, nhiều giáo viên chỉ tập trung làm nổi bật giá trị cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm một cách đơn thuần. Họ chưa tập trung đi sâu vào
khai thác “dòng chảy bên trong” của tác phẩm. Tức là những giá trị tư tưởng vô
cùng lớn lao mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm của mình. Lớp vỏ ngôn từ, những
điều lướt qua bên ngoài chỉ là lớp “lộ thiên”. Ẩn chứa bên trong câu chữ là lớp
“trầm tích” với ý nghĩa tư tưởng vô cùng lớn lao, có giá trị quan trọng trong việc
hình thành xúc cảm thẩm mĩ cho người đọc. Giáo viên phải biết thiết kế bài
giảng để hình thành ở người học những nhận thức đúng đắn về những phức tạp
diễn ra trong cuộc đời. Từ đó, hình thành ở các em thói quen khám phá bài học
một cách chủ động, sáng tạo, không thụ động trong tiếp thu kiến thức. Từ bài
học, giúp các em có ý thức hơn đối với quá trình học tập, rèn luyện và tích luỹ

vốn sống trong cuộc đời, có trách nhiệm hơn đối với cộng đồng và xác định
được mối quan hệ máu thịt giữa cá nhân với cộng đồng. Nghĩa là qua bài học,
giáo viên phải lồng ghép sao cho hợp lí, khoa học, chuyển tải được nhiều kiến
thức về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho mỗi học sinh. Từ đó chuẩn bị cho
các em những kiến thức tốt nhất để tạo hành trang quan trọng bước vào cuộc
đời, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Với những lí do nói trên, căn cứ đặc thù học sinh ở miền núi nói chung, học
sinh trường THCS&THPT Như Thanh nơi tôi đang công tác nói riêng, tôi đã
mạnh dạn ứng dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Giáo dục lí tưởng sống, lí
tưởng cách mạng cho học sinh qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu trong
chương trình Ngữ văn lớp 11 tại trường THCS&THPT Như Thanh” với hi
vọng sẽ được các đồng nghiệp cùng trao đổi để vận dụng vào quá trình giảng
dạy nhằm nâng cao năng lực thiết kế bài học về thơ ca cách mạng, góp phần
giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh. Đề tài của tôi có nhiệm
vụ làm nổi bật lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng trong thơ ca cách mạng nói
chung, thơ Tố Hữu nói riêng; đề xuất cách áp dụng, xây dựng thiết kế bài học về
tác phẩm “Từ ấy” một cách hiệu quả.
18


1.2 Mục đích nghiên cứu
Từ những lí do đã nêu ở trên, nhất là những hạn chế khi dạy học tác phẩm
thơ trữ tình chính trị nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng, tôi muốn đề xuất phương
pháp thiết kế bài học tác phẩm “Từ ấy” của Tố Hữu trong chương trình Ngữ văn
lớp 11 Chuẩn nhằm nâng cao nhận thức về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
cho học sinh, góp phần quan trọng trong việc giáo dục nên một thế hệ con người
mới trong tương lai cho đất nước.
Đề tài nhằm góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, giúp học sinh tiếp
cận bài học một cách đơn giản và hiệu quả. Từ đó, rút ra được những bài học bổ
ích cho bản thân, sống có lí tưởng, có trách nhiệm hơn đối với bản thân và cộng

đồng. Qua bài học cũng giúp học sinh trân trọng hơn các giá trị truyền thống
cách mạng mà các bậc tiền nhân đã dày công vun đắp cho dân tộc ta trong thế kỉ
XX cũng như có ý nghĩa to lớn trong việc bồi đắp lí tưởng cách mạng cho thế hệ
trẻ trong các chặng được cách mạng sau này.
Đề tài của tôi cũng góp phần giúp giáo viên thiết kế bài học khoa học, hiệu
quả và hợp lí. Bài học phải kết hợp được việc nâng cao nhận thức về lí tưởng
sống cho học sinh, vừa thể hiện được giá trị nghệ thuật của một tác phẩm thơ trữ
tình.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Thông qua những chuyển biến tư tưởng của nhân vật trữ tình trong ba khổ
thơ của bài thơ “Từ ấy”, thiết kế bài học bằng cách lồng ghép các giá trị tư
tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản, những chuyển biến tích cực và đầy trách
nhiệm của người thanh niên trí thức tiểu tư sản đối với đồng bào, với quần
chúng lao khổ để hình thành lí tưởng sống, ý thức trách nhiệm của người thanh
niên cộng sản trong tình hình mới hôm nay. Cụ thể là đối tượng học sinh 2 lớp
11C1 và 11C4 trường THCS&THPT Như Thanh năm học 2017-2018.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Trên cơ sở các câu hỏi
trong sách giáo khoa và các tài liệu về cuộc đời, về hành trình thơ Tố Hữu trước
cách mạng tháng Tám và các bài viết về bài thơ “Từ ấy” để tìm ra hướng tiếp
cận tác phẩm tốt nhất khi thiết kế bài học.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Sau khi vạch ra
các ý tưởng, chúng tôi thăm dò các thông tin cần thiết từ học sinh các lớp. Đồng
thời tổng hợp kinh nghiệm trước đây và căn cứ vào dư luận học sinh để thực
hiện đề tài. Đặc biệt là tôi luôn tham khảo đồng nghiệp trong tổ, nhóm chuyên
môn cũng như các trường bạn để lựa chọn các phương án phù hợp.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Trên cơ sở các kiến thức đã thu thập
được, chúng tôi tổng hợp, phân tích và lựa chọn để tìm ra các đơn vị kiến thức
để thiết kế bài học phù hợp với đối tượng học sinh vùng cao. Sau khi xây dựng
xong thiết kế bài học, chúng tôi tổ chức dạy thực nghiệm trên lớp có sự dự giờ,

đánh giá của đồng nghiệp.
18


2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Về lí tưởng sống của con người
Lí tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà ta phấn đấu để đạt tới. Lí
tưởng sống chính là điều mà mỗi con người cần xác định và đặt ra để thực hiện
trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập và rèn luyện của mình. Đó có
thể là triết lí, là mục đích mà mình đặt ra hoặc tìm đến để thực hiện. Triết lý
sống hay mục đích sống cũng chính là lý tưởng sống của mỗi con người. Người
có lý tưởng sống cao đẹp là người luôn suy nghĩ và hành động để hoàn thiện
mình hơn, giúp ích cho mình, cho gia đình, xã hội và đất nước.
Bàn về lí tưởng sống, văn hào N.A.Ostrotsky từng viết: “Đời người chỉ
sống có một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận vì những năm tháng
sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện, và hèn đớn của mình, để
khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, đã hiến
dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài
người”. Cố thủ tướng Phan Văn Khải cũng từng căn dặn các tài năng trẻ
rằng: "Tài năng trẻ muốn thành công không chỉ cần học giỏi mà còn cần có lý
tưởng, hoài bão, có lòng yêu nước, sống nhân ái, thương người như thể thương
thân...". Đó là những ý kiến của thế hệ tiền bối nhắc nhở mỗi chúng ta luôn phải
biết trân trọng các giá trị cơ bản nhất của cuộc sống, nhất là các giá trị làm
người. Sống có lí tưởng, có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội là một cách để
viết lên trang đời của mỗi người trẻ tiếng nói của sự tự hào về bản thân, góp
phần xây dựng đất nước, quê hương.
2.1.2 Về lí tưởng cách mạng
Nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương Trần Trọng Tân trong
một bài viết của mình đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã đưa ra ba khái

niệm về lí tưởng cách mạng của người cộng sản là lí tưởng xã hội của người
cộng sản, lí tưởng đạo đức của người cộng sản và lí tưởng thẩm mĩ của người
cộng sản. Về lí tưởng xã hội, sau khi phân tích mọi yếu tố liên quan, ông nhấn
mạnh lí tưởng của người cộng sản phải phẩn đấu để đạt mục tiêu “Con người
sống chỉ còn tự giác phục tùng một quyền lực duy nhất là lẽ phải”. Về lí tưởng
đạo đức của người cộng sản, ông cũng chỉ rõ đó là “…đạo đức ở trình độ cao
được hình thành trên cơ sở đạo đức làm người”. Về lí tưởng thẩm mĩ, ông cho
rằng người cộng sản phải hướng tới “cái đẹp mang tính nhân văn, vẻ đẹp về
nhân cách, vẻ đẹp về quan hệ giữa con người với thiên nhiên, về tính cách
chung của con người”. Đúc kết lại, ông đánh giá: “Có hiểu đúng, hiểu sâu sắc
về mục đích lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mới có lập trường chính trị
kiên định là giữ vững độc lập tự do, dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Có thực
tự hào về người cộng sản là người có lý tưởng cao đẹp mới biết giữ cho mình
tránh được những vi phạm về đạo đức, lối sống thấp hèn xấu xa”. Những ý kiến
quan điểm ấy là điều kiện vô cùng quan trọng cho việc xây dựng chương trình
đào tạo cho thế hệ trẻ mai sau.
18


Trong thời đại 4.0 ngày hôm nay, thế hệ trẻ có nhiều cơ hội và thử thách.
Cơ hội sẽ mở ra thời cơ để người trẻ thể hiện mình, còn những thử thách sẽ giúp
cho họ khẳng định được bản lĩnh của mình trước sự phát triển chung của xã hội.
Với kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới, cộng với sự hội nhập quốc tế toàn diện
trong thế giới ngày nay đã tạo nên môi trường phong phú để người trẻ thực hiện
lí tưởng. Chưa bao giờ, sự lựa chọn đường đi dành cho thế hệ trẻ lại đa dạng như
ngày nay. Tuy nhiên, với một đất nước phát triển trên nền tảng tư tưởng của lí
tưởng cộng sản, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa thì người trẻ phải có định hướng đúng đắn. có bản lĩnh vững vàng trước
các hiện tượng phức tạp của cuộc sống để thực hiện ước mơ của mình đúng
hướng trong quá trình rèn đức, luyện tài, xây hoài bão đẹp.

2.1.3 Đánh giá về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng trong thơ Việt Nam hiện
đại
Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, lịch sử nước ta trong thế kỉ XX đã
viết lên những trang sử vẻ vang, chói lọi, xứng đáng với lịch sử hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Song song với các hoạt động cách mạng
của mình, những văn sĩ, trí thức yêu nước đã đặt những viên gạch đầu tiên cho
nền văn học cách mạng Việt Nam như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô
Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng,... Đó thực sự là những tác
phẩm đầu tiên không chỉ đặt nền móng cho thơ ca cách mạng Việt Nam mà còn
được đánh giá là có tác dụng vô cùng kì diệu trong tuyên truyền, vận động cách
mạng, là vũ khí vô song trong đấu tranh cách mạng đầu thế kỉ XX. Điểm chung
nhất của các tác phẩm vẫn là coi trọng đấu tranh, tuyên truyền, vận động cách
mạng, bảo vệ nhân dân lao động khổ sai.
Sau khi có ánh sáng của lí tưởng cộng sản gắn với quá trình truyền bá của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam và sự kiện ra đời của Đảng Cộng sản
Đông Dương đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng. Từ đó, bộ phận văn
học cách mạng có điều kiện về mặt tư tưởng để phát triển. Nhiều nhà văn, nhà
thơ đã đem ngòi bút và tác phẩm của mình làm vũ khí chiến đấu sắc bén để đấu
tranh chống kẻ thù và làm phương tiện truyên truyền, vận động cách mạng.
Nhiều tên tuổi đã có đóng góp lớn cho văn học dân tộc về cả phương diện tuyên
truyền, đấu tranh cách mạng cũng như những cách tân nghệ thuật, nhưng tiêu
biểu nhất vẫn là Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Từ đó về sau này, nhất là khi cách
mạng tháng Tám 1945 thành công đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao không
chỉ đối với lịch sử dân tộc mà còn đối với tầng lớp văn nghệ sĩ. Họ hồ hởi tham
gia cách mạng và vượt qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp và chống Mĩ
đã hình thành nên một nền văn học cách mạng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, chủ nghĩa yêu nước và thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc. Trong thời kì
hiện nay, văn học cách mạng đi sâu phản ánh, đấu tranh những mặt tiêu cực
trong xã hội, đi ngược lại với truyền thống và lí tưởng cách mạng góp phần bảo
vệ độc lập chủ quyền, an ninh chính trị và ngợi ca những giá trị chân chính nhất

của con người.
18


Trong số các tên tuổi của thơ ca cách mạng, Tố Hữu nổi bật lên như ngọn
cờ đầu với nhiều đóng góp sâu sắc. Nhìn trên tổng thể nền thơ ca cách mạng
Việt Nam, Tố Hữu nổi bật nhất vì đã toàn tâm, toàn trí, toàn hồn viết và nói lên
tiếng nói của lí tưởng cách mạng, suốt một đời chiến đấu, hi sinh cho cách
mạng. Những trang thơ của ông cũng là những trang sử hào hùng, những trang
đời nóng hổi đời sống cách mạng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
ông. Con đường đời và con đường thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với nhau với các
tập thơ tiêu biểu như “Từ ấy” (1937-1946), “Việt Bắc” (1946-1954), “Gió
lộng” (1955-1961), “Ra trận” (1962-1971), “Máu và hoa” (1972-1977), “Một
tiếng đờn” (1992), “Ta với ta” (1999) đã thực sự khẳng định tên tuổi của Tố
Hữu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, thơ ca cách mạng nói riêng.
Đặc biệt, trong tập thơ “Từ ấy” - Tập thơ đầu tay, tiếng nói đầy hứng khởi của
người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng. Những chuyển
biến tư tưởng từ khi gặp gỡ ánh sáng của lí tưởng cách mạng đến thay đổi trong
ý thức và hành động của người thanh niên tiểu tư sản đã đánh dấu bước ngoặt
lớn trong cuộc “dấn thân” vĩ đại, dũng cảm của nhà thơ đối với cách mạng dân
tộc, với nhân dân lao động cần lao.
2.1.4 Một số hướng tiếp cận lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng trong thơ trư
tình
Khi nghiên cứu, thiết kế bài học về các bài trơ trữ tình cách mạng, chúng ta
thường thấy có hai cách tiếp cận. Một là, quan tâm về diện. Nghĩa là các nhà
giáo sẽ nghiên cứu, thiết kế bài học trên cơ sở phân tích tác phẩm theo kiểu điểm
qua các nét lớn về nội dung tư tưởng, sau đó rút ra kết luận về bài học. Cách làm
này dễ nhận biết nhưng lại khó lồng ghép giáo dục lí tưởng cho người học sẽ dễ
dẫn đến việc học sinh hiểu mờ nhạt về lí tưởng. Bài học chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu, tìm hiểu một tác phẩm thơ trữ tình đơn thuần. Hai là, quan tâm về

điểm. Nghĩa là các thầy cô giáo tập trung đi sâu khám phá một số nét nổi bật của
tác phẩm chứ không đi dàn trải. Điều này nhiều khi vô tình làm cho bài học chỉ
đơn giản là buổi tuyên truyền lí tưởng, làm mất đi vẻ đẹp nghệ thuật của một tác
phẩm thơ trữ tình vốn phải đảm bảo mang tính thẩm mĩ, mang vẻ đẹp ở cả nội
dung và hình thức nghệ thuật với những sáng tạo nổi bật, độc đáo của nhà thơ.
Như đánh giá ở trên, con đường thơ gắn liền với con đường đời của Tố
Hữu. Thơ ông như cuốn nhật kí ghi lại bằng cảm xúc về các chặng đường cách
mạng của ông, truyền tải lí tưởng cách mạng, tuyên truyền vận động cách mạng,
nói lên tiếng nói của bản thân đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Do đó,
khi nghiên cứu giảng dạy thơ Tố Hữu, thầy cô giáo chủ yếu đề cập về nội dung,
thơ Tố Hữu là tiếng reo ca ngợi ca lí tưởng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Việc đó là đúng nhưng chưa đầy đủ vì thơ Tố Hữu cũng phải được nghiên cứu ở
khía cạnh một bài thơ trữ tình. Đồng thời, cần quan tâm đến dòng chảy bên
trong tác phẩm là lí tưởng cách mạng như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác
phẩm thơ ca của Tố Hữu từ khi còn là một trí thức tiểu tư sản được giác ngộ đến
tận những năm cuối đời.
18


2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1 Thực trạng học sinh
Hầu hết lứa tuổi học sinh trung học phổ thông hiện nay đều được học tập và
tu dưỡng trong những môi trường thuận lợi để phát triển trí tuệ và nhân cách của
mình. Đó là điều kiện vật chất ngày càng được cải thiện, giá trị tinh thần ngày
càng được phát huy trên cơ sở những điểm tốt đẹp nhất của dân tộc và nhân loại.
Phương pháp học tập mới giúp các em có thể linh hoạt trong lựa chọn hướng
tiếp cận tri thức để xây dựng vốn kiến thức phong phú trong xã hội. Đối với lứa
tuổi học sinh ở các trường trung học phổ thông miền núi nói chung, học sinh
trường THCS&THPT Như Thanh nơi tôi đang công tác nói riêng đang còn ít va
chạm đến những phức tạp bên ngoài xã hội nên việc truyền thụ các kiến thức về

lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng của đội ngũ giáo viên đến các em học sinh có
nhiều thuận lợi. Giáo viên có thể chủ động hướng dẫn học sinh tập trung tìm
hiểu các vấn đề mà mình đặt ra. Bên cạnh đó, việc tiếp thu kiến thức của các em
học sinh từ những định hướng của các thầy cô giáo hầu hết mang tính ổn định,
dễ nắm bắt và dễ thực hiện. Hầu hết các em học sinh đều chăm ngoan, biết trân
trọng các giá trị tốt đẹp trong văn hoá của dân tộc mình, lắng nghe ý kiến của
thầy cô để xây dựng ước mơ, hoài bão cho mình. Đó là điều kiện thuận lợi nhất
mà các giáo viên có thể vận dụng để vừa giảng dạy kiến thức bài học vừa truyền
đến các em ngọn lửa của lí tưởng trong trong quá trình học tập và rèn luyện để
hướng tới tương lai tốt đẹp, đúng hướng.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt thuận lợi, xét theo cái chung của thời đại, xu
hướng chung của học sinh hiện nay, trong đó có học sinh trường THCS&THPT
Như Thanh còn chưa có sự quan tâm thực sự tới môn Ngữ văn, nhất là những
bài học liên quan đến thơ ca cách mạng, đến lí tưởng của thế hệ trẻ. Cho nên
việc thiết kế bài học gắn liền với giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho
học sinh qua các bài học về thơ cách mạng gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó,
với sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, mạng internet được kết nối tới tận vùng
sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo làm cho học sinh rất ham mê tìm hiểu những
cái mới lạ mà đôi khi quên đi nhiệm vụ học tập và rèn luyện của bản thân một
cách lành mạnh và đúng định hướng.
Trong quá trình thực hiện bài học, để có thể vận dụng các kiến thức vào
giáo dục lí tưởng cho học sinh qua bài dạy tại hai lớp 11C1 và 11C4 của trường
THCS&THPT Như Thanh năm học 2017-2018, tôi đã điều tra tìm hiểu về đối
tượng học sinh của mình và nhận thấy cả hai lớp đều có trình độ tương đương
nhau, sự hiểu biết về lí tưởng sống và lí tưởng cách mạng như nhau (xem Phụ
lục 1). Từ những kết quả điều tra ban đầu mà tôi thu thập được, tôi nhận thấy
học sinh ngày nay rất thông minh và nhạy cảm trước các vấn đề của xã hội và
thời đại nhưng lại thiếu đi kiến thức lí tưởng cách mạng, thiếu đi kiến thức
chung để có thể phát triển đúng hướng trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn
luyện. Đây là lí do dẫn đến sự chệch hướng của nhiều thanh thiếu niên mà báo

chí đã nêu trong thời gian vừa qua.
18


2.2.2 Thực trạng giáo viên
Thông qua kinh nghiệm thực tế gần 16 năm trong nghề, kết hợp với việc
tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp ở các trường trung học phổ thông, tôi nhận
thấy bản thân mình cũng như nhiều đồng nghiệp đôi lúc quá cứng nhắc và
nguyên tắc trong quá trình chuẩn bị, thiết kế và thực hiện các bài học khi lên lớp
cũng như trong quá trình kiểm tra, đánh giá học sinh. Định hướng tư tưởng và
giáo án thể nghiệm trên lớp đôi lúc quá cứng nhắc, cứ nhất nhất theo hướng dẫn
của sách giáo viên. Nghĩa là trên cơ sở hướng dẫn giảng dạy trong sách giáo
viên, thầy cô giáo cứ thế áp dụng vào bài giảng cũng như việc kiểm tra đánh giá.
Điều đó làm mất đi vẻ đẹp vốn có của môn Ngữ văn là tính đổi mới, sáng tạo.
Người thầy phải là nhà kiến thiết để tạo nên bài học hấp dẫn của riêng mình trên
cơ sở các sách hướng dẫn mới lôi cuốn học sinh vào quá trình khám phá thế giới
tác phẩm bằng mĩ cảm riêng của mỗi học sinh, từ đó hình thành nên những
phẩm chất tốt đẹp trong các em.
Ở một bộ phận giáo viên phổ thông, nhất là các giáo viên trẻ tuổi, cách
chọn lựa kiến thức đưa vào bài học đôi lúc không phù hợp hoặc “quá tải” đối với
các em học sinh do tâm lí “tham kiến thức” của giáo viên, đặc biệt là với đối
tượng học sinh ở miền núi, vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Việc đưa những
kiến thức không phù hợp gây nên những khó khăn cho các em học sinh trong
quá trình tiếp thu và lĩnh hội kiến thức bài học. Từ đó dẫn đến các em hình thành
tâm lí e ngại và chây lười trong quá trình học tập. Nếu cứ để tình trạng này kéo
dài sẽ gây ra những tiền lệ xấu, nguy hiểm cho sự phát triển đạo đức và nhân
cách của người học sinh, người thanh niên cộng sản trong công cuộc đổi mới và
hội nhập đất nước hôm nay. Đồng thời, cách làm này sẽ làm mất đi tính hấp dẫn
vốn có của môn Ngữ văn - môn học vừa mang tính khoa học vừa mang tính
nghệ thuật, vừa truyền thụ kiến thức phát triển trí tuệ vừa mang tính nhân văn

sâu sắc.
Trong quá trình giảng dạy ở trường phổ thông, nhiều giáo viên cũng đã biết
cách đổi mới, sáng tạo, xây dựng bài học theo hướng tổ chức thành hoạt cảnh,
tiểu phẩm đối với tác phẩm văn xuôi, cho học sinh ngâm, đọc diễn cảm, trình
diễn,… đối với các tác phẩm thơ. Tuy nhiên, sự “sáng tạo” đó bị lạm dụng quá
mức dẫn đến đi chệch hướng bài học, quên đi đặc trưng của môn học “Văn học
là nghệ thuật ngôn từ” coi chất liệu ngôn từ và đặc trưng thể loại tác phẩm trữ
tình làm tiêu chí đánh giá. Điều đó dẫn đến chất lượng bài học một chiều theo sự
sắp đặt của giáo viên, làm mất đi sự chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập
và lĩnh hội kiến thức của các em học sinh. Đối với bài thơ “Từ ấy” của nhà thơ
Tố Hữu, các hình thức ngâm thơ, đọc diễn cảm hay trình diễn thơ,… chỉ là các
thao tác nhằm tái hiện tác phẩm. Để hiểu sâu hơn về tác phẩm này phải cho học
sinh khám phá văn bản ngôn từ, tìm hiểu bài thơ là quá trình đi tìm “mắt chữ” để
bắt nhịp vào ý nghĩa tư tưởng chung của văn bản nghệ thuật, từ đó giúp các em
hình thành những tính cách tốt đẹp của người thanh niên cộng sản trong tình
hình mới.
18


2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1 Giải pháp 1: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh
thông qua tấm gương cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ Tố Hữu
Khác với các tác giả khác, khi tổ chức bài dạy, các thầy cô giáo thường chỉ
tập trung khai thác phần văn bản tác phẩm để tìm ra biện pháp giáo dục học sinh
về kiến thức bài học và lồng ghép giáo dục về đạo đức lối sống, lí tưởng sống
thông qua bài học. Đối với bài thơ “Từ ấy” nói riêng, thơ Tố Hữu nói chung,
phần tìm hiểu về tấm gương cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ là một
khâu hết sức quan trọng để vừa giáo dục lí tưởng cho học sinh vừa tạo tâm thế
quan trọng để các em có động lực, hứng thú tìm hiểu văn bản sau đó. Từ đó,
giúp các em chủ động tiếp nhận kiến thức về lí tưởng cách mạng vào điều kiện

thực tế của bản thân.
Khi tìm hiểu phần tác giả, giáo viên cần khéo léo lồng ghép để đưa ra những
định hướng cho học sinh hiểu và học tập tấm gương hoạt động đầy nhiệt huyết
và sự hi sinh, cống hiến cả cuộc đời mình của Tố Hữu cho sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Mặc dù trong chương trình Ngữ văn lớp 12, học sinh sẽ được học
một tiết riêng về tác giả Tố Hữu nhưng khi dạy bài thơ “Từ ấy” giáo viên vẫn
phải nhấn mạnh những điểm quan trọng về cuộc đời của nhà thơ, nhất là chặng
đường hoạt động trước cách mạng tháng Tám 1945. Trong chặng này, cần chỉ rõ
cho học sinh thấy từ một cậu học trò mới 12 tuổi đã mồ côi mẹ, rồi phải xa gia
đình đi học đến một thanh niên nhiệt huyết trong phong trào học sinh, sinh viên
tại thành phố Huế trong những năm phong trào dân tộc dân chủ phát triển khá
mạnh đến một chiến sĩ cộng sản lúc chưa tròn 18 tuổi là cả một chặng đường
xác định lí tưởng sống đúng đắn của một thanh niên yêu nước. Trong phần này,
giáo viên có thể đặt câu hỏi để định hướng học sinh nhận thức về lí tưởng qua
tấm gương cuộc đời của nhà thơ.
Ví dụ: Qua các sự kiện của cuộc đời hoạt động của Tố Hữu trước cách
mạng như: 12 tuổi mồ côi mẹ; 13 tuổi đi học xa nhà; tuổi thanh niên tham gia
nhiệt tình trong phong trào học sinh, sinh viên; chưa đầy 18 tuổi trở thành đảng
viên cộng sản,… em có thể nhận xét gì về cuộc đời và con người Tố Hữu?
Học sinh có thể trả lời tự do theo cách hiểu của mình. Giáo viên chốt lại một
số nét mang tính định hướng: Qua các sự kiện nêu trên có thể thấy, Tố Hữu dù
gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về tình cảm gia đình, người thân nhưng sớm biết
xác định được lí tưởng đúng đắn cho mình. Đó là sự dấn thân, hi sinh cho dân
tộc, sống hoà mình vào cuộc sống lớn của quần chúng lao khổ dưới ánh sáng
soi đường của lí tưởng cộng sản, sống có trách nhiệm với cộng đồng. Trong thời
đại chúng ta hôm nay, các em cũng phải tìm cho mình một lí tưởng, một định
hướng đúng đắn để xây ước mơ, hoài bão, khẳng định được mình và góp phần
xây dựng quê hương, đất nước. Học tập, rèn luyện thật tốt để có đủ đức, đủ trí
tuệ và tâm huyết để cống hiến sức trẻ vào các hoạt động chung của cộng đồng.
Đó chính là lí tưởng đúng đắn nhất của thế hệ trẻ hôm nay. Để hiểu thêm về lí

tưởng của nhà thơ, chúng ta sẽ bước qua phần đọc và tìm hiểu văn bản bài thơ.
18


Như vậy, sau khi tìm hiểu về cuộc đời của Tố Hữu, giáo viên chỉ cần đặt
một câu hỏi thảo luận nhỏ mang tính tiểu kết để cả thầy và trò vừa đúc kết lại
các sự kiện vừa nêu, vừa mở rộng vấn đề và đánh giá về con người của người
thanh niên cộng sản trẻ tuổi Tố Hữu. Từ những đánh giá, một mặt giáo viên định
hướng được cho học sinh ý nghĩa to lớn của việc xác định lí tưởng sống một
cách đúng đắn trong cuộc đời của mỗi con người; mặt khác, học sinh cũng tự soi
mình qua tấm gương cuộc đời Tố Hữu để tìm cho mình con đường đi phù hợp
khi bước vào cuộc đời. Đây là một điểm rất quan trọng trong việc giáo dục học
sinh khi mà tình trạng một bộ phận giới trẻ sống phai nhạt lí tưởng, ích kỉ, thực
dụng đang diễn ra ở nhiều nơi. Làm tốt việc định hướng qua bài học về cuộc đời
Tố Hữu giúp các em học sinh biết trân trọng hơn những giá trị của cuộc sống;
đồng thời, có suy nghĩ và hành động đúng đắn trong mỗi việc làm của mình
trong hiện tại cũng như tương lai.
2.3.2 Giải pháp 2: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh
qua phần đọc văn bản bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu
Đối với một giờ đọc văn, khâu đọc văn bản rất quan trọng. Khi dạy về thơ
trữ tình, trong phần đọc bài thơ, tuy thuộc vào thời gian, giáo viên có thể chọn
việc đọc diễn cảm, trình diễn thơ (đọc kết hợp các cử chỉ, hành động) hoặc ngâm
thơ. Tuy nhiên, để làm được việc này là điều không dễ dàng bởi muốn thu hút
được sự chú ý, hấp dẫn học sinh thì phải chuẩn bị chu đáo mọi khâu. Tôi xin
được đề xuất một số cách để tổ chức tốt phần đọc trong bài học này như sau:
Đối với đọc diễn cảm: Với hình thức đọc diễn cảm, có hai cách để tổ chức là
thầy trước - trò sau và ngược lại trò trước - thầy sau. Với cách thứ nhất, giáo
viên sẽ đọc mẫu, sau đó gọi một học sinh có giọng đọc tốt đọc lại. Từ đó, hướng
dẫn cả lớp đọc đúng. Với cách này, giáo viên cần phải có giọng tốt, phát âm
chuẩn tiếng Việt và nhất là phải hoá thân được vào xúc cảm của người thanh

niên yêu nước lần đầu được gặp gỡ ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng
ấy đã soi chiếu cho tâm hồn mình. Sau khi đọc xong, giáo viên mời một em học
sinh đọc lại, giáo viên nhận xét, uốn nắn những lỗi trong quá trình đọc của học
sinh, chỉ cho cả lớp biết và khắc phục. Đây là việc làm vô cùng cần thiết, nhất là
học sinh tỉnh Thanh Hoá vốn rất phức tạp về ngôn ngữ bởi phương ngữ Thanh
Hoá vốn đa dạng về phát âm theo từng huyện, thậm chí trong huyện, các xã lại
có phát âm khác nhau. Với cách thứ hai, giáo viên gọi một học sinh lên đọc
trước lớp, nhận xét, đánh giá và sau đó đọc lại cho chuẩn. Với cách đọc này,
giáo viên có thể giúp học sinh chủ động trong việc tự luyện đọc. Người thầy chỉ
điều chỉnh những hạn chế, khuyết điểm để học sinh thực hiện cho đúng. Tóm lại,
dù theo cách nào thì người thầy vẫn đóng vai trò hướng dẫn, uốn nắn giọng đọc
của các em học sinh. Do đó, trong quá trình thực hiện rất cần sự chuẩn bị chu
đáo của người thầy. Giáo viên phải tự rèn luyện để có thể sử dụng chuẩn mực
các quy tắc sử dụng tiếng Việt, đảm bảo việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt. Đồng thời, các giáo viên cũng phải biết luyện tập để có một giọng đọc
truyền cảm, thu hút được học sinh.
18


Đối với trình diễn thơ: Đây là một hình thức mới trong việc tái hiện tác
phẩm thơ. Hình thức này nên áp dụng trong tiết ngoại khoá văn học hoặc giờ tự
chọn. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện từng trường và số tiết theo phân phối
chương trình do các nhà trường tự xây dựng để có thể tổ chức tốt bài học. Hình
thức trình diễn thơ có ba cách là cá nhân trình diễn (một học sinh trình diễn
bằng cách kết hợp giữa đọc với cử chỉ, hành động); nhóm người trình diễn (phân
đoạn, câu cho từng cá nhân trong nhóm học sinh trình diễn theo nội dung và xúc
cảm của tác phẩm); một cá nhân đọc có sự phụ hoạ của một vài học sinh. Trong
ba cách này, cách thứ nhất phù hợp với bài giảng trên lớp hơn cả, hai cách còn
lại phù hợp với tiết tự chọn hoặc ngoại khoá văn học vì cần có sự chuẩn bị, tập
luyện nhuần nhuyễn mới thành công được. Dù chọn cách nào thì giáo viên cũng

cần chú ý đến ngôn ngữ, giọng điệu của học sinh phải phù hợp với đặc điểm thơ
Tố Hữu là giọng điệu “ngọt ngào, tâm tình, tha thiết” đúng đặc trưng giọng nói
của người Huế quê hương nhà thơ Tố Hữu.
Đối với hình thức ngâm thơ: Đây là một hình thức tái hiện tác phẩm hay
nhất và cũng phổ biến trong đời sống văn hoá tinh thần của người Việt Nam.
Tuy nhiên, hình thức này khó khăn ở chỗ, người thực hiện phải có năng khiếu
hát, ngâm; nhất là biết về các làn điệu dân ca như hò, chèo,… thì mới thực hiện
thành công được. Bởi vì trong ngâm thơ dù có nhiều cách nhưng phổ biến vẫn là
ngâm theo giọng Huế hoặc theo kiểu gần với chèo, hát ru ở Bắc Bộ.
Trong ba hình thức đọc thơ thì hình thức đọc diễn cảm và ngâm thơ là có thể
thực hiện được trong tiết đọc văn trên lớp. Bởi vì nó tốn ít thời gian và cũng
không cầu kì chuẩn bị nên giáo viên có thể dễ dàng áp dụng. Các hình thức này
vừa có thể tạo không khí sinh động cho giờ đọc văn vừa tác động trực tiếp đến
các em tâm hồn của người thanh niên yêu nước trong buổi đầu gặp gỡ, say mê lí
tưởng. Từ đó giúp các em hiểu thêm về lí tưởng cộng sản và những việc làm,
mục tiêu của người thanh niên cộng sản để các em có thể xây dựng lí tưởng sống
cho cuộc đời mình.
2.3.3 Giải pháp 3: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh
thông qua việc tìm hiểu văn bản tác phẩm
Đây là phần trọng tâm của bài học nên giáo viên cần chuẩn bị kĩ càng mọi
điều kiện để có thể thực hiện thành công bài học. Bởi vì thực chất của phần này
là tìm hiểu về giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Cách tốt
nhất để tổ chức tốt việc tìm hiểu bài thơ “Từ ấy” là bám vào bố cục của tác
phẩm. Bài thơ đã tự đi theo một hành trình tư tưởng của nhà thơ trong ba khổ: từ
niềm say mê khi gặp gỡ lí tưởng đến sự đổi thay trong nhận thức của người trí
thức đến sự tự nguyện hành động cho cộng đồng và sự vui mừng hoà vào cuộc
sống rộng lớn của quần chúng lao khổ trong tình thân ruột thịt. Do vậy, giáo viên
chỉ cần bám vào hành trình tư tưởng đó để tổ chức tốt quá trình đọc và tìm hiểu
văn bản. Trong quá trình đó, giáo viên định hướng để giáo dục lí tưởng sống, lí
tưởng cách mạng cho học sinh nói riêng, thanh niên nói chung trong thời đại đổi

mới và hội nhập hôm nay.
18


Ở khổ một, ta thấy hiện lên trong tâm trạng nhân vật trữ tình là niềm vui
sướng, say mê khi gặp lí tưởng. Thông qua hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, nhà
thơ đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng
tâm hồn nhà thơ, xua tan đi áng mây mù trong nhận thức và hành động của
người trí thức tiểu tư sản khi chưa gặp được lí tưởng. Đồng thời diễn tả niềm vui
sướng, say mê nồng nhiệt của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng mới. Cách nói về lí
tưởng và những đổi thay trong nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi
được diễn tả qua hình thức ngôn ngữ có chọn lọc, tinh tế và giàu giá trị thẩm mĩ.
Ở khổ hai, người đọc nhận ra những nhận thức mới về lẽ sống của người
thanh niên yêu nước khi được giác ngộ, được gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Đó là sự
gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung của xã hội. Với động
từ “buộc”, tác giả đã cho thấy ý thức tự nguyện, quyết tâm cao độ và mong
muốn được cống hiến cho cộng đồng, cho cuộc sống rộng lớn của những người
cần lao. Nhà thơ đã đặt mình giữa dòng đời và môi trường rộng lớn của quần
chúng lao khổ. Và ở đó, Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh không chỉ
bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu của trái tim nhân ái. Đó chính là
sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng và hành động, trong lòng tự nguyện
được “dấn thân” cho lí tưởng cao đẹp của người cộng sản kiên trung. Lời tự
nguyện chân thành của nhà thơ cũng chính là tâm nguyện cao đẹp mà bất cứ
người cộng sản chân chính nào cũng mong muốn. Bởi vì đó là khát vọng đẹp đẽ
của chủ nghĩa cộng sản hướng tới, là lí tưởng đầy tính nhân văn cho nhân loại
cần lao.
Ở khổ ba, tác giả nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đình đầm ấm,
thân thiết, gắn bó ruột thịt qua việc nhận mình là “con”, là “anh”, là “em” bằng
một cách nói chân thành. Đó cũng là sự cảm nhận sâu sắc của tác giả khi tự
nguyện mình là thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ, là sự biểu hiện

xúc động, khi nói tới những kiếp người bất hạnh, dãi dầu sương gió. Mong ước
được hoà vào đại gia đình rộng lớn để có thể hiến dâng tuổi thanh xuân cho
những lí tưởng cao đẹp mà cách mạng hướng đến, cách mạng đang cần ở những
lí tưởng mới. Đó cũng là niềm ước mong mang tới những điều cao quý, đẹp đẽ
nhất cho tổ quốc, cho quần chúng nhân dân đang chịu áp bức, bóc lột của kiếp
nô lệ lúc bấy giờ.
Sau khi phân tích, tìm hiểu, giáo viên có thể linh hoạt trong bài giảng để
định hướng về việc xác định và rèn luyện để có được lí tưởng sống cao đẹp cho
các em học sinh. Định hướng các em hãy sống trách nhiệm hơn với chính bản
thân, gia đình và cộng đồng xã hội rộng lớn. Đó cũng chính là lí tưởng mà các
thế hệ đi trước đã mong muốn và hi sinh tất cả cho lẽ sống cao đẹp này. Các thế
hệ đi sau phải có trách nhiệm duy trì và gìn giữ những nền tảng tư tưởng cao đẹp
ấy. Học bài thơ, mỗi học sinh cần tìm hiểu thêm về cách mạng, về lí tưởng cộng
sản để xây dựng lí tưởng sống của mình, có thể giúp mình tự tin sống, học tập,
lao động và sẵn sang chiến đấu cho lí tưởng cách mạng, cho dân tộc và quần
chúng nhân dân.
18


2.3.4 Giải pháp 4: Giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh
thông qua bài kiểm tra đánh giá
Giải pháp này chủ yếu đánh giá lại những nhận thức của học sinh sau khi
học xong bài thơ. Cách ra đề của giáo viên cũng cần phải linh hoạt và hướng vào
xác định lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi
qua bài thơ. Các em học sinh làm bài cũng cần đáp ứng yêu cầu, một mặt phải
làm nổi bật sự chuyển biến tâm trạng của tác giả qua ba khổ thơ. Từ đó, học sinh
phải nói lên được bài thơ mang lại bài học lớn cho mình cũng như thế hệ trẻ
hôm nay về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng.
Đối với dạng kiểm tra miệng, ngoài phần học thuộc lòng bài thơ, giáo viên
nên hỏi thêm học sinh các câu hỏi phụ để học sinh có thể đạt điểm cao (điểm 9,

điểm 10). Các câu hỏi này nên liên quan đến lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng
được thể hiện trong bài hoặc qua bài thơ, học sinh rút ra vai trò của lí tưởng
sống đối với bản thân.
Đối với dạng đề kiểm tra thường xuyên (bài 15 phút) nên ra đề kiểu đọc hiểu
văn bản với những câu hỏi đơn giản, phù hợp với thời gian 15 phút. Với dạng đề
như vậy sẽ có tác dụng rất lớn đối với học sinh. Thứ nhất, dạng đề này vừa rèn
luyện cho học sinh ôn tập tốt phần đọc hiểu trong các kì thi, nhất là kì thi trung
học phổ thông quốc gia hằng năm. Muốn làm tốt điều này, giáo viên cần biên
soạn câu hỏi gần gũi với cách hỏi trong phần đọc hiểu thi trung học phổ thông
quốc gia. Thứ hai, dạng đề sẽ rèn luyện cho các em viết một đoạn văn ngắn
(dưới 10 dòng) về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng của nhà thơ qua bài thơ
hoặc chỉ viết về nội dung của một trong ba khổ hoặc cũng có thể cho các em viết
đoạn văn về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng của người thanh niên trong thời
đại ngày nay.
Đối với dạng đề kiểm tra định kì hoặc kiểm tra học kì, tuỳ theo đối tượng
học sinh để ra đề phù hợp. Đồng thời cần căn cứ vào thời gian được quy định
của dạng đề này là 90 phút (tương đương hai tiết học) để ra đề cho phù hợp. Với
bài thơ “Từ ấy”, giáo viên có thể ra đề cả dạng nghị luận văn học hoặc nghị luận
xã hội. Với nghị luận văn học thì có nhiều cách ra đề. Có thể ra đề cả bài hoặc
từng khổ, hoặc hai khổ một. Vấn đề cần lưu ý là giáo viên phải bám vào nội
dung của từng khổ để nêu yêu cầu của đề bài cho phù hợp với đối tượng học
sinh. Tránh dùng các từ khó hiểu, tối nghĩa trong đề bài gây khó khăn cho học
sinh. Với đề nghị luận xã hội có thể yêu cầu học sinh nêu lên nhận thức của
mình sau khi học xong bài thơ về lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng có ý nghĩa
thế nào đến quá trình học tập, lập thân lập nghiệp của thế hệ trẻ ngày nay. Về
cấu trúc của đề tuỳ theo trình độ học sinh từng lớp để ra đề nhưng nên theo cấu
trúc hai phần: Phần đọc hiểu (3 điểm) cho một đoạn văn bản và nêu khoảng 4
câu hỏi về phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, biện pháp tu từ, nghĩa
của từ, xác định từ loại,…, không nên ra câu viết đoạn văn. Phần nghị luận có
thể ra nghị luận xã hội hoặc nghị luận văn học. Tuỳ trình độ học sinh để ra dạng

câu cho cả bài hay chỉ một đến hai khổ thơ.
18


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1 Đối với hoạt động giáo dục
Có thể nhận thấy rằng, xét đến cùng, các hoạt động giáo dục chung trong
các nhà trường đều phải hướng đến mục tiêu cuối cùng là trang bị kiến thức cơ
bản góp phần rèn luyện trí tuệ, hình thành nhân cách và bản lĩnh cho học sinh để
yên tâm bước vào cuộc sống. Bản chất môn Ngữ văn, nhất là ở phân môn Đọc
văn ngoài kiến thức chung còn phải giúp người đọc hình thành nên những tình
cảm tích cực, phân biệt rõ tốt - xấu, yêu - ghét,… để hình thành nên mĩ cảm,
nhân cách và đạo đức của người học sinh. Tuy nhiên, để lôi cuốn được các em
tham gia tiết học một cách hiệu quả, người thầy phải không ngừng đổi mới bài
học để tạo nên hứng thú đối với các em. Thấy được tầm quan trọng của môn
học, ngành giáo dục cùng đã bố trí môn Ngữ văn là một trong số những môn học
có số tiết khá cao trong tuần đối với mỗi lớp học. Điều quan trọng là người thầy
phải biết tận dụng những lợi thế của môn học để tạo nên nhịp cầu kết nối quá
trình giảng dạy của thầy và quá trình chủ động tiếp thu, lĩnh hội kiến thực của
học sinh. Bài học “Từ ấy” theo thiết kế của tôi góp phần tạo nên cầu nối linh
hoạt giữa thầy và trò trong quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả giáo dục của
tiết học.
Trong các hoạt động giáo dục chung của nhà trường, dù năng lực học trò
thế nào, các nhà trường đều phải chú trọng phát triển nhân cách, đạo đức của
người học sinh. Trong thời đại bùng nổ thông tin, nhiều học sinh bị ảnh hưởng
lớn từ những mặt tiêu cực, hạn chế từ internet dẫn đến nhận thức, hành vi của
các em sai lệch, đi chệch hướng mục tiêu phát triển nhân cách con người mà
giáo dục hướng tới. Nhiều học sinh vì thế mà phai nhạt và xa rời lí tưởng, hạn
chế sự am hiểu về truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước của dân tộc

qua các tác phẩm văn chương. Lớp trẻ ngày nay nặng về tư tưởng hưởng thụ hơn
là cống hiến. Điều đó gây nên hệ luỵ nguy hiểm đối với việc hình thành ý thức
trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay đối với cộng đồng, xã hội, rộng hơn là đối
với quê hương, đất nước. Đề tài này góp phần xây dựng một bài học mà qua đó
giúp quá trình giáo dục đạo đức, nhân cách cũng như ý thức trách nhiệm của thế
hệ trẻ ngày một tốt hơn.
Với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá trong giáo dục đang được áp dụng
chung trong các nhà trường phổ thông, việc làm thế nào để học trò nắm được giá
trị cơ bản của tác phẩm nhằm góp phần nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm thơ
trữ tình là điều khó khăn trong quá trình giáo dục học sinh. Đề tài của tôi sẽ góp
một sáng kiến nhằm giúp các em khắc phục khó khăn để có thể dễ dàng cảm thụ
được giá trị của một tác phẩm văn chương đích thực. Đặc biệt là các tác phẩm
thơ ca cách mạng vốn gây khó khăn không chỉ đối với học sinh trong quá trình
cảm thụ và lĩnh hội tác phẩm mà còn gây không ít khó khăn cho giáo viên trong
quá trình giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh thông qua nội dung của bài
học. Từ đó, góp phần hiệu quả vào quá trình giáo dục chung của các nhà trường
phổ thông.
18


2.4.2 Đối với bản thân
Qua nhiều năm thử nghiệm ở các cách dạy khác nhau về bài thơ “Từ ấy”
của Tố Hữu, tôi nhận thấy các em rất ngại học các tác phẩm thơ ca cách mạng.
Điều tra nguyên nhân tôi thu được những câu trả lời là do vấn đề mà các tác
phẩm thơ ca cách mạng đề cập đều là những vấn đề lớn lao, mang tầm vĩ mô
khiến cho các em học sinh ngại tìm hiểu, sợ nói sai, sợ nói không trúng. Trong
khi nhu cầu tìm hiểu của các em lại chủ yếu tập trung vào những vấn đề gần gũi
trong cuộc sống hàng ngày. Mặt khác, khám phá văn bản ngôn từ cho thấy hệ
thống từ ngữ của các tác phẩm thơ ca cách mạng, trong đó có bài “Từ ấy” chủ
yếu là hệ thống từ ngữ chính luận lồng trong ngôn ngữ nghệ thuật khiến cho các

em học sinh khó tiếp thu.
Từ những vấn đề khó khăn được rút ra, tôi nhận thấy muốn tạo hứng thú
cho các em học sinh học tốt tác phẩm này cũng giống như thơ ca cách mạng nói
chung, người thầy cần phải kéo các đơn vị kiến thức mang tính cách mạng, lí
thuyết vĩ mô về gần với đời sống hàng ngày, giải thích ngôn ngữ mang tính
chính luận gần với cách cảm, cách nghĩ của các em trong cuộc sống hàng ngày.
Từ đó có cách định hướng các em khám phá tốt những giá trị mà tác phẩm mang
lại, góp phần hình thành lí tưởng sống đúng đắn của các em. Làm được điều đó,
chắc chắn sẽ góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp của người thanh niên
cộng sản trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc ngày nay.
2.4.3 Với đồng nghiệp và nhà trường
Đối với đồng nghiệp, đề tài của tôi góp phần giúp các thầy cô giáo đang dạy
môn Ngữ văn tại các nhà trường phổ thông có thêm một giải pháp nhằm tháo gỡ
khó khăn trong việc giáo dục học sinh qua bài học. Bên cạnh đó, sáng kiến kinh
nghiệm này còn đề xuất cách để giáo dục nhân cách cho học sinh một cách hiệu
quả; đồng thời, thu hút các em học sinh có hứng thú hơn trong việc học tập môn
Ngữ văn, nhất là trong việc học tập các tác phẩm thơ ca cách mạng. Đề tài còn
góp phần giúp cho các đồng nghiệp đang kiêm nhiệm làm giáo viên chủ nhiệm
lớp tại các nhà trường phổ thông có phương pháp tốt nhất để giáo dục và rèn
luyện học sinh trở thành công dân có ích cho xã hội.
Đối với nhà trường, đề tài của tôi sẽ góp phần cùng với nhà trường có thêm
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chung của nhà trường. Đặc biệt,
trường THCS&THPT Như Thanh nơi tôi đang công tác là một ngôi trường mới
thành lập với hai cấp học nên nhà trường cũng còn nhiều khó khăn trong việc
giáo dục học sinh. Môi trường hai cấp học lại ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó
khăn, đối tượng học sinh với gần 90% là người dân tộc thiểu số sẽ tạo nên sự
phức tạp, gây nhiều khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp giáo dục học
sinh không chỉ đối với từng giáo viên mà còn đối với nhà trường nói chung. Việc
đổi mới giảng dạy tiết Ngữ văn nói chung, tác phẩm “Từ ấy” của nhà thơ Tố
Hữu nói riêng theo hướng này sẽ góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách và ý

thức trách nhiệm cho học sinh một cách hiệu quả. Từ đó, nâng cao chất lượng
dạy học môn Ngữ văn trong các nhà trường thiết thực và hiệu quả hơn.
18


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI
3.1 Kết luận
Có thể thấy rằng, việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những
khâu quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học, góp phần đào tạo nên
một thế hệ thanh niên có trí tuệ, bản lĩnh, có lí tưởng và hoài bão trong thời đại
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới và hội nhập quốc tế. Đặc biệt là ở môn
Ngữ văn, một môn học không chỉ coi trọng dạy chữ mà còn góp phần rèn luyện
nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, bồi đắp lí tưởng cho người học. Trong xã hội
ngày càng bùng nổ thông tin kết hợp với quá trình đổi mới và hội nhập, việc rèn
luyện bản lĩnh cách mạng, hình thành lí tưởng, xây hoài bão đẹp cho thế hệ
thanh niên học sinh ngày nay là một việc làm cần thiết. Sáng kiến kinh nghiệm
của tôi có được từ những suy nghĩ đó kết hợp với việc nâng cao chất lượng dạy
học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông để vừa phát huy giá trị môn học
vừa góp phần đào tạo, bồi dưỡng lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học
sinh phổ thông trong tình hình mới hôm nay.
Qua việc thực hiện ứng dụng sáng kiến vào thiết kế bài học tác phẩm “Từ
ấy” trong năm học 2017-2018 cho học sinh 2 lớp 11C1 và 11C4 (lớp 11C1
không áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và lớp 11C4 áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm), tôi nhận thấy các em ở lớp 11C4 có sự hứng thú hơn trong tiếp thu bài
học so với lớp 11C1. Đặc biệt, các em đã có sự hiểu biết hơn qua bài học về sự
dấn thân cống hiến hi sinh cả cuộc đời mình vì lí tưởng cộng sản của người
thanh niên Tố Hữu khi mới 17 tuổi. Từ đó, hình thành nên trong các em những
định hướng cho tương lai của mình trên cơ sở trách nhiệm cá nhân đối với cộng
đồng, rộng hơn là với đất nước, quê hương. Từ tấm gương Tố Hữu và các nhà
cách mạng tiền bối, giáo dục cho các em đức tính hi sinh vì người khác, có ý

thức với chính bản thân và xã hội.
Để đánh giá các mức độ của HS, tôi cho HS 2 lớp làm bài kiểm tra sau khi
học tập (một lớp không áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, một lớp áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm) với cùng một câu hỏi: Phân tích để làm nổi bật lí tưởng của
người thanh niên cộng sản qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu. Kết quả kiểm tra
hai lớp 11C1 và 11C4 (cùng sĩ số 37 học sinh) như sau:
- Lớp 11C1 (Không áp dụng tri thức từ SKKN - dạy theo giáo án cũ):
TS: 37

Điểm Giỏi

Điểm
Khá

Điểm TB

Điểm Yếu

Điểm Kém

Số HS

2

10

20

4


1

Tỉ lệ

5.4%

27.0%

54.0%

10.9%

2.7%

- Lớp 11C4 (Áp dụng tri thức từ SKKN - dạy theo giáo án mới):
TS: 37

Điểm Giỏi

Điểm
Khá

Điểm TB

Điểm Yếu

Điểm Kém

Số HS


10

17

9

1

0
18


Tỉ lệ

27.0%

46.0%

24.3%

2.7%

0%

3.2 Kiến nghị
Nhà trường cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc quán triệt cho cán bộ
giáo viên liên tục đổi mới phương pháp dạy học và trang bị cho giáo viên đầy
đủ phương tiện dạy học để ngày càng có kết quả cao hơn nữa, nhất là ở những
môn xã hội. Ngành giáo dục các cấp cần quan tâm chỉ đạo hơn nữa tới các nhà
trường để làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, đặc

biệt là lí tưởng cách mạng cho học sinh trong các nhà trường phổ thông.
Mỗi thầy cô giáo cần nâng cao vai trò của cá nhân trong việc xây dựng
chương trình dạy học gắn với đổi mới phương pháp cho phù hợp với đối tượng
học sinh ở mỗi vùng miền. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi nếu được áp dụng thì
tính phổ quát của nó rất cao, có thể ứng dụng cho tất cả các đối tượng học sinh,
nhưng giáo viên vận dụng nên linh hoạt và có chọn lọc cho phù hợp với từng
đối tượng, nhất là đối với học sinh các trường ở khu vực đặc biệt khó khăn.
Dù bản thân tôi đã có nhiều cố gắng khi thể hiện sáng kiến kinh nghiệm
của mình và ít nhiều đã có được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, đây
cũng mới chỉ là một sáng kiến kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình dạy
học của một cá nhân nên không tránh khỏi tính chủ quan, cá nhân. Kính mong
nhận được sự góp ý, trao đổi của các bạn đồng nghiệp để cùng nhau đưa ra
những giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng bài dạy về bài thơ “Từ ấy”
sao cho hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. Đồng thời,
góp phần giáo dục lí tưởng sống, lí tưởng cách mạng cho học sinh thông qua bài
học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Như Thanh, ngày 20 tháng 5 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Đây là SKKN của tôi
Tôi xin cam kết không phô tô, sao chép
Tác giả

Phạm Tiến Triều

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Luận (Chủ biên) - Phương pháp dạy học Văn - NXB Giáo

dục, Hà Nội 2000
2. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) - Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Chương
trình Chuẩn) - NXB Giáo dục 2007
3. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) - Sách giáo viên Ngữ văn 11(Chương
trình Chuẩn) - NXB Giáo dục 2007
4. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) - Bài tập Ngữ văn 11(Chương trình
Chuẩn) - NXB Giáo dục 2007
5. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) - Sách giáo khoa Ngữ văn 11(Chương
trình Nâng Cao) - NXB Giáo dục 2007
6. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) - Sách giáo viên Ngữ văn 11(Chương
trình Nâng Cao) - NXB Giáo dục 2007
7. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) - Bài tập Ngữ văn 11(Chương trình Nâng
Cao) - NXB Giáo dục 2007
8. Chu Văn Sơn (Chủ biên) - Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học lớp
11 - NXB Giáo dục 2008
9. Lê Huy Bắc (Chủ biên) - Trọng tâm kiến thức Ngữ văn 11 - NXB Đại học
quốc gia Hà Nội 2009
10. Trương Dĩnh (Chủ biên) - Thiết kế dạy học Ngữ văn 11 theo hướng tích
hợp - NXB Giáo dục 2008
11. Nguyễn Hữu Lễ (Chủ biên) - Hướng dẫn Đọc văn - Làm văn 11 - NXB
Giáo dục 2008
12. Phạm Minh Diệu (Chủ biên) - Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11 - NXB
Đại học quốc gia Hà Nội 2007
13. Đỗ Kim Hảo - Trần Hà Nam - Bồi dưỡng Ngữ văn 11 - NXB Đại học sư
phạm Hà Nội 2007
14. Lê Huy Bắc (Chủ biên) - Ngữ văn Ôn thi tốt nghiệp và tuyển sinh quốc
gia - NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2012
15. Trịnh Thu Tuyết - Tài liệu ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn từ năm
2015 - NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2015
16. Nguyễn Thị Thu Hạnh - Nguyễn Thị Hoài An (Đồng chủ biên) – Đề

luyện thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn - NXB Đại học
quốc gia Hà Nội 2016
17. Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên) - Luyện thi trung học phổ thông quốc gia
năm 2017 môn Ngữ văn - NXB Giáo dục Việt Nam 2016
9. Lê Kim Long (Chủ biên) - Hướng dẫn ôn tập kì thi trung học phổ thông
quốc gia môn Ngữ văn - NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2016

18


DANH MỤC CÁC SKKN ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
TRONG CÁC NĂM HỌC TRƯỚC
STT

Tên sáng kiến kinh nghiệm

Xếp loại

Năm học

1

Một cách đọc hiểu tác phẩm thơ Xuân Diệu
nhìn từ tư duy nghệ thuật thơ tượng trưng

C

2007-2008

2


Vận dụng một số tri thức văn hoá các dân tộc
thiểu số để dạy bài “Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài

B

2011-2012

3

Dạy học tác phẩm truyện ngắn cho học sinh
khối 12 trường THCS&THPT Như Thanh từ
việc khai thác vai trò, tác dụng của tình huống
truyện

B

2014-2015

18



×