Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP GIÚP học SINH lớp 12 THPT NÂNG CAO HIỆU QUẢ làm văn NGHỊ LUẬN SO SÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.71 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT TẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 12 – THPT
NÂNG CAO HIỆU QUẢ LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN SO SÁNH

Người thực hiện: Trương Thị Hồng
Chức vụ : Giáo viên- TTCM
SKKN thuộc lĩnh vực(môn) : Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
Trang

I. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT nâng
cao hiệu quả làm văn nghị luận so sánh”
2.1. Cơ sở lí luận
2. 2. Thực trạng vấn đề
2. 3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT nâng cao hiệu
quả làm văn nghị luận so sánh


2.3.1. Cung cấp hệ thống kiến thức lí thuyết cơ bản về văn
nghị luận so sánh
2.3.2. Nhóm hệ thống tác phẩm có cùng đề tài, cảm hứng
2.3.3. Xây dựng, sưu tầm ngân hàng đề
2.3.4. Tìm hiểu đề và lập dàn ý trước khi viết bài
2.3.5. Hướng dẫn thực hành bằng các dạng đề thường gặp
2.3.6. Thực hành viết đoạn văn, bài văn nghị luận so sánh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong thực nghiệm dạy học
hướng dẫn học sinh lớp 12- THPT làm văn nghị luận so sánh
III.Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1
1
1
1
1
2
2
3
4
4
5
6
6
8
17
17
18

18
18


I.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hội nghị lần thứ 8- Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ngày
04.11.2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 29NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước yêu cầu đó, Bộ giáo dục đã
có những đổi mới tích cực, trong đó yêu cầu về đổi mới kiểm tra đánh giá được
đặc biệt chú trọng. Một trong những biểu hiện của sự đổi mới theo hướng tích
cực trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn những năm gần đây là đề thi được ra
theo hướng đề mở. Trong đó dạng đề nghị luận so sánh đã tạo được nhiều hứng
thú, sáng tạo cho học sinh. Dạng đề này xuất hiện khá nhiều trong các kì thi
chọn học sinh giỏi các cấp, thi Đại học- Cao đẳng trước năm 2014, trong đề
minh họa kì thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn từ năm 2015. Khi mới xuất hiện
đã được báo chí và dư luận đánh giá cao là bởi nó không chỉ đơn thuần yêu cầu
tái hiện lại kiến thức đã học một cách máy móc, mà còn góp phần phát triển tư
duy khái quát, năng lực cảm thụ tốt ở học sinh. Tuy nhiên trong chương trình
Ngữ Văn THPT, dạng bài này chưa được cụ thể hóa thành một bài học riêng,
cũng không có nhiều tài liệu, bài viết liên quan để tham khảo, do đó ảnh hưởng
ít nhiều đến chất lượng giảng dạy của giáo viên bộ môn, cũng như bài học, bài
làm của học sinh.
Trước thực trạng trên, bằng kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy của
bản thân, sau một thời gian nghiên cứu, tìm tòi và thể nghiệm, tôi xin đề xuất:
Một vài giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT nâng cao hiệu quả làm văn nghị
luận so sánh.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài này, bản thân tôi mong muốn đưa ra một số giải pháp

mang tính định hướng về nội dung và phương pháp làm kiểu bài nghị luận so
sánh.Từ đó trao đổi kinh nghiệm giúp giáo viên bộ môn định hướng, tích lũy
thêm kinh nghiệm giảng dạy, ôn tập, luyện thi đại học, thi học sinh giỏi các cấp.
Đồng thời giúp học sinh khối 12 phát triển tư duy, nâng cao năng lực cảm thụ,
năng lực khái quát tổng hợp nhằm vận dụng có hiệu quả trong việc giải quyết
các đề bài nghị luận so sánh thường gặp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về một số giải pháp giúp học sinh lớp 12THPT nâng cao hiệu quả làm văn về kiểu bài nghị luận so sánh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp so sánh, phân loại, phân tích, chứng minh, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
1


II. Nội dung “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT nâng cao hiệu
quả làm văn nghị luận so sánh”
2.1.
Cơ sở lí luận.
Môn Ngữ văn (bao gồm ba phân môn: Đọc văn, Làm văn và Tiếng Việt) là
môn học công cụ, có vị trí quan trọng trong nhà trường, góp phần tạo nên trình
độ văn hóa cơ bản cho học sinh. Trong chương trình Ngữ văn THPT, cùng với
việc rèn kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng thực hành sử dụng Tiếng Việt thì phần Làm
văn cũng rất được coi trọng vì đây là phần thể hiện rõ kĩ năng thực hành, sáng
tạo của học sinh. Làm văn gồm hai dạng: Nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
Để làm tốt hai dạng bài này, học sinh cần được trang bị hệ thống kiến thức
phong phú với những kĩ năng thuần thục. Trong chương trình Ngữ văn 12 học
sinh được học những kiểu bài nghị luận văn học như: Nghị luận về một bài thơ,

đoạn thơ; Nghị luận về một đoạn trích văn xuôi; Nghị luận về một ý kiến bàn về
văn học… tuy nhiên, trong xu thế ra đề những năm gần đây trong các kì thi
tuyển sinh Đại học – Cao đẳng kiểu bài nghị luận so sánh đã thấy xuất hiện rất
nhiều trong các đề thi.
Trong cuộc sống, khi ta tư duy, ta thường dùng rất nhiều thao tác trong đó có
thao tác so sánh, bởi so sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Văn học cũng là
một lĩnh vực của tư duy, của nhận thức, mang tính đặc thù, cho nên việc sử dụng
thao tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết sức tự
nhiên.
Nghị luận so sánh là kiểu bài tổng hợp yêu cầu người viết đối chiếu hai hay
nhiều vấn đề văn học trên cơ sở sự vận hiểu biết tổng hợp và các thao tác lập
luận để nhìn nhận, đánh giá một hiện tượng văn học nào đó. Tuy nhiên, kiểu bài
nghị luận này lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa xuất hiện
trong chương trình sách giáo khoa và thực tế tài liệu tham khảo cũng rất ít. Vì
vậy, từ việc xác lập khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm
bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn đối với
giáo viên cũng như học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng ra đề thi
Trong những năm gần đây, kiểu bài nghị luận so sánh văn học đã xuất hiện
tương đối nhiều trong các kì thi tuyển sinh, trong các kì thi chọn học sinh giỏi
các cấp, trong đề thi minh họa của Bộ giáo dục và đào tạo, thậm chí trong các
nhà trường kiểu bài này cũng được các thầy cô sử dụng cho các bài kiểm tra
định kì. Ví dụ:
- Đề thi Đại học, Cao đẳng của Bộ giáo dục
+ Đề thi tuyển sinh Đại học khối D (câu 3b) năm 2010
Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho
Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm”
mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời Thừa – Nam Cao).
+ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D năm 2012

Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh:
2


Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà
cửa, và vắng người lại qua…
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
- Đề trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12
+Bài: Ôn tập phần văn học lớp 12 học kì I , Sách giáo khoa có đưa ra hệ
thống các vấn đề và câu hỏi ôn tập, trong đó có 3câu hỏi với kiểu bài so sánh
Câu 8: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến”
của Quang Dũng, so sánh với hình tượng người lính trongbài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu
Câu 9: Những khám phá riêng của mỗi nhà thơ về đất nước quê hương qua bài
thơ Đất nước (Nguyễn Đình Thi) và đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt
đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm)
Câu12: So sánh Chữ người tử tù (Ngữ văn11, tập một) với Người lái đò Sông
Đà,nhận xét những điểm thống nhất và khác biệt của phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945)….
2.2.2. Thực trạng dạy và học làm văn kiểu bài nghị luận so sánh trong
các nhà trường THPT hiện nay
*Về phía giáo viên
Trong thực tế giảng dạy hiện nay, giáo viên gặp phải không ít những khó khăn,
thử thách:
- Trong phân phối chương trình, kiểu bài nghị luận so sánh văn học không hề
được đưa vào nên chưa bao giờ nó được xuất hiện trong tiết Làm văn như một

bài học độc lập tương đương như những dạng bài khác hoặc được giới thiệu qua
các tài liệu tự chọn của Bộ Giáo dục.
- Do phân phối chương trình và thời gian trên lớp hạn chế, nên hầu hết giáo
viên chỉ chú ý đi sâu, đào kĩ vào các vấn đề trung tâm của tác phẩm, không có
điều kiện so sánh, đối chiếu với tác phẩm khác, nếu có cũng chỉ mang tính chất
liên hệ, mở rộng chứ không có thời gian để đối chiếu ở từng phương diện cụ thể.
- Tư liệu dạy học về kiểu bài này còn hạn chế.
- Thói quen ngại đầu tư, không chịu đổi mới của một bộ phận giáo viên.
*Về phía học sinh
- Phần lớn học sinh tỏ ra lúng túng, ngại làm đề nghị luận so sánh do chưa có kĩ
năng đối sánh văn bản. Vì thế học sinh chỉ biết đơn thuần cảm thụ lần lượt hai
đối tượng chứ không biết chỉ ra điểm giống và khác nhau, đặc biệt rất hiếm
trường hợp học sinh biết lí giải nguyên nhân giống nhau và khác nhau.
- Do tâm lí thi khối C được ít trường tuyển sinh, ra trường khó xin việc làm, nên
học sinh chưa quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến bộ môn.
- Tư tưởng ngại học, ngại tư duy, ngại tìm hiểu và thu thập kiến thức. Khi kiểm
tra học sinh làm mang tính chiếu lệ, hình thức. Vì thế kết quả bài làm của học
3


sinh thường không cao. Với kiểu bài so sánh thì lại càng khó khăn, khi vấp phải
phần lớn các em thường “ bó tay”.
Đầu năm học, tôi tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng làm văn kiểu bài
so sánh văn học ở các lớp trực tiếp giảng dạy, kết quả thu được không khả quan,
phần lớn các em phân tích rời rạc, chưa biết nhìn nhận vấn đề trong thế đối sánh.
Kết quả cụ thể như sau:
Lớp
12C
12D
12E

Tổng %

Sĩ số
42
45
38
125

Điểm 9-10
0
0
0
0

Điểm 7- 8
5- 11,9%
6- 13,3%
3- 7,8%
14- 12,2%

Điểm 5-6
15- 35,7%
17- 37,7%
11- 28,9%
43-34,4%

Điểm 3-4
22-53,4%
20-45,6%
22-39%

64-50,2%

Điểm 1-2
0
2- 4,4%
2- 5,3%
4-3,2%

Xuất phát từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên đây, bằng kinh nghiệm
của bản thân qua những năm dạy đội tuyển học sinh giỏi, dạy ôn thi Tốt nghiệp
cũng như thi Đại học kết hợp với sự trao đổi, tham khảo ý kiến của các đồng
nghiệp, tôi mạnh dạn áp dụng ý tưởng của mình, đưa ra một số giải pháp nhằm
giúp học sinh nâng cao hiệu quả làm văn đối với kiểu bài nghị luận so sánh.
2.3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12- THPT nâng cao hiệu quả làm
văn nghị luận so sánh
2.3.1. Cung cấp hệ thống kiến thức lí thuyết cơ bản về văn nghị luận so sánh
* Khái niệm:
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên
thì “so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác
nhau hoặc sự hơn kém”.
Theo Từ điển Tu từ – phong cách học – thi pháp học của tác giả Nguyễn
Thái Hoà (NXB Giáo dục) thì “so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem
sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương
đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức
của người đọc, người nghe”.
Như vậy, so sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên
cạnh một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một
cách toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế, so sánh trở thành
một thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức, đánh giá
của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.

Với phân môn làm văn trong nhà trường phổ thông, khái niệm so sánh văn
học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ nhất, so sánh văn học
là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu thơ, câu văn”.Thứ hai, nó được
xem như một thao tác lập luận bên cạnh các thao tác lập luận như phân tích, bác
bỏ, bình luận.. đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11. Thứ ba, nó được
xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận”, tức
là như một dạng bài nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị luận về một bài thơ,

4


đoạn thơ; nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; nghị luận về một ý
kiến bàn về văn học… ở sách giáo khoa Ngữ văn 12.
* Các dạng bài nghị luận so sánh thường gặp:

So sánh các tác phẩm

So sánh các đoạn tác phẩm (hai đoạn thơ hoặc đoạn văn xuôi)

So sánh các nhân vật văn học.

So sánh các tình huống truyện.

So sánh các chi tiết nghệ thuật.

So sánh nghệ thuật trần thuật,..
Như trên có thể thấy đối tượng so sánh khá đa dạng: trong cùng một văn bản
hay nhiều văn bản của một tác giả, hoặc nhiều tác giả, trên nhiều bình diện như
nhân vật, cảm hứng, đề tài, tình huống, phong cách... Mục đích cuối cùng của
kiểu bài nghị luận so sánh là yêu cầu học sinh chỉ ra được điểm giống và khác

nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những
điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng
tác phẩm; sự đa dạng trong phong cách tác giả. Đồng thời kiểu bài này còn góp
phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau giữa các
hiện tượng văn học.
* Những yêu cầu cơ bản khi so sánh:
– So sánh phải dựa trên cùng một tiêu chí, cùng một bình diện
– So sánh trên nhiều cấp độ: nhỏ nhất là giữa các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh; lớn
hơn là các nhân vật, sự kiện, tác phẩm, tác giả và phong cách…
– So sánh thường đi đôi với phân tích, tổng hợp, khái quát thì so sánh đó mới trở
nên sâu sắc, giàu sức thuyết phục.
2.3.2. Nhóm hệ thống các tác phẩm có cùng chung đề tài, cảm hứng.
GV có thể hướng dẫn HS tập hợp các tác phẩm đã học thành những nhóm
có cùng chung đề tài, cảm hứng:
+ Quê hương - đất nước
+ Khuynh hướng sử thi- cảm hứng lãng mạn
+ Chủ nghĩa nhân đạo- số phận con người
+ Tình yêu đôi lứa
+ Hình tượng người lính
+ Hình tượng người phụ nữ
Có thể nhóm một số tác phẩm theo các chủ đề sau:
+ Cảm hứng về nhân dân, đất nước: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên);
Đất nước (Nguyễn Đình Thi); Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm); Việt Bắc
(Tố Hữu)
+ Cảm hứng nhân đạo- số phận con người: Hai đứa trẻ (Thạch Lam);
Chí Phèo (Nam Cao); Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài); Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: Tây tiến (Quang Dũng);
Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành); Những đứa con trong gia đình
(Nguyễn Thi)
5



+ Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài); Vợ nhặt
(Kim Lân); Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu); Một người Hà
Nội( Nguyễn Khải)….vv…
2.3.3. Xây dựng, sưu tầm ngân hàng đề
* Sau khi nhóm các tác phẩm theo chủ đề, cảm hứng, GV nên yêu cầu học sinh
tự xây dựng các đề văn cảm thụ trong thế đối sánh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thiết lập các đề theo dạng: cùng viết về
….nhưng mỗi tác phẩm, tác giả….lại có những cách khám phá, thể hiện mới mẻ
đặc sắc…chứ không đơn thuần… nêu cảm nhận của anh/chị về 2 nhân vật, 2
đoạn văn, đoạn thơ, 2 chi tiết….
- Khi xây dựng đề GV cần lưu ý học sinh trong việc đặt đối tượng để so sánhcần xác định được điểm chung, tiêu chí và mục đích của sự đối sánh trước khi ra
đề, tránh sự khập khiễng, gượng ép khi đặt các đối tượng cảm thụ quá khác xa
nhau trong một đề văn.
* Ngoài ra GV có thể cùng học sinh sưu tầm một số đề theo hướng so sánh, giúp
các em tiếp cận, tìm hiểu đề, xây dựng đáp án, viết bài.
2.3.4. Tìm hiểu đề và lập dàn ý trước khi viết bài
2.3.4.1. Tìm hiểu đề
Tìm hiểu đề là một trong những khâu đầu tiên, quan trọng quyết định chất
lượng bài văn. Để là tốt khâu này, giáo viên cần trang bị cho học sinh những kĩ
năng cụ thể như:
* Nhận diện, phân biệt đề
*Xác định yêu cầu của đề:
- Trước một đề văn bao giờ giáo viên cũng hướng dẫn học sinh tìm hiểu các yêu
cầu đặt ra trong đề bài, giải quyết các câu hỏi:
+ Vấn đề cần nghị luận là gì?
+ Cần vận dụng những thao tác lập luận nào?
+ Phạm vi dẫn chứng
- Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những ý trên thì có lẽ chưa đủ với

cách tìm hiểu đề của dạng đề so sánh này. Bởi thực tế cho thấy nhiều em học
sinh chỉ cần đọc qua đề, xác định đó đúng là dạng đề so sánh văn học là bắt tay
vào viết. Thực ra thì hoàn toàn không phải là thế. Mỗi đề văn, nhất là đề văn
hay, người ra đề ngoài những yêu cầu bình thường còn lồng trong đó những yêu
cầu sâu xa mà học sinh chịu khó tìm hiểu, suy nghĩ mới có thể đáp ứng được. Vì
vậy, ở bước tìm hiểu để, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài, gạch chân
những từ ngữ then chốt để xác định đề cho đúng, nghĩa là tìm cho đúng trọng
tâm yêu cầu đề. Nếu học sinh xác định không đúng trọng tâm yêu cầu đề thi bài
viết sẽ lạc hướng và ngược lại nếu xác định đúng thì bài viết sẽ bám sát yêu cầu
của đề đề và sẽ đạt kết quả cao hơn.
- Thông thường, có hai dạng đề
+ Dạng đề có định hướng : Luận điểm đã cho sẵn trong đề bài

6


Ví dụ : Phân tích số phận khổ đau và phẩm chất tốt đẹp của người lao động
miền núi qua hai nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” của
nhà văn Tô Hoài?
+ Dạng đề không có định hướng: Luận điểm không có trong đề mà mà học sinh
phải tự tìm.
Ví dụ : Hình tượng đất nước trong tác phẩm “Đất Nước” (Nguyễn Khoa Điềm)
và “ Đất Nước”(Nguyễn Đình Thi).
*Xác định thao tác nghị luận cơ bản:
- Một bài văn có thể phối hợp rất nhiều thao tác nghị luận, song cần xác định
đâu là thao tác chính, đâu là thao tác bổ trợ. Kiểu bài cảm thụ trong thế đối
sánh thì thao tác cơ bản là cảm thụ (phân tích) và đối sánh (so sánh). Có nhiều
học sinh chỉ nặng về đối sánh mà quên mất cảm thụ, có học sinh thì ngược lại.
Xác định được thao tác chính học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận
điểm hợp lí và khoa học cho bài viết.

2.3.4.2. Thực hành tìm ý và lập dàn ý.
Thực hành tìm ý và lập dàn ý sẽ định hướng cho nội dung bài viết một cách
đầy đủ, logic, khoa học, giúp người viết làm chủ nội dung và thời gian.
Đối với mỗi dạng, mỗi đề bài có một cách tiến hành tìm ý và lập dàn ý khác
nhau. Tùy thuộc vào mỗi dạng đề để xây dựng dàn ý khái quát cho phù hợp.
Tuy nhiên khi xây dựng dàn ý cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất
định. Bố cục của một bài làm văn nghị luận so sánh bao giờ cũng phải đảm bảo
cấu trúc ba phần như một bài văn nghị luận thông thường, song chức năng cụ thể
của từng phần có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận thông thường.
Vì vậy trong quá trình thực hành cần hướng dẫn học sinh cách triển khai các
phần trong bài như sau:
* Cách viết phần mở bài
- Đây là phần tuy điểm số không cao nhưng lại có vai trò quan trọng trong bài
làm văn nghị luận. Thông thường, học sinh hay lúng túng , mất nhiều thời gian
cho phần mở bài, học sinh càng lúng túng hơn đối với mở bài ở dạng đề nghị
luận so sánh, vì liên quan tới hai đối tượng so sánh. Qua thực tế chấm bài, nhiều
học sinh mở bài chưa đạt. Các em thường mắc phải lỗi giới thiệu lần lượt hai
tác giả, hai tác phẩm , hai nhân vật, hoặc hai đoạn thơ, hai chi tiết… một cách
rời rạc khiến người chấm có cảm giác như có hai mở bài. Vì vậy khi dạy dạng đề
này, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách làm như sau:
+ Dẫn dắt vấn đề từ những điểm chung có liên quan đến hai đối tượng so sánh
(thời đại, đề tài, các nhận định liên quan...).
+ Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
- Yêu cầu đối với phần mở bài : Ngắn gọn, đầy đủ (nêu được vấn đề cần nghị
luận), hấp dẫn, tự nhiên, gây được sự chú ý của người đọc.
*Cách viết phần thân bài
Đây là phần quan trọng nhất trong một bài văn nghị luận vì nó chiếm số
lượng điểm nhiều nhất của toàn bài. Chính vì vậy mà phần này giáo viên không
7



chỉ cung cấp kiến thức lí luận, kiến thức về tác giả, kiến thức sâu, rộng về tác
phẩm mà phải hướng dẫn cho các em các kĩ năng viết bài: lập dàn ý, cách bám
sát yêu cầu của đề cũng như là cách hành văn.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát phần thân bài theo hai
cách cơ bản: nối tiếp và song song. Cụ thể:
Cách 1 – Cách nối tiếp:
+ Lần lượt phân tích, cảm thụ từng đối tượng (bước này vận dụng kết hợp nhiều
thao tác lập nhưng chủ yếu là thap tác lập luận phân tích).
+ So sánh những nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình
diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao
tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập lụân so
sánh).
+ Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: thời
đại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kỳ văn học…(bước này vận
dụng nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
-Lưu ý: Cách này dễ làm nhưng khó hay, dài, nhiều khi trùng lặp ý và sắc
thái so sánh dễ bị chìm. Sự liên kết giữa các đối tượng cảm thụ thường rất lỏng
lẻo, rời rạc, làm mất đi tính chỉnh thể của bài viết. Do yêu cầu mang tính phổ
thông nên đáp án thi đại học thường trình bày theo cách này.
Cách 2 – Cách song song:
+ Song hành đối sánh nét tương đồng và nét khác biệt giữa hai hay nhiều đối
tượng theo từng tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung, nghệ thuật. Ở mỗi tiêu
chí tiến hành phân tích ở cả hai tác phẩm để có thể thấy được điểm giống, điểm
khác.
+ Lí giải nguyên nhân vì sao có điểm giống, điểm khác này( nguyên nhân chủ
yếu: thời đại, bản thân, phong cách tác giả, quan điểm thẩm mĩ…).
- Lưu ý: Cách này hay nhưng khó, nó khắc phục được tất cả các nhược
điểm của cách thứ nhất. Với học sinh giỏi nên chọn cách trình bày này. Ngược
lại, nếu học sinh không có tư duy chặt chẽ logic để tách vấn đề, không có sự tinh

tế trong việc lựa chọn các yếu tố để cảm nhận, lời bình không biết nhấn, biết
lướt thì bài viết hoặc sẽ rối hoặc thiên về liệt kê so sánh đối chiếu khô cứng.
* Cách viết phần kết bài
- Kết bài là bước cuối cùng để hoàn thành bài viết. Tuy nhiên, phần này học
sinh thường xem nhẹ. Vì thế giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh cách kết bài,
nhất là cách kết bài của dạng đề so sánh vốn mang tính đặc thù riêng.
- Yêu cầu của kết bài: Một kết bài hay không chỉ ngắn gọn, khép lại những vấn
đề đã bàn luận ở trên mà học sinh có thể kết bài mở, kết bài phát triển, kết bài
theo hướng nâng cao, mở rộng để gợi ra nhiều suy nghĩ liên tưởng mới nơi
người đọc. Đối với dạng đề so sánh, ở phần kết bài học sinh phải khái quát
những nét giống nhau và khác nhau tiêu biêu, từ đó có thể nêu cảm nghĩ của bản
thân.
2.3.5. Hướng dẫn học sinh thực hành một số dạng đề thường gặp
8


Trên đây là dàn ý khái quát chung cho kiểu bài nghị luận so sánh. Tuy nhiên,
đây là kiểu bài có yêu cầu khá đa dạng và phức tạp, vì vậy khó có thể tìm ra
một dàn bài khái quát thỏa mãn cho tất cả các dạng đề bài. Với mỗi dạng bài so
sánh lại có những dàn ý riêng, cụ thể phù hợp. Bằng sự trải nghiệm của bản thân
và dựa vào việc tổng kết các đề thi của những năm gần đây, tôi đã thống kê và
khái quát lại thành những dạng đề so sánh văn học cơ bản và đưa ra một vài ví
dụ mang tính chất minh họa, giúp học sinh dễ dàng hơn khi làm bài. Sau đây là
một số dạng đề và cách làm mà tôi đã hướng dẫn học sinh.
2.3.5.1. Dạng đề so sánh các nhân vật trong tác phẩm văn học
Dạng đề này có thể đề bài yêu cầu so sánh hai hay nhiều nhân vật trong
cùng một tác phẩm, cũng có thể so sánh hai hay nhiều nhân vật trong nhiều tác
phẩm. Mục đích của dạng đề này là học sinh chỉ ra được điểm giống và khác
nhau giữa các nhân vật được so sánh, từ đó thấy được vẻ đẹp riêng của từng
nhân vật; sự đa dạng muôn vẻ của phong cách nhà văn trong nghệ thuật xây

dựng nhân vật. Đây là dạng đề khá phổ biến, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh làm dạng bài này theo hai cách: nối tiếp hoặc song song.
* Cách 1(theo kiểu nối tiếp): Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp
cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào tạo định hướng trong
đáp án đề thi Đại học - Cao đẳng những năm trước 2014 và kì thi THPTQG năm
2015. Bước một lần lượt phân tích từng nhân vật, sau đó so sánh tìm ra điểm
giống và khác nhau giữa các nhân vật; lí giải nguyên nhân có sự tương đồng và
khác biệt đó . Cách này học sinh dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết.
Bài viết rõ ràng, không rối kiến thức nhưng cũng có cái khó là đến phần nhận
xét điểm giống và khác nhau học sinh không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến
thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện.
Đề minh họa: Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật
người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc
thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận
Thân bài:
- Giới thiệu hai tác giả, hai tác phẩm:
- Giải thích khái niệm: “Vẻ đẹp khuất lấp”
- Làm rõ hai đối tượng.
+ Nhân vật người vợ nhặt.
+ Nhân vật người đàn bà hàng chài.
-So sánh điểm tương đồng và khác biệt của hai nhân vật
+ Điểm tương đồng : Cả hai nhân vật đều là những con người bé nhỏ, nạn nhân
của hoàn cảnh, những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực, lam
lũ làm khuất lấp.
+ Điểm khác biệt: Vẻ đẹp của người Vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của
một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hài hước trong nạn đói thê
thảm năm 1945. Vẻ đẹp khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất
9



của một người mẹ nặng gánh mưu sinh hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính
trong thực trạng bạo lực gia đình.
- Lí giải sự giống nhau và khác nhau:
+ Lí giải điểm giống: Vì hai nhà văn đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, quan
tâm sâu sắc đến số phận những con người nhỏ bé.
+ Lí giải điểm khác :
Kết bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu : Hai nhân vật
tuy có hoàn cảnh số phận khác nhau nhưng đều mang vẻ đẹp của những người
lao động mà trên hết là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân
Cách 2( theo kiểu song song) : Nghĩa là tìm ra các luận điểm giống và khác
nhau rồi lần lượt phân tích từng luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn
chứng từ hai nhân vật để minh họa. Cách này hay nhưng khó, phù hợp với đối
tượng học sinh khá, giỏi, nó đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lôgic, sự tinh
nhạy trong phát hiện vấn đề và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của
cả hai văn bản để chứng minh. Với cách viết này học sinh không phân tích, cảm
nhận từng nhân vật mà so sánh song song các nhân vật trên các bình diện: Hoàn
cảnh, số phận, phẩm chất, tính cách, nghệ thuật xây dựng nhân vật… Sau đó
khái quát, lí giải nguyên nhân giống và khác nhau của đối tượng so sánh.
Đề minh họa: Cảm nhận của em về hai nhân vật Mị và A Phủ (“Vợ chồng A
Phủ”- Tô Hoài)
Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu vấn đề cần nghị luận
Thân bài:
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm; giới thiệu hai nhân vật Mị và A Phủ .
- Nét tương đồng
+ Tương đồng về số phận : Khổ đau, bất hạnh, vẻ đẹp trong đời sống tâm
hồn của Mị, A Phủ
- Khác biệt

+ Mị : vẻ nữ tính, sống chủ yếu bằng nội tâm (Nhẫn nhục, cam chịu ; Giàu tình
thương, đức hi sinh)
+ A Phủ : vẻ nam tính( Ngoại hình, tính cách)
- Lí giải nguyên nhân
+ Tương đồng( cùng giai cấp, cùng hoàn cảnh, điều kiện sống)
à Từ đồng cảnh đến đồng cảm và đồng tình, giúp đỡ và giải thoát cho nhau.
+Khác biệt( giới tính, yêu cầu sáng tạo của VHNT, cá tính sáng tạo của
nhà văn).
à Nhà văn xây dựng nên những nhân vật có những nét riêng trong một tác
phẩm, không trộn lẫn.
Kết bài
- Sự tương đồng và khác biệt giữa hai nhân vật.

10


- Góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của thế giới hình ảnh nhân vật trong
VHVN. Cho thấy tài năng của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng
như tấm lòng của ông đối với số phận con người.
2.3.5.2. Dạng đề so sánh các chi tiết nghệ thuật.
Mục đích của dạng đề này là giúp học sinh thấy được những điểm giống và
khác nhau của hai chi tiết về nội dung và nghệ thuật. Các chi tiết nghệ thuật có
thể trong một tác phẩm cũng có thể ở hai tác phẩm. Với dạng đề này, giáo viên
hướng dẫn học sinh lập dàn bài như sau.
Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu và trích dẫn chi tiết.
Thân bài
- Khái quát về tác giả, tác phẩm, chi tiết
- Làm rõ chi tiết thứ nhất về hai đặc điểm nội dung và nghệ thuật.
+ Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết

+ Nêu chi tiết
+ Ý nghĩa của chi tiết
+ Giá trị nghệ thuật của chi tiết
- Làm rõ chi tiết thứ hai về hai đặc điểm nội dung và nghệ thuật.
+ Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết
+ Nêu chi tiết
+ Ý nghĩa của chi tiết
+ Giá trị nghệ thuật của chi tiết
- So sánh điểm tương đồng và khác biệt của hai chi tiết
- Lí giải tại sao có sự tương đồng và khác biệt.
Kết bài
- Đánh giá về giá trị của chi tiết.
- Có thể nêu cảm nghĩ của bản thân.
Đề minh họa: Cảm nhận của anh (chị) về chi tiết “Tiếng chim hót ngoài kia
vui vẻ quá!” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí
Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha
bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ
- Tô Hoài, Ngữ văn 12).
a. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu hai chi tiết
b. Thân bài
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và các đối tượng so sánh
* Làm rõ chi tiết “ Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” về hai đặc điểm nội
dung và nghệ thuật
- Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết :
- Ý nghĩa của chi tiết:
+ Đó là âm thanh quen thuộc ấy chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc sống
+ Giúp Chí nhìn lại cuộc đời mình, nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng
của mình.
11



- Giá trị nghệ thuật của chi tiết:
+ Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện,
khắc họa sâu sắc tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Qua chi tiết này, Nam cao khẳng định: Chất người không bao giờ mất
đi ngay cả khi họ bị xã hội thối nát, tàn bạo cướp mất đi cả nhân hình lẫn nhân
tính.
* Làm rõ chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi ” về hai đặc điểm
nội dung và nghệ thuật :
- Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết :
- Ý nghĩa của chi tiết :
+ Âm thanh của tiếng sáo là âm thanh đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, là tiếng
gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân- một nét sinh hoạt giàu tính nhân văn
của người Mèo.
+ Âm thanh ấy đã giúp cho cô Mị bắt đầu mở lời cho dù đó là một lời nhẩm
thầm.
+ Âm thanh ấy làm Mị nhớ về quá khứ tươi đẹp, nhận thức được hiện tại, thấm
thía thân phận và dẫn đến hành động sắp sửa váy áo hoa để chuẩn bị đi chơi,
…).
=> Âm thanh tiếng sáo đã đánh thức lòng ham sống, sức sống tiềm tàng trong
Mị.
- Giá trị nghệ thuật của chi tiết :
+Là một trong những chi tiết góp phần làm thay đổi trạng thái tâm lý của nhân
vật.
+ Là chi tiết góp phần khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong tâm hồn
Mị, góp phần bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
* So sánh hai chi tiết
- Sự tương đồng
+ Đó là những âm thanh hết sức kì lạ, nó len lỏi vào tận sâu tâm hồn vốn tưởng

như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và khát khao sống
mãnh liệt.
+ Đây cũng là những chi tiết góp phần tô đậm giá trị nhân đạo cho hai tác phẩm
+ Là những chi tiết cho thấy sự tài năng của hai nhà văn.
- Sự khác biệt
+ Tiếng chim hót trong truyện ngắn "Chí Phèo" là âm thanh quen thuộc. Âm
thanh ấy thổi bùng khát khao được sống , được làm người lương thiện của một
con người bị tước mất quyền làm người.
+ Tiếng sáo trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là âm thanh quen thuộc. Đây
là tác nhân quan trọng dẫn tới sự hồi sinh trong tâm hồn và hành động của Mị.
Tiếng sáo làm cho sức sống tiềm tàng trong Mi trỗi dậy một cách mãnh liệt.
* Lý giải sự giống và khác nhau
- Lí giải tại sao giống:
+ Vì hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa của
văn học Việt Nam.
12


+ Vì cả hai nhà văn đều là những bậc thầy trong nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân
vật
- Lí giải tại sao khác :
+ Do sự khác biệt về bối cảnh mà chi tiết tồn tại.
+ Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật không cho phép sự rập khuôn.
+ Do sự khác biệt về phong cách của hai nhà văn.
c. Kết bài
- Đánh giá về giá trị của chi tiết: Những âm thanh có giá trị thức tỉnh.
- Có thể nêu cảm nghĩ của bản thân .
2.3.5.3. Dạng đề so sánh phong cách sáng tác của một tác giả ở hai giai đoạn
khác nhau.
Đây là dạng đề yêu cầu so sánh phong cách sáng tác của một tác giả ở hai

giai đoạn khác nhau. Mục đích là giúp học sinh nhận rõ được sự thống nhất và
thay đổi về phong cách nghệ thuật của một tác giả trong quá trình sáng tác. Với
dạng đề này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết như sau:
Mở bài
Dẫn dắt giới thiệu vài nét về tác giả, đặc biệt nhấn mạnh vị trí của tác giả
trong nền văn học nước nhà.
Thân bài
- Nêu khái niệm phong cách
- Chỉ ra sự thống nhất trong phong cách của nhà văn trong cả quá trình sáng
tác.
- Chỉ ra sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật ở giai đoạn sáng tác sau
đó.
- Lí giải nguyên nhân cụ thể của sự chuyển biến đó.
Kết bài
- Đánh giá sự đóng góp của tác giả cho nền văn học.
- Nêu cảm nghĩ của bản thân
(Lưu ý học sinh trong chương trình Ngữ văn THPT có ba tác gia: Tố Hữu, Hồ
Chí Minh, Nguyễn Tuân là có thể so sánh ở dạng bài này).
Đề minh họa: Qua hai tác phẩm Chữ người tử tù (Ngữ văn11, tập một) và
Người lái đò Sông Đà (Ngữ văn12, tập một) Anh/chị hãy chỉ những điểm thống
nhất và khác biệt của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945
Mở bài
Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân trong đời sống văn học nước nhà.
Thân bài
* Nêu khái niệm phong cách nghệ thuật
* Chỉ ra sự thống nhất trong phong cách của nhà văn trong cả quá trình sáng tác:
Dù sáng tác trước hay sau Cách mạng tháng tám thì cái tôi tài hoa và uyên bác
luôn bộc lộ đậm đặc trên từng trang viết của Nguyễn Tuân
- Tài hoa:

+ Sử dụng ngôn ngữ, sáng tạo hình ảnh và câu văn
13


+ Miêu tả sự vật, hiện tượng nghiêng về góc độ văn hóa thẩm mỹ
+ Tiếp cận con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ.
-Uyên bác:
Do đọc nhiều, biết nhiều đặc biệt có vốn quan sát trực tiếp rất mực giàu có
nên khi miêu tả các sự vật, hiện tượng ông đã vận dụng tri thức của các
ngành nghề khác nhau.
*Những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
- Quan niệm về cái đẹp
+Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân tìm đến những cái đẹp
của một thời vang bóng.
+Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhà văn đi tìm cái đẹp trong cuộc sống
chiến đấu lao động của nhân dân, ông mải mê đi tìm kiếm chất tài hoa, nghệ sĩ ở
những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi..
-Thể loại truyện ngắn, có yếu tố của tùy bút (cảm xúc của cái tôi qua thái độ,
tình cảm của nhà văn). Có sự dung hòa giữa lãng mạn và hiện thực.
+ Phương pháp sáng tác: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sáng tác theo
khuynh hướng lãng mạn. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông sáng tác theo
khuynh hướng hiện thực .
+ Thể loại: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chủ yếu viết truyện ngắn. Sau
cách mạng , sáng tác thể loại tùy bút có đan xen với bút kí, có yếu tố truyện
ngắn (Xây dựng nhân vật, cốt truyện, tình tiết…)
* Lí giải nguyên nhân của sự chuyển biến
+ Hoàn cảnh sống : Trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng đã có sự
thay đổi.
+ Tư tưởng : " tìm cái đẹp" (Nguyễn Đăng Mạnh) nên sau cách mạng tháng
Tám 1945, Nguyễn Tuân đã hòa nhập nhanh chóng với cuộc kháng chiến, tìm

cái đẹp trong đời sống chiến đấu và lao động sản xuất…
+ Đặc trưng thi pháp :Văn học sau 1945 thiên về khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn, ông đã tìm đến với thể loại tùy bút để thỏa mãn với năng lực
sáng tạo nghệ thuật của mình.
Kết bài
- Khẳng định sự đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân cho nền văn học.
- Nêu ấn tượng của bản thân về tác giả Nguyễn Tuân.
2.3.5.4. Dạng đề so sánh hai đoạn thơ, hai đoạn văn xuôi
Mục đích của dạng đề này là giúp học sinh nhận ra điểm giống nhau và
khác nhau của hai đoạn thơ, hoặc hai đoạn văn xuôi về các bình diện chủ đề, nội
dung hình thức nghệ thuật… Đây là dạng đề thường được sử dụng ở các kỳ thi
tuyển sinh Đại học – Cao đẳng những năm gần đây. Cũng như dàn ý so sánh
khái quát đã nêu ở phần trên có hai cách làm dạng bài này: theo kiểu nối tiếp
hoặc song song.
• Đề minh họa (Kì thi THPT quốc gia 2015)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp riêng của hai đoạn thơ sau:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
14


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
( Tây Tiến- Quang Dũng, Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam )
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
(Việt Bắc- Tố Hữu, Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam
Dàn ý:

Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận
Thân bài
1. Giới thiệu hai tác giả, hai tác phẩm, hai đoạn thơ.
2. Cảm nhận vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ.
2.1. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến
2.2. Đoạn thơ trong bài Việt Bắc
3. So sánh : Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai đoạn thơ để thấy được
vẻ đẹp riêng của mỗi đoạn:
- Sự tương đồng: Hai đoạn thơ tiêu biểu cho thơ ca thời kì kháng chiến chống
Pháp, thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, Tây Bắc và tình cảm
gắn bó của tác giả đối với con người và miền đất xa xôi của Tổ quốc.
- Sự khác biệt:
+ Thiên nhiên miền Tây trong thơ Quang Dũng hoang vu nhưng đậm màu sắc
lãng mạn, hư ảo; con người miền Tây hiện lên trong vẻ đẹp khỏe khoắn mà
duyên dáng; thể thơ thất ngôn mang âm hưởng vừa cổ điển vừa hiện đại.
+Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu gần gũi, quen thuộc mà trữ tình; con
người Việt Bắc hiện lên trong tình nghĩa cách mạng thủy chung; thể thơ lục bát
mang âm hưởng ca dao dân ca.
4. Lý giải sự giống nhau và khác biệt
- Lí giải tại sao giống:
Vì hai đoạn thơ được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp, hai tác giả
đều là những con người có tình cảm gắn bó với mảnh đất và con người ở miền
đất xa xôi của Tổ quốc.
- Lí giải tại sao khác :
Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật nói chung. Do hoàn cảnh sáng tác
cá tính sáng tạo của mỗi tác giả nói riêng từ đó đem đến cho mỗi tác phẩm
những nét riêng, độc đáo.
Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu

- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân
2.3.5.5. Dạng đề so sánh hai tác phẩm của hai tác giả hoặc của cùng một tác
giả cùng thể loại hoặc khác thể loại
15


Mục đích của dạng bài này là để tìm ra những nét tương đồng và độc đáo
của hai tác phẩm của hai tác giả, hoặc cùng một tác giả trên cùng một thể loại
hoặc khác thể loại. Ở dạng đề này, đề bài thường có định hướng
Ví dụ : Đề 1: Chủ nghĩa nhân đạo qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ.
Đề 2: Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn qua Rừng xà nu và
Những đứa con trong gia đình.
Đề 3: Chủ nghĩa anh hùng Cách mạng qua Rừng xà nu và Những đứa
con trong gia đình.
Dàn bài:
Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận
Thân bài
- Giới thiệu vài nét về hai tác giả, hai tác phẩm
- Khái quát điểm chung của hai tác phẩm
- Làm rõ những điểm chung của hai tác phẩm trên các bình diện (sử dụng kết hợp nhiều
thao tác lập luận nhưng chủ yếu là phân tích, chứng minh)
- Làm rõ những điểm khác biệt của hai tác phẩm trên các bình diện- lấy dẫn
chứng ở hai tác phẩm
- Lí giải nguyên nhân dẫn đến điểm giống và khác
Kết bài
- Khái quát những nét giống và khác tiêu biểu
- Nêu những cảm nghĩ của bản thân
Đề minh họa: Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc qua Tây Tiến và
Người lái đò sông Đà

Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
Thân bài
* Giới thiệu vài nét khái quát về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến;
nhà văn Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.
* Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc trong hai tác phẩm
- Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
+Nét chung: Hùng vĩ, dữ dội( lấy dẫn chứng ở hai tác phẩm) và thơ
mộng, trữ tình( Lấy dẫn chứng ở hai tác phẩm)
+Nét riêng
• Trong bài thơ Tây Tiến
• Trong Người lái đò sông Đà
-Vẻ đẹp của con người Tây Bắc
+ Nét chung: Duyên dáng, trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
+ Nét riêng:
• Trong Tây Tiến
• Trong Người lái đò sông Đà
* Lí giải nguyên nhân giống và khác
16


- Thiên nhiên và con người Tây Bắc trong hai tác phẩm có những nét giống
nhau vì:
- Hai tác phẩm đều viết về đề tài Tây Bắc, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người
+ Hai tác giả đều là những con người gắn bó sâu nặng, nghĩa tình với mảnh
đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc.
-Thiên nhiên và con người Tây Bắc có những nét khác nhau vì:
+ Do khác nhau về đặc trưng thể loại
+ Do khác nhau về hoàn cảnh sáng tác

+ Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật nói chung, do cá tính sáng tạo
của mỗi nhà văn nói riêng, tuy cùng phản ánh một đối tượng nhưng mỗi người
nghệ sĩ lại quan sát ở một góc độ khác nhau, có cách khám phá và cách thể
hiện riêng…
Kết bài
- Đánh giá lại vấn đề
- Nêu cảm nhận chung
2.3.6. Thực hành viết đoạn văn, bài văn nghị luận so sánh.
- Sau khi nhận diện đề; tìm ý và lập dàn ý xong, dựa trên hệ thống luận
điểm, luận cứ đã xác định học sinh viết thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết bài, sau đó rút kinh nghiệm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong thực nghiệm dạy học hướng
dẫn học sinh lớp 12- THPT nhằm nâng cao hiệu quả làm văn nghị luận so
sánh.
Việc hướng dẫn học sinh thực hiện một số giải pháp về làm văn nghị luận
so sánh, trước hết giúp các em nhận diện được yêu cầu của đề bài, biết cách tìm
ý, lập dàn ý, viết bài phù hợp với mỗi dạng đề so sánh cụ thể. Điều đó đã giúp
các em dễ dàng định hướng, nâng cao năng lực tổng hợp khái, năng lực cảm thụ
trong giờ thực hành làm văn.
Có 96,7 % ý kiến của các em cho rằng việc giáo viên đưa ra các giải pháp
hướng dẫn các em cách làm bài là cần thiết. Dưới đây là bảng phân bố phần
trăm ý kiến học sinh về việc Giáo viên đưa ra các giải pháp hướng dẫn các em
cách làm bài là cần thiết hay không cần thiết:
Ý kiến
%
Cần thiết
96,7
Không cần thiết 3,3
Tổng số
100,0

Như vậy việc hướng dẫn học sinh thực hiện một số giải pháp về làm văn
nghị luận so sánh đã giúp các em trong quá trình ôn tập, kiểm tra, nhận diện
được yêu cầu của đề bài nhanh hơn, làm bài đạt kết quả cao hơn.
Với ý tưởng như trên, bản thân tôi đã áp dụng thực hiện trong năm
học và thông qua kết quả học tập của học sinh, quan sát thái độ học tập, thăm
dò ý kiến của học sinh đã có kết quả thay đổi rất tích cực. Cụ thể như sau:
Lớp

Điểm 9- Điểm 7- 8 Điểm 5-6
Điểm 3-4 Điểm 1-2
17


số
12 A
42
12 C
45
12 E
38
Tổng- % 125

10
1- 2,4%
2- 4,4%
1- 2,6%
4- 3,2%

12- 28,6%
14- 37,8%

10- 26,3%
36- 28,8%

26- 61,9%
21- 46,7%
24- 63,2%
71- 60,2%

3- 7,1%
5- 11,1%
3- 7,9%
11- 8,8%

0
0
0
0- 0%

Qua đối chiếu với các số liệu trên đây tôi nhận thấy: so với kết quả đầu
năm học (khi chưa áp dụng giải pháp nêu trên) thì đến cuối năm( sau khi đã áp
dụng giải pháp) chất lượng làm văn kiểu bài nghị luận so sánh đã nâng lên rõ rệt.
Điều đó có thể khẳng định việc đưa ra một số giải pháp về làm văn nghị luận so
sánh đã có hiệu quả tích cực. Nó phù hợp với tình hình dạy học và xu hướng ra
đề trong các kì thi hiện nay.
III. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận.
Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn giảng dạy trong năm
học đã đạt được một số kết quả đáng kể. Phần lớn học sinh đã hiểu được bản
chất vấn đề. Từ đó vận dụng thành thạo, có hiệu quả từ khâu tìm hiểu đề, lập dàn
ý cho đến viết bài.

Với sự trang bị kiến thức- kĩ năng, chắc chắn các em hoàn toàn yên tâm
khi đối diện thử thách với các kì thi, đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia sắp tới.
3.2. Kiến nghị
* Với Bộ giáo dục và đào tạo: Nên bổ sung vào chương trình bằng một bài học
cụ thể về kiểu bài nghị luận so sánh.
* Với Sở Giáo dục và Đào tạo: Cần thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo,
tập huấn để giáo viên có dịp trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đồng thời, với những sáng kiến có tính
thực tiễn cao thì cần phổ biến, nhân rộng trong toàn ngành.
* Đối với giáo viên: Cần thường xuyên tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên
môn nhằm học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, từ đó tìm ra các giải pháp tốt nhất
nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy, trải nghiệm qua thời
gian, và bước đầu đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, với khuôn khổ của
bài viết, chắc chắn sáng kiến của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy
rất mong nhận được sự chia sẻ, trao đổi từ đồng nghiệp để góp phần tích cực
vào sự nghiệp đổi mới giáo dục và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 04 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

18


Trương Thị Hồng


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tập huấn “ Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh”- Bộ GD& ĐT- 2014
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – NXB Giáo dục – năm 2009.
3. Sách giáo viên Ngữ văn 12- NXB Giáo dục – năm 2009.
4. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT, môn Ngữ văn của Bộ giáo
dục- NXB Giáo dục.
5. Từ điển thuật ngữ văn học- Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000
6. Từ điển Tiếng Việt- Hoàng Phê (chủ biên)-Trung tâm từ điển học, 2003
7. Bộ đề thi THPT Quốc Gia môn Văn- NXB Đại học Quốc Gia 2015

19


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ
ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD& ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trương Thị Hồng
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn- Trường THPT Lê Viết Tạo
TT
1
2
3

4
5

Tên đề tài SKKN


Cấp đánh
giá xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại
C

Năm học
đánh giá
xếp loại
2004- 2005

Đọc sáng tạo tác phẩm văn học: phương
pháp và thể nghiệm
Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị
luận cho học sinh THPT
Một số giải pháp giúp HS lớp 10- THPT
nâng cao hiêu quả tiếp cận các văn bản
nghị luận trong CT SGK Ngữ văn 10
(CTC)
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiêu quả
làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp
12
Một số giải pháp giúp HS lớp 10- THPT
nâng cao hiêu quả làm văn nghị luận về
một hiện tượng đời sống

Sở giáo dục
và đào tạo

Sở giáo dục
và đào tạo
Sở giáo dục
và đào tạo

C

2008-2009

B

2012- 2013

Sở giáo dục
và đào tạo

C

2013- 2014

Sở giáo dục
và đào tạo

C

2015- 2016

20




×