Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 – THPT tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.64 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT TẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 12 – THPT
TIẾP CẬN THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN TỪ GÓC ĐỘ
TÌNH HUỐNG TRUYỆN

Người thực hiện: Trương Thị Hồng
Chức vụ : Giáo viên- TTCM
SKKN thuộc lĩnh vực(môn) : Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2018


MỤC LỤC

I. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT nâng
cao hiệu quả tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc độ tình huống
truyện”
2. 1. Cơ sở lí luận
2. 2. Thực trạng vấn đề
2. 3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT tiếp cận thể loại
truyện ngắn trong chương trình từ góc độ tình huống truyện.


2.3.1. Cung cấp hệ thống kiến thức lí thuyết cơ bản về truyện ngắn và
tình huống truyện
2.3.2. Qui trình tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc độ tình huống
truyện.
2.3.3. Thực hành giảng dạy một số tác phẩm truyện ngắn trong chương
trình 12 từ góc độ tình huống truyện
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong thực nghiệm dạy học
hướng dẫn học sinh lớp 12- THPT tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc
độ tình huống truyện.
III. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang

1
1
2
2
2
2
2
3
5
5
7
9
15
16
16

16


I.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.1.1- Cũng như hầu hết các nước tiên tiến, ở nước ta hiện nay, vấn đề
chất lượng giảng dạy khoa học nhân văn( đặc biệt môn Ngữ văn) trở thành mối
quan tâm của các nhà sư phạm, các nhà quản lí giáo dục và của toàn xã hội.
Sau nhiều lần cải cách giáo dục, môn Văn trong nhà trường đã có những
bước tiến đáng kể. Chất văn chương, chất nhân văn, tính giáo dục của chương
trình Ngữ văn được nâng lên. Việc tiếp cận chương trình Ngữ Văn ở các cấp
học, lớp học cũng được mở rộng, nâng cao ở nhiều phương diện khác nhau.
Vấn đề thể loại văn học được mở rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có
điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn học trong nhà trường. Bên cạnh việc
lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số
thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết, kịch (gọi chung là văn bản nghệ
thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể
loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch
sử,...Ở mỗi thể loại văn học đòi hỏi người dạy và người học phải có những
phương pháp tiếp cận phù hợp để đạt được hiệu quả.
1.1. 2 - Truyện ngắn là một trong những thể loại quan trọng và chiếm số
lượng lớn trong chương trình Ngữ văn nhà trường nói chung, và cấp trung học
phổ thông nói riêng. Đây cũng là một trong những thể loại văn học được giáo
viên và học sinh khá yêu thích trong quá trình giảng dạy cũng như học tập bộ
môn Ngữ văn.
Tuy nhiên việc giảng dạy thể loại truyện ngắn trong nhà trường để từ đó
giúp học sinh tiếp cận được giá trị tư tưởng tác phẩm không phải là điều đơn
giản. Vấn đề luôn đặt ra đối với người giáo viên giảng dạy Ngữ văn là làm thế
nào có thể hướng dẫn học sinh tiếp cận, tìm hiểu các truyện ngắn trong chương
trình Ngữ văn trung học phổ thông một cách hiệu quả nhất để từ đó gợi niềm

đam mê và hứng thú học tập bộ môn này. Thực tế giảng dạy các tác phẩm truyện
ngắn trong nhà trường hiện nay cũng đã có khá nhiều cách để người giáo viên
hướng dẫn học sinh tiếp cận, tìm hiểu, khai thác các tác phẩm đạt hiệu quả như:
cốt truyện, đề tài, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ ... Nhưng “vấn đề cơ bản của
truyện ngắn là tình huống của nó” (Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác
phẩm văn chương theo loại thể, NXB ĐHSP, 2006). Bởi vì nói như nhà văn
Nguyên Ngọc: “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu
của truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt…Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện
bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu
nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày”. Hơn nữa, các
truyện ngắn có trong chương trình, thì mỗi truyện được nhà văn xây dựng với
những ý đồ nghệ thuật và thi pháp khác nhau. Do đó, đòi hỏi ở người dạy và
người học hướng khai thác và tiếp cận phù hợp với từng tác phẩm.
Từ yêu cầu đổi mới, bằng kinh nghiệm thực tế giảng dạy Ngữ văn ở
trường trung học phổ thông, người viết xin đề xuất: Một vài giải pháp giúp học
1


sinh lớp 12- THPT tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài này, bản thân tôi mong muốn đưa ra một số giải pháp
mang tính định hướng về nội dung và phương pháp tiếp cận truyện ngắn từ góc
độ tình huống truyện. Từ đó trao đổi kinh nghiệm giúp giáo viên bộ môn định
hướng, tích lũy thêm kinh nghiệm giảng dạy. Đồng thời giúp học sinh khối 12
phát triển tư duy, nâng cao năng lực cảm thụ, năng lực phân tích- tổng hợp nhằm
vận dụng có hiệu quả trong việc tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc độ tình
huống truyện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về một số giải pháp giúp học sinh lớp 12THPT nâng cao hiệu quả trong việc tiếp cận thể loại truyện ngắn trong chương
trình từ góc độ tình huống truyện.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp so sánh, phân loại, phân tích, chứng minh, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
II. Nội dung “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT tiếp cận thể loại
truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện”
2.1. Cơ sở lí luận.
Trong chương trình Ngữ văn phổ thông nói chung và ngữ văn 12 nói
riêng, thể loại truyện ngắn chiếm ¾ số lượng tác phẩm văn xuôi. Điều đó cho
thấy truyện ngắn có vị trí hết sức quan trọng. Trong cấu trúc của đề kiểm tra, đề
thi các cấp, thi học sinh giỏi, thi THPT quốc gia thường luôn có sự hiện diện
của tác phẩm văn xuôi. Giảng dạy các tác phẩm truyện ngắn giúp học sinh
không chỉ khám phá được cái hay, cái đẹp của sáng tác nghệ thuật ngôn từ, mà
còn thu thập được vốn hiểu biết về văn học, cảm thụ được tầm tư tưởng của
người viết. Tuy nhiên, văn học vốn mang tính hình tượng, tính trừu tượng nên
những sáng tác có khoảng cách xa so với thực tại, chứa đựng những tư duy,
những quan niệm thẩm mỹ, những tư tưởng của nhà văn và thời đại là những
khó khăn lớn đối với người học. Hơn nữa, với dung lượng kiến thức lớn nhưng
lại bị hạn chế bởi phân phối chương trình quy định bài học trong thời gian ngắn
thường chỉ 1- 2 đến 3 tiết học khiến giáo viên khi giảng dạy vẫn chưa đạt được
tới đích những giá trị của các tác phẩm truyện ngắn. Từ thực tế này đòi hỏi giáo
viên Ngữ văn cần lựa chọn phương pháp – phương tiện dạy học phù hợp với
từng nội dung, đặc trưng của tiết học, nhằm tổ chức, định hướng cho học sinh
thu thập thông tin, chinh phục kho tàng tri thức một cách hiệu quả.
Với thể loại truyện ngắn, ngoài việc tiếp cận tác phẩm qua phân tích nhân
vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ..., chúng ta còn có thể tiếp cận từ tình huống
của truyện. Bởi việc tìm hiểu những giá trị tác phẩm truyện ngắn đi từ tình
2



huống truyện giúp ta xem xét, đánh giá tác phẩm trong hệ thống các mối quan
hệ biện chứng, mắt xích lẫn nhau. Tình huống truyện là dụng ý nghệ thuật, là ý
đồ của nhà văn để gửi gắm tư tưởng, thông điệp trong tác phẩm; thể hiện phong
cách độc đáo của tác giả. Một truyện ngắn có thành công được hay không cũng
bởi sự đóng góp quan trọng của việc xây dựng tình huống truyện : “Quan trọng
nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi
một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng”( Nguyễn Đăng
Mạnh - Truyện ngắn hôm nay - báo Văn nghệ, số 48, ngày 30/11/1991). Các tác
phẩm truyện ngắn trong chương trình THPT nên tiếp cận từ hướng này đó là:
Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Chữ người
tử tù (Nguyễn Tuân), Vi hành (Nguyễn Ái Quốc), Đôi mắt (Nam Cao), Vợ nhặt
(Kim Lân), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi), Chiếc thuyền ngoài xa
(Nguyễn Minh Châu), ...
Như phân tích trên ta thấy việc khai thác, tìm hiểu, khám phá từ góc độ
tình huống truyện đây là một phương thức rất hiệu quả trong quá trình giảng dạy
tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn. Nó phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh để hiểu sâu tác phẩm. Tuy nhiên, vấn đề này đến nay vẫn chưa được sự
quan tâm đúng mức của người dạy và người học nên việc cảm thụ tác phẩm
truyện ngắn của người học chưa được sâu sắc. Cách cảm thụ đôi khi còn mang
tính chung chung, hời hợt, thậm chí xem tình huống truyện chỉ là “lẫy nhỏ” khi
tiếp cận tác phẩm.
Từ thực tế giảng dạy, từ yêu cầu thực hiện việc đổi mới và phát triển sự
nghiệp giáo dục, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện các môn học thì
việc đổi mới phương pháp là nhiệm vụ cấp thiết trong hoạt động dạy – học.
Thực tế ứng dụng khi tiếp cận tình huống truyện trong hoạt động dạy học các tác
phẩm truyện ngắn trong chương trình 12 cho thấy đây là một phương thức rất
hiệu quả. Người dạy và người học đều nhận thấy rõ tính ưu việt của phương
thức này. Nhận thức sâu sắc tính cấp thiết của vấn đề, trong quá trình giảng dạy

bản thân tôi không ngừng tìm tòi, khám phá để từng bước ứng dụng có hiệu quả
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH 12- THPT TIẾP CẬN THỂ
LOẠI TRUYỆN NGẮN TỪ GÓC ĐỘ TÌNH HUỐNG TRUYỆN”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Về phía Giáo viên:
Thực tế trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên đang cố gắng từng bước
đổi mới phương pháp giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Tuy nhiên
vẫn còn những hạn chế nhất định khi giảng dạy: chưa đặt tác phẩm trong một
tình huống cụ thể (thời gian, không gian...) để xem xét các mối quan hệ đa
chiều, biện chứng với các nhân vật, nội dung và nghệ thuật; chưa đặt ra được
tình huống có vấn đề, chưa xác định được nó là “chìa khóa” để khám phá tác
phẩm và đồng thời thể hiện tư tưởng, phong cách của nhà văn.
Một số giáo viên vẫn chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh, nhiều
giáo viên còn tỏ ra lúng túng, thiếu kinh nghiệm nên việc ứng dụng chưa thực sự

3


hiệu quả. Một số giáo viên chưa thường xuyên sử dụng, chỉ áp dụng trong các
giờ thao giảng. Dẫn dến các thao tác chưa được thuần thục hoặc thiếu kinh
nghiệm nên dạy hiệu quả không cao, chưa phát huy được tính tích cực của học
sinh, chưa rèn luyện kĩ năng tạo lập của học sinh, phát huy tính tích cực của học
sinh trong quá trình giảng dạy.
b. Về phía Học sinh:
Có thể nói, dạy học tác phẩm truyện ngắn đi từ góc độ tình huống truyện
là đặt tác phẩm vào một tình huống cụ thể để làm nổi bật nội dung và nghệ
thuật, điều đó kích thích được trí tò mò, khám phá, tìm hiểu, giúp học sinh học
được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Với đối tượng học sinh cuối cấp
lớp 12 thì việc trang bị hệ thống kiến thức cơ bản để chuẩn bị đối diện với các kì
thi sắp tới lại càng cần thiết.

Tuy nhiên thực tế ở trường phổ thông cho thấy, nhiều học sinh có xu
hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng
môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ, chưa có phương pháp phù hợp.
Một số em học tập chăm chỉ nhưng kết quả học tập chưa cao. Các em thường
học bài nào biết bài đó, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không
biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến
thức đã học trước vào bài học sau, vào các dạng đề thi. Nhiều học sinh chưa xác
định được mình là trung tâm của quá trình dạy- học, học theo lối thụ động, ít
soạn bài hoặc thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách
giáo khoa hoặc sách tham khảo và nhắc lại mà chưa có suy nghĩ độc lập và tư
duy, việc phân tích, tổng hợp giá trị nội dung, tư tưởng bài học còn nhiều hạn
chế. Do đó, việc dạy học tác phẩm truyện ngắn đi từ tình huống truyện, sẽ giúp
học sinh học nắm được phương pháp tiếp cận tác phẩm văn xuôi một cách dễ
dàng, khoa học tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Từ đó
từng bước nâng cao kết quả trong học tập bộ môn Ngữ văn.
Đầu năm học, tôi tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng làm văn kiểu bài
nghị luận văn học về phân tích tình huống truyện qua một số tác phẩm truyện
ngắn chương trình 11( Hai đứa trẻ- Thạch Lam, Chữ người tử tù- Nguyễn Tuân)
ở các lớp trực tiếp giảng dạy, kết quả thu được không khả quan, phần lớn các em
đã xác định được tình huống trong truyện, tuy nhiên việc phân tích, đánh giá, rút
ra ý nghĩa từ tình huống truyện thì thực sự còn quá nhiều hạn chế thiếu sót. Kết
quả cụ thể như sau:
Lớp

Sĩ số

Điểm 9-10

Điểm 7- 8


Điểm 5-6

Điểm 3-4

12C

42

0

5- 11,9%

15- 35,7%

22-53,4% 0

12D

45

0

6- 13,3%

17- 37,7%

20-45,6% 2- 4,4%

12E


38

0

3- 7,8%

11- 28,9%

22-39%

0

14- 12,2%

43-34,4%

64-50,2% 4-3,2%

Tổng % 125

Điểm 1-2

2- 5,3%

4


Xuất phát từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên đây, bằng kinh nghiệm
của bản thân qua nhiều năm giảng dạy kết hợp với sự trao đổi, tham khảo ý kiến
của các đồng nghiệp, tôi mạnh dạn áp dụng ý tưởng của mình, đưa ra một số giải

pháp nhằm giúp học sinh 12- THPT tiếp cận thể loại truyện ngắn từ góc độ tình
huống truyện.
2.3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT tiếp cận thể loại truyện
ngắn trong chương trình từ góc độ tình huống truyện
2.3.1. Cung cấp hệ thống kiến thức lí thuyết cơ bản về truyện ngắn và tình
huống truyện
2.3.1.1. Khái luận về truyện ngắn
Thể loại truyện ngắn xuất hiện khá sớm trong lịch sử thể loại văn học.
Đồng thời là thể loại sáng tác phổ biến, kết tinh nhiều thành tựu xuất sắc. Nhận
diện thể loại truyện ngắn là nỗ lực lớn, liên tục của cả người sáng tác và giới
nghiên cứu lí luận. Từ W.Gơt ở thế kỉ XVII cho đến Sê khôp từ Lỗ Tấn đến
Môpatxăng từ Antônôp thế kỉ XIX- XX đến Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Kiên… Họ đưa ra những cách khu biệt khác nhau. Các định
nghĩa thường xoáy vào các bình diện chính : dung lượng cốt truyện nhân vật chi
tiết ngôn ngữ… để khái quát thành đặc trưng. Người thì cho truyện ngắn là một
"khoảnh khắc", người thì nhấn mạnh vào nhân vật, vào tính súc tích của chi tiết,
cô đúc của ngôn từ...
Từ những nghiên cứu, có thể phân định truyện ngắn dựa vào hai tiêu chí
chính là dung lượng và thi pháp:
- Về dung lượng : truyện ngắn được xem là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ chủ yếu
được viết bằng văn xuôi. Nghĩa là ngắn thậm chí cực ngắn (truyện mini) nhân
vật không nhiều tình tiết và chi tiết đời sống cũng không nhiều.
- Về thi pháp : ngoài những yếu tố như cốt truyện, lối trần thuật, ngôn
ngữ... thì tình huống được xem là hạt nhân thể loại của truyện ngắn.
Bởi thế ở phần cốt yếu có thể hình dung : truyện ngắn là tác phẩm tự
sự cỡ nhỏ mà nội dung thường chỉ xoay quanh một tình huống truyện chủ
chốt nào đó.
2.3.1.2. Khái luận về tình huống truyện:
* Khái niệm và vai trò của tình huống truyện
Như trên ta thấy, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất của

nghệ thuật truyện ngắn. Truyện ngắn chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ
đề nhất định. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảnh khắc của đời sống.
Theo Hêghen, nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức (1770- 1831) trong tác
phẩm nổi tiếng Mỹ học đã dành nhiều trang viết về tình huống: “Nói chung tình
huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở
trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có
được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện nghệ thuật”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có
5


kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế
xảy ra chuyện, thế là coi như xong một nửa…Những nhà văn có tài đều là
những người có tài tạo ra những tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa mang
tính phổ biến hoặc tượng trưng” và “…những người cầm bút có cái biệt tài có
thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó
cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc
sống…nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm
can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa
đựng cả một đời người, một đời nhân loại” (Nguyễn Minh Châu, Trang giấy
trước đèn, NXB KHXH, H. 1994, tr. 258).
Tình huống còn được gọi là tình thế. Các nhà văn Việt Nam quen dùng
tình thế hơn là tình huống. Nhà văn Nguyễn Kiên đã hơn một lần nói về bản chất
và vai trò của tình huống: “Theo quan niệm của tôi, mỗi truyện ngắn chỉ tập
trung vào một tình thế nảy sinh trong cuộc sống. Nếu truyện ngắn có đến hơn
một tình thế thì truyện ngắn đó lập tức bị phá vỡ”. (Nhiều tác giả, Nghệ thuật
viết truyện ngắn và ký, NXB Thanh niên, H. 2000, tr. 44).
Nhà văn Nguyên Ngọc khi bàn về truyện ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn đề tình
huống: “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của
truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt […] Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng

cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại
bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày” (Bùi Việt Thắng, Truyện
ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, NXB ĐHQGHN, H. 2000, tr.
114).
Từ một số ý kiến trên, có thể khái quát về tình huống truyện như sau:
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó
chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại
đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được
bộc lộ sắc nét nhất.
* Phân loại tình huống
Hiện nay, có nhiều cách phân loại tình huống truyện. Sự phân loại dựa
trên những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên việc phân loại chỉ mang tính chất
tương đối, đôi khi các dạng lại có sự pha tạp lẫn nhau. Tạm chia Tình huống
truyện thành hai loại chính sau:
a. Về tính chất: có thể chia truyện ngắn thành ba dạng chính, bởi chứa đựng ba
dạng tình huống truyện căn bản :
- Tình huống hành động: Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới
một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống
này thường hướng tới một kiểu nhân vật : Nhân vật hành động. Tức là loại nhân
vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động, các bình diện khác
ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện : truyện
ngắn giàu kịch tính ( Chí Phèo- Nam Cao).

6


- Tình huống tâm trạng: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật
rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm.
Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là : Con người tình
cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó,

nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu
là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh
khác (như ngoại hình, hành động, lí tính…) ít được quan tâm. Và vì thế, nó
quyết định đến diện mạo của toàn truyện : truyện ngắn trữ tình ( Hai đứa trẻThạch Lam)
- Tình huống nhận thức: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật
được đẩy tới một tình thế bất thường : đối mặt với một bài học nhận thức, bật
lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân
vật của dạng tình huống này đương nhiên là : nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu
nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu
cơ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết,
chiêm nghiệm, toan tính v.v… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật
giống như một tư tưởng được nhân vật hoá vậy. Diện mạo của loại truyện ngắn
này cũng đương nhiên là nghiêng về triết luận (Chữ người tử tù- Nguyễn Tuân,
Đôi mắt- Nam Cao, Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu...)
b. Về số lượng: có thể thấy truyện ngắn có hai loại :
- Truyện một tình huống: Cả truyện ngắn chỉ xoay quanh một tình huống duy
nhất. Ví dụ: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) , Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Đôi
mắt ( Nam Cao), Vợ nhặt (Kim Lân)...
- Truyện ngắn nhiều tình huống: Cả thiên truyện được dệt từ nhiều tình huống
Ví dụ: Chí phèo (Nam Cao), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)...
2.3.2. Qui trình tiếp cận truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện.
Khi tiếp cận với mỗi tác phẩm truyện ngắn người đọc không thể bỏ qua
việc phân tích tìm hiểu các thành tố cấu thành như cốt truyện, nhân vật, ngữ
cảnh, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu...Tuy nhiên nếu chưa nắm được tình huống
thì chưa có được chìa khóa quan trọng nhất để đi vào thế giới bí ẩn của tác
phẩm. Đọc truyện ngắn điều quan trọng nhất là phải đọc ra được tình huống
trong đó. Vì thế khi dạy học giáo viên phải hướng dẫn để học sinh chủ động tìm
và phát hiện ra tình huống từ tác phẩm. Để làm được việc này giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh tiến hành lần lượt các bước sau đây:
Bước 1: Đọc và tóm tắt tác phẩm theo nội dung cốt truyện, hoặc theo

nhân vật chính.
Ở bước đầu tiên này giáo viên cho học sinh tự đọc tác phẩm, có thể gạch
chân dưới những từ ngữ, hình ảnh, đoạn văn trần thuật với những sự việc, chi
tiết tiêu biểu có sức chứa đựng nội dung tư tưởng. Từ đó nắm vững nội dung cốt
truyện, có thể tóm tắt diễn biến cốt truyện theo nội dung chính hoặc theo nhân
vật chính. Với những truyện ngắn có dung lượng lớn, thời gian hoạt động trên

7


lớp không nhiều, bước này giáo viên hướng dẫn cho học sinh thực hiện ở nhà
kết hợp khi học và soạn bài.
Bước 2: Xác định tình huống truyện :
Trong truyện ngắn có những truyện có tình huống, có truyện không chứa
đựng tình huống; có truyện chứa đựng một hoặc nhiều tình huống, vì thế giáo
viên phải hướng dẫn cho học sinh “ chọc thủng” điểm mắt xích này bằng các các
bước nhỏ sau:
- Đặt câu hỏi để xác định tình huống, ví dụ: Sự kiện nào bao trùm và chi
phối toàn bộ thiên truyện này? Hay sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng
lên toàn bộ truyện ngắn này? Vấn đề mấu chốt nào nảy sinh chi phối đến toàn bộ
tác phẩm?...
- Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một
trong các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện,
hay chúng chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn
hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả?
- Tìm tên gọi để định danh tình huống: Đây là khâu khá then chốt, chưa
tìm được tên gọi thích hợp thì xem như tình huống vẫn chưa tìm ra.
Bước 3: Phân tích tình huống:
Cần phân tích tình huống trên các bình diện cơ bản sau:
-Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)

-Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)
-Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối
đến tổ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)
Bước 4 : Đánh giá khái quát về tình huống truyện qua
tác phẩm. Từ đó rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống và
nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
* Về ý nghĩa tư tưởng: Thông điệp thẩm mĩ mà tình huống chứa đựng:
-Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về đạo đức, nhân sinh, thẩm mĩ ?
-Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ?
* Về nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: xây dựng bằng phương
thức nào? có độc đáo, mới lạ hay không? Từ đó khẳng định được gì về phong
cách tác giả?...
Trên đây là bốn bước cơ bản để giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận với
tác phẩm truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện. Để xác định được đúng tình
huống truyện, phân tích và rút ra ý nghĩa tư tưởng, nghệ thuật xây dựng tình
huống trong mỗi tác phẩm truyện không phải việc dễ dàng, nó đòi hỏi học sinh
phải có vốn lí luận cơ bản về truyện ngắn và tình huống truyện, từ đó vận dụng
linh hoạt, tiếp cận chính xác tình huống trong từng tác phẩm. Có thành thục việc
này chúng ta mới thực sự hiểu sâu được văn bản, nắm được thông điệp mà tác

8


giả gửi gắm qua mỗi tác phẩm truyện ngắn. Từ đó thấy phong cách tác giả và
đóng góp của tác giả trong nền văn học...
2.3.3. Thực hành giảng dạy một số tác phẩm truyện ngắn trong chương
trình 12 từ góc độ tình huống truyện
Từ cơ sở lí luận trên đây, khi thực tế áp dụng vào dạy học các tác phẩm
truyện ngắn, sau phần tiểu dẫn- tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm, ở phần
đọc hiểu văn bản tôi thường cho học sinh xác định tình huống truyện. Từ

tình huống truyện để đi khai thác các yếu tố khác xoay quanh nó như: kết
cấu, ngôn ngữ, hình tượng nhân vật, nghệ thuật trần thuật... Từ đó rút ra ý
nghĩa tư tưởng chủ đề tác phẩm.
Trong phần thực hành giảng dạy một số tác phẩm truyện ngắn trong
chương trình 12 từ góc độ tình huống truyện, tôi tập trung vào ba tác phẩm tiểu
cho hai dạng tình huống truyện: truyện ngắn chứa một tình huống (Vợ nhặt- Kim
Lân, Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu ), và truyện ngắn chứa nhiều
tình huống (Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài)
2.3.3.1. Tác phẩm: Vợ chồng APhủ của Tô Hoài:
a. Đọc và tóm tắt tác phẩm
b. Xác định tình huống truyện:
Không giống như các truyện ngắn khác, Vợ chồng APhủ của Tô Hoài bao
gồm nhiều tình huống: có tình huống hành động, có tình huống nhận thức. Các
tình huống này có mối quan hệ móc xích với nhau : từ tình huống này nảy sinh
tình huống khác. Có những tình huống then chốt làm này sinh những chi tiết sự
việc, có những tình huống chỉ là bước đệm dẫn dắt cho những tình huống sau.
Truyện có thể xác định được các tình huống cơ bản sau:
- Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí PaTra
- Trong đêm tình mùa xuân.
- Mị cởi trói cho A Phủ
c. Phân tích tình huống truyện:
* Tình huống Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí PaTra
- Trước khi về làm dâu nhà thống lí: Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo –
“nghèo từ trong trứng”; cô trẻ giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị
còn là một cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo…
- Nguyên nhân đẩy Mị vào làm dâu nhà thống lí: “món nợ truyền kiếp” của
người nghèo, cô phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức
làm dâu gạt nợ, bị trả giá bằng cả đời người.
- Khi Mị vào làm dâu nhà thống lí:
+ Phản ứng ban đầu của Mị: khóc, bỏ trốn về nhà, ăn lá ngón tự vẫn--> phản

ứng quyết liệt.

9


+ Kiếp sống của Mị trong nhà thống lí: bị đọa đày cả thể xác và tinh thần: “ lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ mặt buồn rười rượi luôn cúi xuống”... đặc
biệt hình ảnh ô cửa nhỏ căn buồng Mị nằm như một nhà tù thu nhỏ...
+ Sự chai sạn đến chết dần chết mòn, đến tê liệt cả sự sống, mất dần ý thức về
bản thân và mong muốn thay đổi số phận.
* Trong đêm tình mùa xuân
- Không khí ngày tết, cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn--> Hoàn cảnh điển
hình thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị.
- Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị:
+ “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”
+ Mị sống về ngày trước: thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, “Mị
muốn đi chơi”, đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng (Mị muốn thắp sáng tâm hồn mình, cuộc đời mình).
+ Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa”, một hành động tích cực, táo bạo
chưa từng có trong suy nghĩ của Mị. => Mị có ý thức về tuổi trẻ, về quyền sống
hạnh phúc của mình.
- Khi bị A Sử trói đứng: Tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi. Bị trói
về thể xác nhưng tâm hồn Mị vẫn tự do nên quên cả cảnh hiện tại “Mị vùng
bước đi”… Nghệ thuật đối lập “lúc thì khắp người, bị dây trói thít lại, lúc nồng
nàn tha thiết nhớ”. Thể xác: đau đớn, đau nhức > < tâm hồn: tràn trề, tha thiết
nhớ. Tâm trạng Mị bộc lộ khát vọng sống mãnh liệt. Lúc này Mị sợ chết, rất
ham sống (khác hẳn ý định tự tử lúc đầu) “Mị cựa quậy xem còn sống hay chết”.
=> Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân.
* Tình huống Mị cởi trói cho A Phủ
- Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra :

+ Lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên.
+ Khi Mị thấy dòng nước mắt trên má A Phủ. Nhớ lại cảnh ngộ của mình trong
đêm mùa xuân năm trước, Mị đồng cảm, thương xót A Phủ. Mị thấy cái chết sắp
tới với A Phủ là uất ức, phi lí. Mị không sợ hình phạt của Pá Tra , ý thức căm thù
và lòng nhân ái giúp Mị thắng nỗi sợ hãi---> Mị thành con người dũng cảm
trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ.
+ Khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, tự giải phóng
cho chính mình.
==> Tình huống Mị cắt dây trói không chỉ giải thoát A Phủ, Mị còn cắt sợi dây
vô hình ràng buộc mình với gia đình thống lí. Cắt dây cởi trói cho A Phủ là Mị
tự cắt dây cởi trói cho chính mình thoát khỏi hai nhà tù: thần quyền, cường
quyền. A Phủ chạy thoát, Mị “đứng lặng trong bóng tối” rồi “chạy theo A Phủ”.
Mị không muốn chết cũng không muốn sống cuộc sống cũ. Hành động của Mị là
kết quả tất yếu, đỉnh điểm của sức sống tiềm ẩn, của sự phản kháng mạnh mẽ.

10


d. Đánh giá khái quát về tình huống truyện qua tác phẩm. Từ đó rút ra ý
nghĩa tư tưởng của tình huống và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
* Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
- Giá trị hiện thực : + Phản ánh chân thực kiếp sống tăm tối, khốn khổ của người
dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến và thực dân.
+ Vạch trần tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi, lên án cường quyền,
thần quyền và các hủ tục miền núi
- Giá trị nhân đạo :
+ Niềm cảm thông sâu sắc đối với những số phận người lao động miền núi bất
hạnh bị tước đoạt mất quyền sống.
+ Ngợi ca, khẳng định sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con
người trong hoàn cảnh tăm tối hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do.

* Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
- Nghệ thuật xây dựng bằng nhiều tình huống truyện trong tác phẩm “ Vợ chồng
A Phủ” tạo sự đặc sắc, hấp dẫn.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện được thể hiện qua kết cấu, nghệ
thuật trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện, cách xây dựng nhân vật, khắc họa tâm lí
nhân vật...
--> Khẳng định tài năng của Tô Hoài qua việc xây dựng tình huống truyện.
2.3.3.2. Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân:
a. Đọc và tóm tắt tác phẩm
b. Xác định tình huống truyện:
Sau khi đọc qua tác phẩm, ta thấy rằng hạt nhân của truyện ngắn Vợ
nhặt là một cuộc hôn nhân oái ăm, kì lạ. Và đó chính là cái "tình thế nảy ra
truyện", cái tình huống của câu chuyện: Tràng – anh nông dân nghèo thô kệch,
dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
c. Phân tích tình huống truyện: Tình huống “nhặt vợ”
- Tình huống oái ăm, kì lạ:
+ Tràng - một gã trai nghèo khổ, thô kệch, tính khí không bình thường, lại là dân
ngụ cư, lâu nay ế vợ, bỗng dưng "nhặt" được vợ- vợ theo không.
+ Tràng lấy vợ vào thời điểm mà đáng ra không ai lại đi lấy vợ - giữa những
ngày nạn đói đang đe dọa, cái chết đang rình rập cướp đi mạng sống con người.
+ Một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả (thiếu tất cả những lễ nghi tối thiểu
nhất của một đám cưới, nhưng nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất: sự
thương yêu gắn bó thực lòng).
- Tình huống bất ngờ, tạo ra sự ngạc nhiên đối với tất cả mọi người:
+ Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên: Trước hết là lũ trẻ. "Lũ ranh" ấy bỗng nhiên mất
hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra quan hệ của họ là "chông vợ hài".

11



Còn đám người lớn thì ngớ ra "không tin được dù đó là sự thật". Khi đã rõ, họ tò
mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn: "Giời đất này còn rước cái của nợ đời về".
+ Bà cụ Tứ cũng quá đỗi ngạc nhiên: hoàn toàn không tin nổi - không tin vào
mắt mình (ngỡ mình trông gà hoá cuốc), không tin vào tai mình (quái, sao lại
chào mình bằng "u").
+ Bản thân Tràng vẫn không hết ngạc nhiên vì mình được vợ: chẳng những cứ
đứng "tây ngây" giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ
rồi mà hắn vẫn “ngờ ngợ như không phải thế” .
- Diễn biến tâm trạng và sự thay đổi về tính cách của các nhân vật trước
tình huống:
+ Bà cụ Tứ : tâm trạng phức hợp : vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng
lại tủi vì sự trớ trêu của số phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới
chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai con “liệu
chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ
đáy lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp nghèo không lối
thoát. Trong lời nghẹn nghào tâm sự có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã
không làm được đầy đủ bổn phận của người mẹ đối với con.
+ Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục. Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng trước
cảnh nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng”. Sau đó, Tràng chấp nhận đưa
vợ về ra mắt với tâm trạng lâng lâng hạnh phúc, ngượng ngịu, bối rối. Sau một
ngày có vợ, Tràng cảm thấy vui sướng, hạnh phúc và “nên người”. Tràng nhận
ra được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa
con sau này. Tràng tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.
+Người vợ nhặt: Có sự thay đổi cả về thân phận và tính cách : trước khi làm vợ
Tràng, chị liều lĩnh, chao chát, chỏng lỏn ; khi về làm vợ, chị tỏ ra lễ phép, đảm
dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có hiểu biết về thời sự.
d. Đánh giá khái quát về tình huống truyện qua tác phẩm. Từ đó rút ra ý
nghĩa tư tưởng của tình huống và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
* Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
- Giá trị hiện thực : Thấy được tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói

1945, từ đó lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra
nạn đói khủng khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt
Nam, mà còn hạ thấp giá trị con người.
- Giá trị nhân đạo : Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu
của con người: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát
khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
* Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện mới lạ, độc đáo, hấp dẫn thể hiện qua
kết cấu, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện, cách xây dựng nhân vật...
--> Khẳng định tài năng của Kim Lân qua việc xây dựng tình huống truyện

12


2.3.3.3. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu:
a. Đọc và tóm tắt tác phẩm
b. Xác định tình huống truyện:
Truyện ngắn xoay quanh một tình huống chủ chốt: Trong chuyến đi thực
tế, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào vùng quê miền biển mong chụp được bức
ảnh nghệ thuật về thuyền và biển về làm lịch. Sau mấy buổi sáng phục kích
Phùng đã chộp được một cảnh thật ưng ý. Tưởng đã thành công khi thu vào ống
kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ. Nhưng ngay sau
đó, anh đã phải chứng kiến một cảnh trớ trêu đầy nghịch lí của một gia đình
hàng chài: hình ảnh người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, cam chịu bước ra từ chiếc
thuyền ; cảnh người đàn ông vũ phu đánh vợ một cách vô lí và tàn nhẫn ; cảnh
thằng Phác- con trai lão lao ra đánh trả để bảo vệ mẹ... Những ngày sau, cảnh
bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa
án để giải quyết chuyện gia đình của chị. Câu chuyện của người đàn bà hàng
chài tại tòa án huyện đã làm vỡ ra nhiều điều trong cách nhìn đời, nhìn người, và
quan niệm về nghệ thuật của người nghệ sĩ...

c. Phân tích tình huống truyện:
- Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc
thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Sau
nhiều ngày “phục kích”, Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống
như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích”. Trước cảnh đẹp đó, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “thấy trái tim như
bóp thắt lại”. Bức ảnh đã khiến người nghệ sĩ xúc động, một cảm xúc thẩm mĩ
đang dấy lên trong anh. Nhưng oái oăm thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là
cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất khi đúng lúc đó người nghệ sĩ
phát hiện ra một sự thật về đời sống của một gia đình hàng chài : bước ra từ
thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn dữ dằn;
một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con
thương mẹ, đánh lại cha...Cảnh tượng đó khiến người nghệ sĩ kinh ngạc đến
sững sờ “há hốc mồm ra mà nhìn”, không tin vào những gì đang diễn ra trước
mắt. Anh không thể ngờ đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa lại có cái ác, cái
xấu đang tồn tại...
- Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa án
huyện đã đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Chánh án
Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên chị ly hôn, từ bỏ gã chồng vũ phu.
Nhưng người đàn bà đã từ chối, nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu đó.
Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của người phụ nữ làng chài, nhất là
khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì
con, sống cho con chứ không thể sống vì bản thân. Và trên thuyền cũng có
những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ... Câu chuyện của người đàn bà đã

13


khiến cho chánh án Đẩu, Phùng thay đổi “một cái gì mới vỡ ra” trong đầu vị

Bao Công của cái phố vùng biển.
Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về
nguyên nhân bi kịch và tính cách của các nhân vật:
+ Nhân vật người chồng : Vốn bản chất không phải là kẻ vũ phu, chỉ vì
gánh nặng mưu sinh nghèo khổ “túng quẫn”, “đẻ nhiều con”... đã làm cho người
chồng thay đổi tính cách từ hiền lành sang thô bạo. Người chồng vừa là nạn
nhân của cuộc sống đói nghèo vừa là thủ phạm gây ra nỗi đau cho vợ và con.
+Người vợ : Có cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ ; là một phụ nữ vị tha, bao
dung, giàu tình thương con, biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường bình dị.
Chị không cam chịu vô lí, không hề nông nổi ngờ nghệch mà là người sâu sắc,
thấu hiểu lẽ đời.
+ Nhân vật Đẩu : hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng
là vì những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống.
Anh hiểu rằng, con người và cuộc sống phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng
lý giải và can thiệp như anh tưởng lúc ban đầu.
+ Nghệ sĩ Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa, còn sự
thật cuộc đời lại ở rất gần. Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, toàn bích có
thể che khuất cái bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ,
cơ cực lại có thể chứa đựng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Câu chuyện
của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng
như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu
thêm chính mình.
d. Đánh giá khái quát về tình huống truyện qua tác phẩm. Từ đó rút ra ý
nghĩa tư tưởng của tình huống và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
* Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện:
Tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà
văn về cách để nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc sống; về mối quan hệ
giữa nghệ thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời:
+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lý, nhiều
mâu thuẫn phức tạp. Vì vậy cần nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong từng

hoàn cảnh cụ thể và trong mối quan hệ đa chiều, đa diện. Muốn giúp đỡ con
người không chỉ dựa vào thiện chí hay kiến thức sách vở mà phải thấu hiểu cuộc
sống của họ và có những biện pháp thiết thực.
+ Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc sống. Nghệ thuật chân chính
phải bắt nguồn từ cuộc sống và phải luôn luôn vì cuộc sống
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện thể hiện qua nghệ thuật trần thuật,
ngôn ngữ kể chuyện, cách chọn lọc chi tiết, sự việc; cách xây dựng nhân vật...
--> Khẳng định tài năng của Nguyễn Minh Châu qua việc xây dựng tình huống
truyện độc đáo mang tính khám phá.
14


Trên đây là thực tế ứng dụng khi khai thác truyện ngắn từ phương diện
tình huống truyện. Với hướng tiếp cận này chúng ta có thể hiểu sâu văn bản từ
nhiều góc độ. Khai thác tình huống truyện kết hợp đồng thời với khai thác
truyện ngắn từ kết cấu, ngôn ngữ trần thuật, hình tượng nhân vật... để nắm bắt
trọn vẹn tác phẩm cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong thực nghiệm dạy học hướng
dẫn học sinh lớp 12- THPT tiếp cận truyện ngắn từ góc độ tình huống
truyện
Việc hướng dẫn học sinh thực hiện một số giải pháp về việc tiếp cận
truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện giúp các em cảm thụ tác phẩm một
cách sâu sắc theo đặc trưng thể loại. Từ đó thấy được nét riêng của mỗi tác
phẩm, thấy được tài năng và cá tính sáng tạo của mỗi tác giả.
Có 96,7 % ý kiến của các em cho rằng việc giáo viên đưa ra các giải pháp
hướng dẫn các em cách tiếp cận truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện là cần
thiết. Dưới đây là bảng phân bố phần trăm ý kiến thăm dò học sinh về việc Giáo
viên đưa ra các giải pháp tiếp cận là cần thiết hay không cần thiết:
Ý kiến


%

Cần thiết

96,7

Không cần thiết 3,3
Tổng số

100,0

Như vậy việc hướng dẫn học sinh thực hiện một số giải pháp tiếp cận
truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện là thực sự cần thiết. Từ đó giúp học
sinh khai thác tác phẩm một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
Với ý tưởng như trên, bản thân tôi đã áp dụng thực hiện trong năm học và
thông qua kết quả học tập của học sinh, quan sát thái độ học tập, thăm dò ý kiến
của học sinh đã có kết quả thay đổi rất tích cực. Cụ thể như sau:
Lớp


số

Điểm
10

12 A

42


1- 2,4%

12 C

45

12 E

38

Tổng- % 125

9- Điểm 7- 8

Điểm 5-6

Điểm 3-4 Điểm 1-2

12- 28,6%

26- 61,9%

3- 7,1%

0

2- 4,4%

14- 37,8%


21- 46,7%

5- 11,1%

0

1- 2,6%

10- 26,3%

24- 63,2%

3- 7,9%

0

4- 3,2%

36- 28,8%

71- 60,2%

11- 8,8%

0- 0%

Qua đối chiếu với các số liệu trên đây tôi nhận thấy: so với kết quả đầu
năm học (khi chưa áp dụng giải pháp nêu trên) thì đến cuối năm( sau khi đã áp
dụng giải pháp) chất lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Điều đó có
thể khẳng định việc đưa ra một số giải pháp về cách tiếp cận truyện ngắn từ góc


15


độ tình huống truyện là đã có hiệu quả tích cực. Nó phù hợp với tình hình dạy
học theo phương pháp đổi mới hiện nay.
III. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận.
Từ những kinh nghiệm và thực tiễn đã nêu, chúng tôi nhận thấy:
Việc khai thác và giảng dạy thể loại truyện ngắn từ góc độ tình huống
truyện không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một giải pháp cụ thể hoá vấn
đề để khám phá tư tưởng chủ đề của tác phẩm một cách đúng đắn, hiệu quả cao
theo đúng đặc trưng thể loại.
Mặc dù tình huống truyện là một yếu tố hết sức quan trọng, là hạt nhân
của thể loại truyện ngắn nhưng cũng không phải là yếu tố duy nhất để thể hiện
hết chủ đề, tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Do đó, khi phân tích tình
huống truyện cần có sự kết hợp phân tích nhân vật, giọng điệu, kết cấu, chi
tiết… để có sự đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
Trong quá trình giảng dạy, tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh để có sự
điều chỉnh theo hướng tăng hoặc giảm các thao tác và lượng kiến thức bài học
cho phù hợp, miễn là đạt được các mục tiêu của bài học như đã xác định. Luôn
chú ý, song song với các câu hỏi mang tính chất gợi mở, giáo viên cần khai thác
thế mạnh của công nghệ thông tin (tức là cần sử dụng máy chiếu) trong một số
giai đoạn cần thiết của tiết học; đồng thời để cho bài học thêm sâu sắc và có “độ
lắng”, rất cần những lời bình và lời dẫn dắt hợp lí của giáo viên để giúp các em
xâu chuỗi hệ thống các chi tiết của tình huống tạo cơ sở cho phần rút ra ý nghĩa.
3.2. Kiến nghị
* Với Bộ giáo dục và đào tạo: Nên cân đối và bổ sung thêm thời lượng dạy đọc
hiểu cho một tác phẩm văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn.
* Với Sở Giáo dục và Đào tạo: Cần thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo,

tập huấn để giáo viên có dịp trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đồng thời, với những sáng kiến có tính
thực tiễn cao thì cần phổ biến, nhân rộng trong toàn ngành.
* Đối với giáo viên: Cần thường xuyên tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên
môn nhằm học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, từ đó tìm ra các giải pháp tốt nhất
nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy, trải nghiệm qua thời
gian, và bước đầu đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, với khuôn khổ của

16


bài viết, chắc chắn sáng kiến của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy
rất mong nhận được sự chia sẻ, trao đổi từ đồng nghiệp để góp phần tích cực
vào sự nghiệp đổi mới giáo dục và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 04 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Trương Thị Hồng

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu tập huấn “ Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh”- Bộ GD& ĐT- 2014
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – NXB Giáo dục – năm 2009.
3. Sách giáo viên Ngữ văn 12- NXB Giáo dục – năm 2009.
4. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT, môn Ngữ văn của Bộ giáo
dục- NXB Giáo dục.
5. Từ điển thuật ngữ văn học- Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000
6. Từ điển Tiếng Việt- Hoàng Phê (chủ biên)-Trung tâm từ điển học, 2003
7. Chuyên đề truyện ngắn- Chu Văn Sơn
8. Trang giấy trước đèn- Nguyễn Minh Châu, NXB KHXH, Hà Nội, 1994
9. Truyện ngắn- những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại- Bùi Việt Thắng,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ
ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD& ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trương Thị Hồng
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn- Trường THPT Lê Viết Tạo
Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại

Đọc sáng tạo tác phẩm văn học:
phương pháp và thể nghiệm
Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
nghị luận cho học sinh THPT
Một số giải pháp giúp HS lớp 10THPT nâng cao hiệu quả tiếp cận

các văn bản nghị luận trong CT
SGK Ngữ văn 10(CTC)
Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiêu quả làm văn nghị luận xã hội
cho học sinh lớp 12
Một số giải pháp giúp HS lớp 10THPT nâng cao hiêu quả làm văn
nghị luận về một hiện tượng đời
sống
Một số giải pháp giúp HS lớp 12 THPT nâng cao hiệu quả làm văn
nghị luận so sánh

Sở giáo dục
và đào tạo
Sở giáo dục
và đào tạo
Sở giáo dục
và đào tạo

TT
1
2
3

4
5

6

Kết quả Năm học
đánh giá đánh giá

xếp loại
xếp loại
C
2004- 2005
C

2008-2009

B

2012- 2013

Sở giáo dục
và đào tạo

C

2013- 2014

Sở giáo dục
và đào tạo

C

2015- 2016

Sở giáo dục
và đào tạo

C


2016- 2017



×