Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN cách tiếp cận thơ nôm hồ xuân hương từ góc nhìn về số phận người phụ nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.38 KB, 27 trang )

1- Đặt vấn đề
1.1. Lí do chọn đề tài:
Nghiên cứu cái nhìn của một nhà thơ thông qua tác phẩm của họ bao giờ cũng là
một vấn đề được quan tâm. Thái độ đối với con người nói chung, người phụ nữ nói
riêng luôn là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm, một tác giả văn học. Hồ
Xuân Hương và thơ của bà là một hiện tượng văn học đặc biệt đã được các nhà
nghiên cứu đánh giá khác nhau thậm chí đối lập nhau.
Tìm hiểu, nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với số phận của người phụ
nữ , một nhà thơ nữ nói, viết, cảm về người phụ nữ trong tình hình nghiên cứu phê
bình có nhiều ý kiến khác nhau thậm chí trái ngược nhau là một việc làm lí thú, hấp
dẫn góp phần khẳng định tài năng và vị trí của nữ thi sĩ trong nền văn học dân tộc
Việt Nam. Điều lí thú rất có ý nghĩa nữa là bài viết sẽ góp thêm tiếng nói trân trọng,
yêu mến nhà thơ nữ nổi tiếng của dân tộc, đề cao vai trò của người phụ nữ trong sự
nghiệp tiến bộ, bình đẳng và phát triển của phong trào phụ nữ Việt Nam trong cuộc
đổi mới đất nước.
1. 2- Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm
Với đề tài này, người viết muốn chuyển đến mọi người cái nhìn trân trọng, cảm
thông về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung, nữ sĩ Hồ Xuân
Hương nói riêng; đồng thời cho mọi người thấy được vị trí của người phụ nữ trong
xã hội hiện đại- thế kỉ XXI.
2. Tổng quan
2.1. Tổng quan thông tin về những vấn đề cần nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: thơ Hồ Xuân Hương dưới cái nhìn thân phận, đặc biệt là
một số bài thơ được học trong chương trình nhà trường THPT
- Thời gian: Từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018
- Thực trạng: Vấn đề nghiên cứu đang gặp nhiều khó khăn khi có những ý kiến
đánh giá trái chiều về nội dung trong thơ Hồ Xuân Hương; các nhà nghiên cứu, phê
bình có cái nhìn khác nhau về nội dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Bên cạnh đó đây
là đề tài không mới nên người viết cố gắng khám phá để đem lại nét mới lạ, hấp dẫn
về thơ Hồ Xuân Hương nhằm cho người đọc thấy được thêm các khía cạnh khác.
1




2.2 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu: Áp dụng vào giảng dạy cho HS khối 11 và nội dung trong
ca dao than thân ở khối 10
- Đối tượng nghiên cứu: Sự nghiệp thơ văn của Hồ Xuân Hương đặc biệt là
mảng thơ nói về thân phận người phụ nữ
3. Phương pháp nghiên cứu :
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra giáo dục.
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp mô tả.
4. Phần nội dung
4.1- Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu:
Phương pháp dạy - học là một bộ phận hợp thành của quá trình sư phạm nhằm
đào tạo thế hệ trẻ có tri thức khoa học, về thế giới quan và nhân sinh quan, thói
quen và kỷ năng hiểu biết, vận dụng kiến thức vào thực tế, đẩy mạnh sự phát triển
tư duy lôgic, nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường PT.
Phương pháp dạy học có mối liên hệ biện chứng với các nhân tố khác của quá
trình học. Những phương pháp dạy học phải thống nhất biện chứng giữa việc giảng
dạy cuả giáo viên với việc học tập của học sinh. Đồng thời góp phần có hiệu quả
vào việc thực hiện tốt các khâu của quá trình dạy - học. Xác định kế hoạch giáo dục,
giáo dưỡng, phát triễn bộ môn một cách nhịp nhàng và khoa học, cụ thể hóa nhiệm
vụ dạy học dưa trên cơ sở đặc điểm của học sinh, điều chỉnh kế hoạch dạy học cho
sát với diễn biến thực tế, tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập ở trên lớp cũng như
ở nhà phù hợp với phương pháp sư phạm theo dự định.
Đối với bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông, những kiến thức vận dụng để
giải quyết những vấn đề tổng hợp giữ một vai trò hết sức quan trọng, việc hướng
dẫn học sinh nắm vững kiến thức, vận dụng vào đề văn cụ thể là một hoạt động dạy

học, một công việc hết sức khó khăn, ở đó bộc lộ rõ nhất trình độ của người giáo
viên trong việc hướng dẫn hoạt động trí tuệ và tư duy lôgíc của học sinh, vì thế đòi
2


hỏi người thầy và học trò cần phải học tập, tìm tòi và lao động không ngừng. Bài
tập sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn những kiến thức cơ bản và cách vận dụng kiến
thức đó vào một trường hợp cụ thể. Thông qua đề tài nghiên cứu này sẽ giúp học
sinh có cái nhìn tổng thể về giá trị thơ văn Hồ Xuân Hương đặc biệt là cái nhìn trân
trọng của bà đối với người phụ nữ trong xã hội nam quyền, tạo điều kiện cho học
sinh vận dụng linh hoạt những kiến thức để tự mình giải quyết tốt những tình huống
cụ thể, thì những kiến thức đó mới trở nên sâu sắc hoàn thiện và trở thành vốn
riêng, tạo tiền đề cho tư duy độc lập giúp phát triển tư duy của mỗi học sinh trong
việc làm một số đề bài có liên quan đến nội dung đề tài đề cập.
4. 2 Cơ sở thực tiễn và thực trạng của đề tài:
4.2.1. Thực trạng tình hình vấn đề:
- Đề tài “Cách tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ góc nhìn về số phận người
phụ nữ” đã được đề cập, tuy nhiên chưa có một cái nhìn tổng quát về vấn đề đó.
Với đề tài này, người viết mong muốn sẽ giúp HS có cái nhìn tổng quát về vấn đề và
có thể vận dụng kiến thức tổng hợp đó vào những bài học cụ thể.
- Học sinh chỉ có cái nhìn tổng thể về con người Hồ Xuân Hương qua những kiến
thức trong sách giáo khoa và những kiến thức cơ bản được hiểu qua bài giảng; nên
phải có cái nhìn tổng thể về thơ văn của bà đặc biệt là những bài thơ trong chương
trình.
4.2.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Biện pháp: nhận định tổng quát về cách xây dựng hình tượng nhân vật người
phụ nữ đồng thời kết hợp với việc tìm hiểu về một số bài thơ trong chương
trình phổ thông.
4.2.3. Tổ chức thực hiện
4.2.3.1. Cái nhìn tổng quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ văn Hồ Xuân

Hương
4.2.3.1.1 Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại nói chung
4.2.3.1.1.1 Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
“Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật
dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp
3


bằng cảm tính”. Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn là phương tiện hình
thức để nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi
nhà văn khi cầm bút phải không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng
nhân vật tiêu biểu đặc sắc. Không phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng
văn học. Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng
nhân vật văn học. Để trở thành hình tượng văn học điều kiện tiên quyết là phải có
tính điển hình.
Trong văn học, hình tượng nhân vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn
cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung khái quát cao.
Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp... mà mình đại
diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của
một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy: hình tượng nhân
vật trong văn học là nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học, mang đậm nét khái
quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng thời là nhân vật có những nét
riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học ấy thể hiện.
4. 3.2.1.1.2 Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, ở nước ta do
điều kiện xã hội đặc biệt của nó mà trong văn học dân tộc hình thành một trào lưu
nhân đạo chủ nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần đầu tiên hình ảnh người phụ nữ
được đề cập đến một cách phổ biến trong nhiều tác phẩm của nhiều tác giả: Đặng
Trần Côn có người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia Thiều có người
cung nữ trong Cung oán ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều;

trong những truyện Nôm của những nhà thơ khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân
trang…cũng có những cô gái như Dao Tiên, Quỳnh Thư…Nhưng điểm lại những
nhân vật phụ nữ trong giai đoạn này, hầu như tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý
phái, ngay cả Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng được nhà thơ giới thiệu là: “Gia tư
nghĩ cũng thường thường bậc trung”(Truyện Kiều).
Trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn học trung
đại cũng hiện diện trong một vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một
sự kết hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ
4


đức”. Như vậy, ngay trong cái nền chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của
người Việt đã có một sự “dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm
mỹ vốn là một phạm trù “phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác –
Lênin). Cho nên, mỗi một thời đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những
quan niệm khác nhau. Thời trung đại, với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn hoá
Trung Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan
niệm thẩm mỹ của thời đại. Người phụ nữ có đức hạnh theo quan niệm của Nho gia
(lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ đủ “tam tòng, tứ đức” (Tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và công, dung, ngôn hạnh.
Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được
biểu hiện không giống nhau.
+ Đó là nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà đẹp nhất
trong văn học Việt Nam. Nếu đặt Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không
phải là người phụ nữ đức hạnh, nhưng không vì thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp
của Kiều từ ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi
tấm lòng nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Nguyễn
Du đã kế thừa.
+ Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo
quan niệm của lễ giáo phong kiến: “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân

Tiên).
+ Những người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm cũng là
những đại diện tiêu biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ.
Nhưng với Hồ Xuân Hương, người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có
cái nhìn mới về vẻ đẹp người phụ nữ, đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp
của giới mình. Xuân Hương là người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa vào văn học
giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích thực là những cô gái bình dân.
Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ
(Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Quả mít); ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong các cô
gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào đến từng chi tiết của vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ
ngủ ngày)…
5


Tuy nhiên, trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp
thường gắn liền với số phận bất hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ thời kì này
ta thấy một điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không mấy
người có được hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng
nhan bạc mệnh”.
4. 3.2.1.1.3 Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
4. 3.2.1.1.3.1 Vẻ đẹp của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh
của mình về vẻ đẹp hình thức, vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ của
người phụ nữ.
4. 3.2.1.1.3.1.1 Vẻ đẹp hình thức.
Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép nép
trong cái mô thức “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” hay “công,
dung, ngôn, hạnh”. Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này,
người ta thấy thường là những cô gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên môi và
chan chứa tình yêu đời, yêu người trong lòng. Hồ Xuân Hương sáng tác trong bối

cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ viết rất nhiều về phụ nữ,
nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ. Điều này càng được làm rõ hơn qua bài
thơ “Đề tranh tố nữ”:
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh,
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình
Trong văn học ta có lời thơ nào ca ngợi các cô gái và tuổi trẻ của các cô gái
đẹp hơn thế nữa. Nhưng độc đáo hơn cả là bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày” của nhà
thơ. Đây là một bài không phải ca ngợi vẻ đẹp của phụ nữ nói chung, hay ca ngợi
6


tuổi trẻ, mà ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của một cô gái trẻ tuổi. Văn học giai đoạn
này, ta bắt gặp nhiều tác giả miêu tả vẻ đẹp của giai nhân như Nguyễn Du miêu tả
vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều. Hay trong tác phẩm Hoa tiên tác giả cũng miêu tả
vẻ đẹp của Dao Tiên, hay trong Truyện Tây sương miêu tả vẻ đẹp của Thôi Oanh
Oanh…Đó là cái vẻ đẹp trên khuôn mặt với đôi mắt và nụ vười, cái đẹp của đôi mắt
và làn da….cách miêu tả của các nhà thơ nói chung là ước lệ tượng trưng. Riêng với
Hồ Xuân Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ
nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời đại. Bà chú
ý đến những bộ phận thân thể thường được giấu kín của con người. Những bộ phận
đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính
là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả
của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt:
Lược trúc chải dài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà
thơ không có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân
trọng. Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạp, bị giày
xéo, nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ, nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt
trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng
vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
4. 3.2.1.1.3.1.2 Vẻ đẹp tâm hồn.
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người
con gái dở dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại
khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một
trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi
họ, tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số
7


phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”;
hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”... nhà thơ
luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ
nó xù xì” nhưng “múi nó dày”. Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề
cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh
nào họ cũng giữ được tấm lòng son sắt:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
( Bánh trôi nước)
Mặc dù, số phận người phụ nữ không tự định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời

nhưng họ không cam chịu, họ vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với tình yêu.
Một lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất thủy chung của người phụ nữ.
Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân,
sự trinh trắng, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan:
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng tình yêu
hạnh phúc.
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền
chặt, nồng cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm
từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi
hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà
thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số
phận. “Câu thơ nhân hậu của hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách
thức”
4. 3.2.1.1.3.1.3 Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ
8


Trong các nhà thơ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một
hiện tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay. Tục truyền
hồi Xuân Hương còn đi học, một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất
trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một cái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên.
Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

rồi bình thản đi vào. Mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài.
Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang
lững thững trên bờ Hồ Tây, bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở
đằng sau rồi trêu ghẹo nàng, có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa,
nàng đọc cho một bài thơ rằng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy,
Xuân Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về
mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ nữ này đã không chịu cất nón,
cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn
liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo
bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ
như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.
Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về
hình thể mà họ còn là những con người có đầy tài năng, trí tuệ khác người.
4. 3.2.1.1.4 Thơ Hồ Xuân Hương –lời tự bạch về thân phận của người phụ nữ.
9


Cùng với Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Anh, Hồ
Xuân Hương là chân dung cuối cùng của tứ kỳ nữ trong thi đàn Việt Nam thời trung
đại. Bằng lâu đài thơ khá đồ sộ, nữ sĩ đã khẳng định được tài năng, bày tỏ nỗi niềm
thân phận trong xã hội nam quyền. Đằng sau những nỗi niềm riêng tư của một cá

thể, thơ của bà là tiếng lòng của bao thân phận người phụ nữ phải nếm trải một cuộc
sống đắng cay.
Trước hết, thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói thở than về thân phận. Trong xã
hội phong kiến, người phụ nữ phải chịu những nghịch cảnh trớ trêu, chua xót trăm
bề. Điều này từng được cất lên đầy thống thiết trong chùm ca dao than thân. Thân
phận phụ thuộc, bị rẻ rúng giá trị hay nỗi buồn vì phận hẩm duyên ôi của người phụ
nữ xưa như đang ngả bóng, trĩu nặng trong thơ Hồ Xuân Hương. Từ nỗi niềm riêng
của một cá thể, tiếng thơ chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận
con người, nhất là người phụ nữ.
Đọc bài thơ Tự tình 2, ta nghe rõ tiếng lòng thở than, ngao ngán không thể kìm
giữ mà trực tiếp lên tiếng:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
(Tự tình 2)
Với những bậc hiền triết, đạo sĩ xưa, họ quan niệm thời gian tuần hoàn viên
mãn nên có tâm thế an nhiên tự tại, có phong thái ung dung chẳng lo phiền. Xuân
Hương nữ sĩ lại nhận ra nghịch lí: cứ mỗi xuân qua, con người lại phải tạ từ một
phần tuổi xuân của mình. Với người phụ nữ, tuổi trẻ, tình yêu muôn đời là khát
vọng, là điều quý giá, có ý nghĩa nhất. Vậy mà, tình duyên của nữ sĩ chỉ là một
mảnh nhỏ bé, mong manh đến tội nghiệp, lại còn san sẻ cuối cùng chỉ còn một "tí
con con". Trong xã hội ấy, ước vọng về một tình yêu và hạnh phúc trọn vẹn thật xa
vời với người phụ nữ. Câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng đến tình cảnh hai lần
làm lẽ rồi hai lần góa bụa của nhà thơ.
Trong bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường, ngoài nỗi buồn đau cho người đã
khuất và sự xót xa cho tình duyên lỡ làng, người đọc còn tìm thấy ở đây niềm nuối
tiếc ngậm ngùi bởi đã mất đi một bạn thơ, một người tri kỷ.
10


Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chuơng ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn khép lại thôi.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!
Với Hồ Xuân Hương, hạnh phúc đã muộn màng lại còn quá đỗi ngắn ngủi.
Đạo nghĩa trăm năm của tình chồng vợ, sự thấu hiểu, đồng điệu của những bậc tri
âm oái ăm thay chỉ đà mấy chốc. Niềm vui chỉ thoáng qua như ngọn gió, nỗi bất
hạnh đeo đẳng ám ảnh cả đời người. Trong mảng thơ về nỗi bất hạnh trong tình
duyên, đây là một trong những vần thơ chất chứa nỗi niềm chân thực về thân phận.
Đến với thơ Hồ Xuân Hương, người đọc càng thấu rõ khát vọng hạnh phúc
cũng như sự tự ý thức về phẩm giá của bà, cũng là của người phụ nữ trong xã hội
cũ. Càng nếm trải nhiều nỗi bất hạnh, đa đoan, nhà thơ càng khát khao hạnh phúc,
khát khao được đánh giá đúng giá trị của mình. Mời trầu và Bánh trôi nước là hai
bài thơ chứng minh rõ điều ấy. Người phụ nữ tài hoa và đa cảm ấy luôn khắc khoải
một khát vọng về tình yêu thắm ngọt, thủy chung. Với Hồ Xuân Hương, tình yêu
luôn gắn với tình duyên. Đó phải chăng là phẩm chất muôn đời của phụ nữ Việt. Họ
luôn tìm kiếm bến bờ bền vững để neo đậu tình yêu. Họ sợ vô cùng sự bạc bẽo, bội
ước của những đấng nam nhi. Và dù cho cuộc đời này gió dập sóng dồi, dù cho
thân phận chìm nổi lênh đênh, họ vẫn luôn kiêu hãnh, gìn giữ một trái tim son sắt
thuỷ chung.
Thật không sai khi nói rằng, thơ Hồ Xuân Hương là tiếng lòng trong muôn
một tấm lòng của người phụ nữ Việt.
4. 3.2.1.1.3.1.4 Thơ Hồ Xuân Hương – tiếng nói cảm thông với người phụ nữ
Đã là người Việt Nam sẽ không còn ai xa lạ với Hồ Xuân Hương – người
được Xuân Diệu mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”.

11



Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính
nhưng phải chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao
khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống được bà
gửi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không chỉ của riêng
tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến nam quyền.
Có thể nói, thơ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ. Không
phải là những “cung tần” như trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều
hay những người chinh phụ trong “chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn mà là
những người phụ nữ bình dân, lam lũ; những số phận bất hạnh. Ngoài văn học dân
gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến
cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy. Đó không chỉ là những tiếng
than: Do sống trong xã hội phong kiến - một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ
giáo trói buộc, không được hoạt động xã hội, không được học hành thi cử, chịu
nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ
không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường
tình duyên. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ
nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi nên Hồ Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận
của những người phụ nữ không may mắn trong đường tình duyên. Đó là nỗi khổ của
người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ chết
chồng…Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội
phong kiến thối nát, mục ruỗng mà không ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương khắc
họa thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mười họa mới được gần chồng.
Họ là thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu.
Nhà thơ vạch trần bản chất xấu xa của chế độ đa thê phong kiến.
“Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”

(Lấy chồng chung)
mà còn là những tiếng thét căm hờn:
12


“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Cảnh chồng chung)
Ai cũng biết, cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai,
nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao
giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ,
bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc
đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói
chia sẻ với họ. Vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những người
con gái nhẹ dạ:
“Cả nể cho nên hoá dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng”
(Dở dang)
Của những thân phận lở dở:
“Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mõm mòm”
(Tự tình 1)
Và của những số kiếp nổi nênh:
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”
(Chiếc bách)
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giờ dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ
luôn có một trái tim cháy bỏng yêu thương. Trái tim ấy cùng chung nhịp đập với
những thân phận phụ nữ bất hạnh, thay họ nói lên những tiếng nói phản kháng,
thách thức, tuyên chiến với lễ giáo phong kiến:
“Không có, nhưng mà có, mới ngoan”

(Dở dang)
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người
con gái dở dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại

13


khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một
trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ,
tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận
bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay
quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”... nhà thơ luôn
chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù
xì” nhưng “múi nó dày”, còn chiếc bánh trôi:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
(Bánh trôi nước)
Nhà thơ ca ngợi tuổi trẻ trắng trong, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang
xoan trong “ Đề tranh tố nữ”:
“Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”
(Đề tranh tố nữ)
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên
tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng
định mình:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)

Cái ước vọng ấy là của một người luôn ý thức được giá trị của mình, luôn có những
cái vỗ ngực tự xưng đầy thách thức:
“Quả cau nho nho miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi”
(Mời trầu)
“Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom”
14


(Tự tình 1)
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có
tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân
Hương cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ
bà là thứ thơ giải phóng cá tính, dám khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà
thơ đầu tiên dám đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ
của bà khi nói về người phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà
thơ viết về phụ nữ trước đó và cả sau này. Nếu như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều,
Đoàn Thị Điểm nói về người phụ nữ bằng sự xót thương, với những giọt nước mắt
cảm thông, và người phụ nữ trong thơ họ hiện lên hết sức đáng thương thì hình
tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Hương lại khác hẳn: luôn ngẩng cao ở tư thế
hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số phận của họ.
Bởi Xuân Hương hiểu rằng, cuộc đời cũ nước mắt đã đọng thành sông thành bể,
khóc thêm vài giọt nữa phỏng có ích gì. Xuân Hương không muốn khóc. Bà muốn
nói lên tiếng nói đầy mạnh mẽ để người phụ nữ có thêm nghị lực để sống và để
chống chọi với cuộc sống.
Chính điều đó đã làm nên một Hồ Xuân Hương độc đáo trong lịch sử thơ ca
Việt Nam.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ
nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ

và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ
Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không
chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.
4. 3.2.1.1.3.1.5 Thơ Hồ Xuân Hương- tiếng nói phê phán, đả kích giai cấp phong
kiến thống trị
Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ
Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói
tâm tình của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung
tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh
trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ
15


đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những
người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và
những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu
nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là
người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất
nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi.
Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện
cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết
hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tố cáo
được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân tộc,
cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong
những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ
vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ
nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.
Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa.
Riêng Hồ Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua,
mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể:

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
(Vịnh cái quạt)
Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với
bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng.
Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa:
Đố ai biết đó vông hay chốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều
nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”,
Xuân Hương không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn
bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội.

16


Bên cạnh những "hiền nhân quân tử" là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh
hoang. Xuân Hương gọi chúng là “phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và
đòi dạy chúng làm thơ:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
(Giễu học trò dốt)
Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ
phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua:
Khen thay con tạo khéo khôn phàm

(Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc (hang Cắc Cớ)
Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả
kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai
cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân
Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi
muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào
phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái
tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ
đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào
phúng đó thôi”.
4. 3.2.1.1.4 Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong thơ Hồ Xuân Hương
Với ngôn ngữ dân gian, với bản lĩnh của một người khát khao được sống và
sống mãnh liệt, với cặp mắt quan sát sắc sảo và biết chọn lọc cái gì cần
thiết….Xuân Hương có một nghệ thuật xây dựng hình tượng độc đáo, không lẫn với
ai, tạo cho mình một phong cách riêng. Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho
17


tàng ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ
được bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó. Tác giả
dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại
nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Chẳng hạn vần ênh trong
bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong manh về số phận của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Thơ Ðường luật vốn được dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ. Hồ Xuân
Hương đã đem đến cho thể thơ này một nội dung rất thông tục “hình ảnh trong thơ
thì sinh động, góc cạnh, luôn chuyển động chứ không chết dí một chỗ”
4. 2. 4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
4. 2.4.1. Vận dụng nội dung trên để tìm hiểu về thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong

chương trìn Ngữ văn lớp 11
4. 2. 4.1.1 Kiến thức cần nắm
Bài " Tự tình II" khai thác thế đối nghịch giữa thời gian với tuổi trẻ và tình yêu.
Bài thơ là mạch cảm xúc của nhiều niềm tâm sự. Niềm tâm sự ấy đến vào lúc cũng
thật là tinh tế.
- Hai câu đầu
" Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
Câu thơ nói đến thời gian nhưng cũng lại gợi được cái không gian rợn ngợp.
Thời gian, không gian đối lập với con người nhỏ bé, cô đơn. Đêm khuya, vắng lặng
và tĩnh mịch. Đó là thời điểm con người cảm giác rõ nhất sự cô đơn. Một mình đối
diện với đêm khuya, khi tất cả mọi âm thanh của cuộc sống đã lắng lại, đã lùi lại cả
phía sau, người phụ nữ đa đoan ấy càng thấm thía nỗi buồn.
Cái âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh không làm cho đêm bớt tĩnh
lặng, mà ngược lại nó làm cho đêm sâu hơn, vắng hơn và lòng người buồn hơn.
Tiếng trống canh dồn là nhắc nhở thời gian đang bước từng bước lạnh lùng.
-> Nhà thơ đã lấy động để mà tả tĩnh – một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ
ca trung đại. Văng vẳng vừa gợi âm thanh của tiếng trống điểm canh, vừa gợi sự
quạnh quẽ của đêm khuya. Một mình đối diện với đêm khuya vắng lặng đến cô tịch
18


vốn đã dễ gợi niềm tâm sự. ở đây, còn thêm sự cô đơn thì nỗi buồn hẳn càng dễ đến
hơn. Câu thơ đầu có chỗ hiện còn nhiều cách hiểu. Đó là cụm từ trống canh dồn.
Thiết nghĩ, trống canh dồn không thể hiểu là sự gấp gáp, dồn dập, liên hồi của tiếng
trống. Hiểu như vậy có phần gượng ép. Đêm khuya không ai đánh trống dồn dập,
liên hồi. Vả lại trống điểm canh lại càng không đánh dồn dập được. Câu thơ chưa
nhắc đến chủ thể nhưng thực tế đã là một câu để gợi tình. Một mình đối diện với
đêm khuya, nhân vật trữ tình ngán ngẩm bởi thời gian trôi nhanh mà tình duyên thì
vẫn còn dang dở. Thời gian không chỉ nhanh từng ngày, từng tháng, từng năm mà

còn nhanh ngay cả mỗi canh giờ. Bởi thế mà ngay cả lúc, thời gian tưởng như có
bước đi chậm nhất thì nó vẫn cứ trôi vội vã. Vậy là cụm từ trống canh dồn có thể
hiểu : thời gian trôi nhanh nên cảm giác các canh ngắn lại. Cũng vì thế mà tiếng
trống điểm canh cũng dồn lại gần nhau hơn.Giữa cái nền không gian rợn ngợp cô
đơn ấy hiện lên một hình ảnh thật bẽ bàng
" Trơ cái hồng nhan với nước non"
Động từ "trơ" được đẩy lên đầu câu đứng ngay trước chủ thể “hồng nhan”.
Từ hồng nhan (sắc mặt hồng) chỉ dung nhan người phụ nữ, cũng là khái niệm chỉ
phụ nữ nói chung thiên về ngợi khen vẻ đẹp. Thế mà lại “trơ cái hồng nhan”. Chủ
thể đã mất hoàn toàn cảm giác, trơ ra, chai lì đi trước cuộc đời. Đã vậy từ hồng nhan
lại nằm ngay sau từ cái vốn không đi liền với danh từ chỉ người.
Câu thơ mỉa mai, rẻ rúng đến xót xa.
Nhịp thơ chắc khoẻ như gân lên ở đầu câu nhưng lại chùng xuống ở cuối câu
như muốn ngân thêm mãi cảm giác bẽ bàng.
Câu thơ buồn. Tình buồn, cảnh cũng buồn. Vì thế cũng là hợp lôgíc
- Hai câu thực, nhân vật trữ tình tìm đến rượu
" Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn."
Chủ thể trữ tình mượn rượu để tìm quên nhưng say rồi lại tỉnh. Tỉnh là tỉnh
rượu nhưng cũng lại là tỉnh trước hiện thực bẽ bàng.
Cụm từ say lại tỉnh gợi cái vòng lẩn quẩn : buồn – mượn rượu để tìm quên –
nhưng tỉnh rượu, nỗi buồn lại nhân lên gấp bội phần. Hương tình sao cũng giống
19


như hương rượu, khiến ta say. Và nếu như sau cơn say rượu, ta mệt mỏi rã rời thì
sau một thoáng hương tình rất có thể ta phải đau đớn, xót xa.
Câu thơ thứ tư mới thực là một câu tả thực. Câu thơ gợi ra nguyên nhân của sự
bẽ bàng
" Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"

Xưa nay, vầng trăng tròn đầy vốn tượng trưng cho sự viên mãn của hạnh phúc
lứa đôi. Nhưng ở câu thơ này, nó là một sự khao khát. Niềm khát khao của bất kì
một người phụ nữ nào trên thế gian này, khát khao hạnh phúc, khát khao thoát khỏi
nỗi cô độc, lẻ loi. Nhiều người vẫn dựa vào những câu chuyện về tình duyên của
Xuân Hương để lí giải nghĩa của câu thơ này. Thế nhưng, đó chỉ là sự suy luận với
mong mỏi tìm hiểu cặn kẽ cụ thể một hình ảnh thơ. Không thể nói rằng cả hai lần
làm lẽ, Hồ Xuân Hương đều không hạnh phúc. Mặc dù có thể là gắng gượng nhưng
phải làm lẽ ở thời phong kiến cũng không có gì là ghê gớm. Xuân Hương có buồn
nhưng không kêu ca. Nàng chỉ tiếc hạnh phúc lứa đôi đã có những lúc tròn đầy sao
giờ “xế bóng” mà lại không viên mãn. Hạnh phúc sao không trọn vẹn.
Câu thơ không đơn giản thế, không chỉ là nỗi buồn của riêng Xuân Hương
vì chuyện hạnh phúc lứa đôi dang dở. Ai dám khẳng định rằng tất cả mọi người
phụ nữ trong mọi thời đại đều chắc chắn hạnh phúc, không cảm thấy cô đơn khi
có đủ cặp, đủ đôi. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn
chung. Đó là nỗi khát khao một hạnh phúc vẹn tròn. Nhất là những người phụ nữ
không may mắn trong chuyện tình duyên, tuổi xuân cứ lạnh lùng trôi đi mà hạnh
phúc tìm hoài không thấy.Sự khác biệt lớn nhất thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân
Hương là ở nữ sĩ, phẫn uất bao giờ cũng đi liền với phản kháng.
- Hai câu thơ luận chính là hai câu nói lên cái bản lĩnh ấy của Hồ Xuân Hương
" Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn."
Hai câu thơ đăng đối và chắc khoẻ được tạo nên từ nghệ thuật đảo ngữ và luật
đối quy định trong câu luận.
+ Một nhỏ bé và yếu ớt (đám rêu).
+ Một là vật vô tri (đá).
20


Nhưng thiên nhiên lại chở cái phẫn uất của lòng người nên dù yếu ớt mà vẫn
tràn đầy sức sống (từng đám rêu xiên ngang mặt đất). Dù vô tri, đá vẫn cựa động,

quẫy đạp, phá phách (mấy hòn đá đâm toạc chân mây).
Bản lĩnh của Hồ Xuân Hương không chỉ tìm thấy trong ý nghĩa của sự miêu
tả. Nó nằm ngay ở cách dùng từ. Ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương mạnh mẽ, bướng
bỉnh và phải là độc đáo : xiên ngang, đâm toạc. Chúng ta gặp nhiều cách dùng từ
này trong thơ của Xuân Hương : xoạc cẳng, phường lòi tói, chín mõm mòm… Đó là
phong cách ngôn ngữ riêng của Bà chúa thơ Nôm Xuân Hương.
Hai câu thơ tả cảnh nhưng cũng là để thể hiện cá tính Hồ Xuân Hương – con
người không dễ dàng bằng lòng hoàn cảnh. Nhưng nếu chỉ có vậy, thơ Xuân Hương
sẽ khô khan và gượng ép.
- Hai câu thơ cuối là hai câu nói thực lòng người phụ nữ :
" Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
"Mảnh tình san sẻ tí con con !"
Dù gắng gượng, bài thơ vẫn kết thúc trong tâm trạng chán chường. Từ "
ngán nỗi" nói lên điều đó. Xuân Hương ngán ngẩm nỗi đời éo le, cũng là ngán
ngẩm số phận mình bạc bẽo. Tạo hoá cho bốn mùa xoay vần trở lại nhưng tuổi
xuân mãi mãi qua đi. Mùa xuân của đất trời mỗi năm một mới. Nhưng mùa xuân
của cuộc đời chỉ có một chiều tàn úa.
Hai từ "lại" trong câu này có nghĩa khác nhau.
+ Một từ là “thêm lần nữa”
+ Một từ là “trở lại”.
Nhịp câu thơ kéo dài như nỗi chán chường, sự cô đơn bất tận của nhân vật trữ
tình.
Câu thơ cuối là sự sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật tăng tiến
" Mảnh tình san sẻ tí con con"
Mảnh tình đã ít đã nhỏ, lại còn san sẻ nên thành ra chỉ còn lại tí con con, đã tí
lại con con, hầu như chẳng còn gì.
Câu thơ là tâm sự của người đi làm lẽ
" Tối tối chị giữ mất chồng
21



Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò"
(Ca dao)
Cảnh chồng chung vợ chạ thực sự là một dấu ấn khắc sâu vào cuộc đời bất
hạnh, chán chường của người phụ nữ mà trong hoàn cảnh nào cũng không nguôi
khát vọng yêu thương.Trong thơ ca trung đại, cái Tôi cá nhân giữ một vị trí rất
khiêm tốn, nó nhỏ bé và yếu ớt nấp sau một cái ta đầy kiêu ngạo. Nhưng những
người nghệ sĩ như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đều không chấp
nhận thực tế ấy. Với tài năng, tình đời và bản lĩnh sáng tạo của mình, họ đã dũng
cảm đưa cái Tôi cá nhân với những tâm trạng rất riêng, rất người, rất đời thường
vào những trang thơ, trang văn. Và đó đều là cái tình đời, tình người của những
người nghệ sĩ có tấm lòng nhân đạo và tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Chùm 3 bài Tự tình của Hồ Xuân Hương, mỗi bài có một vẻ riêng. Dù sao
cũng phải nói rằng ở bài này thấy ít sự ngao ngán hơn. Thơ vẫn có những lúc phá
phách nhưng không phải theo kiểu bất cần. Bài thơ nghiêng hơn về âm hưởng trữ
tình. Nỗi buồn đong đầy nhưng vẫn lắng sâu, không hời hợt. Nhìn thẳng để viết thật
về lòng mình, bài thơ không chỉ là tâm sự của Hồ Xuân Hương. Bài thơ còn mang ý
nghĩa nhân văn cao cả
4. 2. 4.1.2 Bài tập vận dụng
ĐỀ BÀI: Bài thơ "Tự tình 2" vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Anh /chị hãy phân tích điều
đó.
Gợi ý:
-"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn" là diễn tả thời gian trong sự khắc khoải
chờ đợi, chờ đợi trong bi kịch của chính Hồ Xuân Hương
- trơ ra với cả nước non, đây là sự tự giằng xé trong cảnh ngộ chua chát, xót xa
của bà đối với duyên phận hẩm hiu của chính mình.
- Cuối cùng phải nhờ đến chén rượu giải sầu nhưng chỉ thấy buồn hơn mà thôi
(say rồi lại tỉnh), tất cả nguyên nhân của nỗi buồn này nằm ở câu "vầng trăng bóng
xế khuyết chưa tròn". Nghĩa của vầng trăng mà tác giả đang ngắm và suy ngẫm có

thể là hạnh phúc, là tình duyên tới lúc bóng xế mà vẫn khuyết, chưa tròn. Tất nhiên
22


trăng đang khuyết nhưng chưa tròn còn giúp ta hiểu: Bà luôn khát khao hạnh phúc
ngay cả khi bóng xế vẫn ước ao tình cảm viên mãn tròn đầy.
- Hai câu tiếp theo bàn luận về cái tình của bà, tâm trạng của bà: cách dùng đảo
ngữ, động từ mạnh nhấn mạnh cái phẫn uất, muốn bứt phá như rạch trời xé đất để
nói lên sự bất hạnh của bà cũng như những người làm lẽ …Sự phản kháng quyết liệt
với cuộc đời, xã hội cho thỏa uất ức, tủi hờn…
- Hai câu kết: nhịp thơ chậm lại, ngao ngán và buồn như một tiếng thở dài cam
chịu cho số phận, nỗi chán chường cứ chồng chất lên mãi khi lúc bóng xế, đêm
thâu, khát

khao

hạnh

phúc

càng

dữ

dội

thì

nỗi


buồn

càng lớn.

=> Tóm lại: Bài thơ là nỗi thương mình trong cô đơn lẻ mọn, khát khao hạnh phúc
tuổi xuân đồng thời thể hiện thái độ bứt phá, muốn thoát khỏi cảnh ngộ, vươn lên
giành hạnh phúc nhưng lại tuyệt vọng, buồn chán…
4.2.4.1.3 Kiểm nghiệm: Thông qua nghiên cứu và thực hiện trên hai lớp với đề tài
tôi đã thu được kết quả như sau:
Khảo sát qua bảng số liệu
LỚP

SỐ

GIỎI

LƯỢNG SL %
11A2 43
11A4 43
Đánh giá chung

2
2

5
5

KHÁ

T.BÌNH


YẾU

KÉM

SL

%

SL

%

SL

%

SL

20
23

46
53

20
15

46
35


1
3

3
7

0
0

%

- Loại bài điểm giỏi (8-9):
+ HS nắm được kiến thức trong bài thơ "Tự tình 2"
+ HS vận dụng được kiến thức trong đề tài này để lí giải rõ hơn về cuộc đời, số
phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung, cuộc đời và thân phận
của nhà thơ Nôm Hồ Xuân Hương nói riêng
+ Bài viết của học sinh có sự liên hệ với vai trò của người phụ nữ trong xã hội
ngày nay. Xã hội phát triển, người phụ nữ rất được coi trọng, đề cao và hiện tại họ
đã giữ những vị trí quan trọng của đất nước.
- Loại bài điểm khá (7)
+ Học sinh nắm được kiến thức cần có để vận dụng vào cảm nhận bài thơ
23


+ Bài viết đã thấy rõ sự liên hệ của học sinh trong quá trình nắm bắt và vận dụng
kiến thức của đề tài để hiểu về thơ Nôm Hồ Xuân Hương, cuộc đời bà và số phận
người phụ nữ Việt Nam dưới thời phong kiến- xã hội nam quyền.
4.2.4.2 Vận dụng nội dung trên để tìm hiểu về chùm ca dao than thân trong chương
trình Ngữ văn 10

4.2.4.2.1 Kiến thức cần nắm
- Vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao than thân: dưới cái nhìn nhân đạo của
nhân dân lao động, hình ảnh người phụ nữ hiện lên đậm nét với vẻ đẹp bên trong và
bên ngoài đáng được trân trọng, nâng niu
+ người phụ nữ được ví với tấm lụa đào "Thân em như tấm lụa đào"
+ vị ngọt bùi, vẻ trong trắng của củ ấu giai: ruột trong thì trắng, nếm ra mới
biết rằng em ngọt bùi……….
Người đọc sẽ thấy sự gần gũi giữa những lời ca quen thuộc trên với lời thơ trong
những bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương- đó là sự giao cảm của những trái tim
chan chứa yêu thương, sự trân trọng giành cho người phụ nữ "Thân em vừa trắng
lại vừa tròn. Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
- Số phận của người phụ nữ trong ca dao than thân: với quan niệm trọng nam
khinh nữ, chế độ phong kiến nhìn người phụ nữ với con mắt khinh thường, miệt thị.
Văn học dân gian đã lưu lại nỗi bất hạnh, sự đau khổ của người phụ nữ trong những
lời ca chan chứa yêu thương, đồng cảm, sẻ chia; đồng thời là tiếng nói lên án, tố cáo
thế lực chà đạo lên cuộc sống con người, vùi dập hạnh phúc bình thường của họ.
+ nỗi đau của người phụ nữ với thân phận lẽ mọn
"Vợ lẽ như ghẻ chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi ông hàng xóm có chân sang chùi"
+ nỗi đau với thân phận tảo hôn
"Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi cho tôi mượn cái gầu sồng
Để tôi tát nước múc chồng tôi lên"
24


+ nỗi đau với thân phận lệ thuộc, lênh đênh trôi dạt, cuộc đời trông chờ vào sự
may rủi

"Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
…………………………………
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân
………………………………………….. "
4. 2.4.2.2 Bài tập vận dụng
ĐỀ BÀI: Tiếng than của người phụ nữ trong chùm ca dao than thân
Gợi ý
- Tự hào về vẻ đẹp của mình "Thân em như tấm lụa đào", "củ ấu gai ruột trắng,
vị ngọ bùi"
- Buồn vì nỗi đau do bị lệ thuộc, kém duyên ""Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai",
"Ai ơi nếm thử mà xem"- lời mời gọi thảm thiết, đớn đau
4.2.4.2.2 Kiểm nghiệm: Thông qua nghiên cứu và thực hiện trên hai lớp với đề tài
tôi đã thu được kết quả như sau:
Khảo sát qua bảng số liệu
LỚP

SỐ

GIỎI

LƯỢNG SL %
10A1 42
10A5 42
Đánh giá chung

0
2

0
6


KHÁ

T.BÌNH

YẾU

KÉM

SL

%

SL

%

SL

%

SL

20
25

47
59

20

15

47
35

2
0

6
0

0
0

%

- Loại bài điểm giỏi (8-9):
+ HS nắm được kiến thức trong chùm ca dao than thân
+ HS vận dụng được kiến thức trong đề tài này để lí giải rõ hơn về cuộc đời, số
phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung, trong chùm ca dao than
thân được học trong chương trình ngữ văn 10 nói riêng
+ Bài viết của học sinh có sự liên hệ với vai trò của người phụ nữ trong xã hội
ngày nay. Xã hội phát triển, người phụ nữ rất được coi trọng, đề cao và hiện tại họ
đã giữ những vị trí quan trọng của đất nước.
- Loại bài điểm khá (7)
25


×