Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN dạy học truyện ngắn “chí phèo” theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.49 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “CHÍ PHÈO”
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Linh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Lợi
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

MỤC LỤC
THANH HÓA NĂM 2018

0


MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
1.2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................... 2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến .............................................. 5
2.3. Các biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề .................................................. 6
2.3.1. Phương pháp dạy học đọc – hiểu ............................................................... 7


2.3.2. Phương pháp dạy học tích hợp .................................................................. 17
2.3.3. Phương pháp thảo luận nhóm ................................................................... 18
2.3.4. Phương pháp đóng vai ............................................................................... 18
2.4. Hiệu quả của sáng kiến .................................................................................. 19
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận .......................................................................................................... 19
3.2. Kiến nghị ....................................................................................................... 20
Tài liệu tham khảo
Danh mục các SKKN đã được xếp giải

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nhiều năm nay, cả nước ta đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới giáo dục.
Chương trình học và sách giáo khoa được thay đổi theo hướng tích cực cả nội dung
lẫn hình thức nhằm theo kịp với xu thế phát triển của nền giáo dục thế giới. Để làm
được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc thay đổi phương pháp dạy
1


học từ “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh
giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực
vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập,
quá trình học nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy và học. Để chuẩn bị cho
quá trình đổi mới chương trình sau năm 2015, việc dạy học và kiểm tra, đánh giá
theo theo định hướng phát triển năng lực của người học là cần thiết.
Trong những năm qua, toàn thể giáo viên cả nước đang nỗ lực thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá chất lượng dạy học. Tuy nhiên, từ
thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp tại trường, chúng tôi
thấy rằng: sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích

cực, tự lực của học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức.
Việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa
khách quan, chính xác, chú trọng đánh giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá quá
trình. Do đó, học sinh tiếp thu một cách thụ động, ít phát huy được khả năng chủ
động, tư duy sáng tạo của người học.
Truyện ngắn của Nam Cao có vị trí quan trọng trong hệ thống các văn bản
được dạy học trong trường phổ thông bởi đây là sáng tác của một nhà văn lớn, đầy
tài năng. Tuy nhiên, việc giảng dạy các tác phẩm này chưa thực sự theo định hướng
phát triển năng lực học sinh. Để giúp việc dạy học các tác phẩm của Nam Cao nói
chung và truyện ngắn Chí Phèo nói riêng có hiệu quả hơn, cần xây dựng hệ thống
câu hỏi theo định hướng phát triển năng lực học sinh để giáo viên sử dụng trong
quá trình tổ chức hoạt động đọc hiểu văn bản này. Đọc - hiểu vững vàng tác phẩm
này theo định hướng năng lực giúp các em đã có một lượng kiến thức, kỹ năng
tương đối để phục vụ tốt cho kì thi THPT Quốc gia và cho cuộc sống sau này. Vì
những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Dạy học truyện ngắn “Chí Phèo” theo
định hướng phát triển năng lực học sinh” làm đối tượng nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra những nhóm năng lực cần hướng đến của môn
Ngữ văn. Từ đó, chúng tôi vận dụng những biện pháp đổi mới phương pháp dạy
học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học
để góp phần hình thành ở học sinh những năng lực cần thiết. Chúng tôi chỉ xin tập
trung làm rõ một số phương pháp, kỹ thuật dạy học của môn Ngữ văn theo định
hướng năng lực, cụ thể như:
– Các phương pháp đặc thù của bộ môn:
2


+ Dạy học đọc – hiểu.
+ Dạy học tích hợp
– Một số phương pháp dạy học tích cực:

+ Phương pháp thảo luận nhóm.
+ Phương pháp đóng vai
+ Phương pháp nghiên cứu tình huống
Từ những việc làm này, chúng tôi hi vọng sẽ tìm ra những cách tiếp cận, dạy học có hiệu quả theo theo định hướng phát triển năng lực của người học cho những
tác phẩm còn lại của bộ môn.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số phương pháp
dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người
học để vận dụng vào việc dạy - học truyện ngắn Chí Phèo trong chương trình Ngữ
văn 11 (chương trình chuẩn). Từ đó đưa ra những cách tiếp cận, giảng dạy tác phẩm
khác có hiệu quả hơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp những phương pháp sau: Phương
pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp lí luận chung, phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp thống kê và xử lí số liệu (thông qua bài kiểm tra).
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Khái niệm năng lực.
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng.1998) có giải thích:
Năng lực là: “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn
thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. [7]
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm
2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức
kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng
hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định” [7]. Như
vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn: năng lực là khả năng vận dụng tất cả những yếu
tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập) để giải quyết
các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống. Định hướng chương trình giáo dục

3


phổ thông sau năm 2015 đã xác định một số năng lực cần hướng đến của môn Ngữ
văn cụ thể là: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực sáng tạo; Năng lực hợp tác;
Năng lực tự quản bản thân; Năng lực giao tiếp tiếng Việt và Năng lực thưởng thức
văn học/cảm thụ thẩm mỹ.
2.1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực.
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực được bàn đến nhiều từ
những năm 90 thế kỷ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế.
Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người
học. Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy
học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng
năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con
người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống. Chương trình này nhấn
mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là
“sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học
chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học
tập của HS.
2.1.3. Các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn
* Dạy học đọc - hiểu:
Dạy học đọc - hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Dạy học đọc - hiểu không
nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản
được học, mà hướng đến việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám
phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho học
sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động có sắc thái cá nhân. Hoạt động
đọc - hiểu cần được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến câu hỏi khó, từ thấp đến

cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện
sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc - hiểu của học sinh cũng chính là
hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy.
Năng lực đọc - hiểu còn là sự tích hợp kiến thức kỹ năng của các phân môn cũng
như kinh nghiệm sống của học sinh.
Các nhiệm vụ cơ bản của người học khi đọc - hiểu: Tìm kiếm thông tin từ văn
bản; Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối…thông tin để tạo nên hiểu
4


biết chung về văn bản; Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản; Vận dụng
những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản khác nhau,
đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
* Dạy học tích hợp
Để đáp ứng với yêu cầu dạy học Ngữ văn theo hướng hình thành và phát triển
năng lực, cần chú ý đến việc tổ chức dạy học theo hướng tích hợp. Trong môn học
Ngữ văn, dạy học tích hợp là việc tổ chức các nội dung của các phân môn văn học,
tiếng Việt, làm văn trong các bài học, giúp HS từng bước nâng cao năng lực sử
dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các kiểu loại và
phương thức biểu đạt. Bởi tác phẩm văn học vẫn luôn được coi là nghệ thuật của
ngôn từ, việc tiếp nhận văn bản văn học trước hết là tiếp xúc với phương tiện biểu
đạt là ngôn ngữ; mặt khác, việc thực hành tạo lập các văn bản thông dụng trong nhà
trường và xã hội cũng sử dụng ngôn ngữ làm công cụ. Như vậy, cả ba nội dung văn
học, tiếng Việt và tập làm văn trong môn học này đều có điểm đồng quy là tiếng
Việt và đều có mục đích là hình thành cho HS năng lực sử dụng tiếng Việt trong
tiếp nhận và tạo lập văn bản.
2.1.4. Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ văn,
việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả : Thảo luận nhóm, Đóng vai, Nghiên

cứu tình huống,… và các kĩ thuật dạy học tích cực được thực hiện trong các hoạt
động dạy học.
* Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham
gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, HS được tham gia
trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Thảo
luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự
do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm
bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết
vấn đề khó khăn.
* Đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những
suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là phương pháp giảng
dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ
5


đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em
quan sát được từ vai của mình.
Ngoài những phương pháp kể trên, còn một số phương pháp và kỹ thuật dạy
học tích cực khác như: nghiên cứu tình huống, dạy học theo dự án; các kỹ thuật dạy
học tích cực như kĩ thuật chia nhóm, kỹ thuật phòng tranh… nhưng trong phạm vi
sáng kiến này chúng tôi không có điều kiện đề cập hết, chỉ xin đưa ra những thu
hoạch cá nhân về 4 phương pháp kể trên.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
Thực trạng giáo dục nước ta qua nghiên cứu cho thấy việc giảng dạy kiến thức
nói chung và kiến thức môn Ngữ văn nói riêng chỉ được tiến hành theo lối “thông
báo - tái hiện”. Giáo viên chủ yếu chú trọng vào việc hoàn thành bài giảng, phương
pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều, học sinh tiếp thu một cách thụ động, ít
phát huy được khả năng chủ động, tư duy sáng tạo của người học. Ngày nay, khi

mà ngành giáo dục đang từng bước thay đổi để tự hoàn thiện mình thì việc đổi mới
phương pháp dạy học là điều tất yếu. Môn văn trong trường phổ thông cũng nằm
trong quỹ đạo chung của việc đổi mới phương pháp giáo dục ấy. Bởi vì, mục đích
cao nhất của việc đổi mới là giúp học sinh có thể chủ động tự học dưới sự hướng
dẫn của giáo viên. Trong giờ học, học sinh phải thực sự hoạt động, phải tự đi tìm
chân lí khoa học và giải mã nghệ thuật. Dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực của người học là thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết 29
của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
Năm học 2017-2018, tôi được BGH nhà trường phân công giảng dạy môn
Ngữ văn 4 lớp gồm: 11A6, 11A8, 11A9 và 10A9, từ thực tế giảng dạy của bản thân
và dự giờ đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy: Việc dạy - học các tác phẩm văn học
nói chung, truyện ngắn Chí Phèo nói riêng chưa phát huy và khơi dậy tối đa các
năng lực của học sinh. Giờ dạy còn đơn điệu, tẻ nhạt khiến học sinh chưa hứng thú
dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa đảm bảo. Điều đó, thể hiện ở những tồn tại sau:
+ Dạy học đọc - hiểu 3 tiết văn bản Chí Phèo chủ yếu theo hướng truyền thụ một
chiều từ giáo viên, chưa hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp
cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Dạy học chú
trọng đến cung cấp nội dung tư tưởng mà ít chú trọng đến các phương tiện nghệ
thuật. Tóm lại, vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn là hình thành kỹ năng.
+ Dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, chưa giúp học sinh huy động kiến
thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực vào bài học để giải quyết nhiệm
6


vụ học tập. Giáo viên chủ yếu hướng người học tích hợp liên môn, chưa chú trọng
tích hợp các phân môn Tiếng việt, Làm văn. Vì vậy, tiết học chưa giúp học sinh
hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực chưa được phát triển.
Để nâng cao chất lượng giờ dạy, người giáo viên khi đứng trên bục giảng phải
lựa chọn cho mình phương pháp tối ưu nhất. Và với truyện ngắn Chí Phèo, người
dạy phải tìm ra phương pháp để các em dễ nắm bắt cốt truyện và ghi nhớ lâu. Vận

dụng những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá truyện
ngắn Chí Phèo theo định hướng phát triển năng lực tức là giúp người học tìm ra
cách làm mới về một vấn đề đã cũ. Chính điều này là điểm kích thích, mời gọi sự
háo hức cho người học và đem đến nhiều thuận lợi cho giáo viên khi dạy học.
2.3. Các biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Dạy học một tác phẩm là việc làm đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt các thao tác,
phương pháp dạy học sao cho học sinh cảm nhận thấy hết những vẻ đẹp về nội
dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật của nó. Dạy học theo theo định hướng phát triển
năng lực của người học lại cần ứng dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
để phát huy tối đa việc hình thành các năng lực cho học sinh. Tức là làm thế nào để
học sinh tự học, tự tìm hiểu để hình thành kỹ năng đọc hiểu tất cả các tác phẩm
ngoài chương trình; vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết các vấn đề
trong cuộc sống; đồng thời lại phải vận dụng kiến thức xã hội, kiến thức các môn
học khác để khám phá tác phẩm.
Để hướng tới mục đích đó, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực của bộ môn cũng như phương pháp chung cho tác phẩm Chí Phèo như sau:
2.3.1. Phương pháp dạy học đọc - hiểu:
– Công việc chuẩn bị: Học sinh đọc trước văn bản ở nhà, tóm tắt được văn bản; huy
động những hiểu biết đã có về tác giả, về hoàn cảnh lịch sử, xã hội của đất nước lúc
bấy giờ để sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ trên lớp.
– Hoạt động trên lớp, chúng tôi yêu cầu học sinh thực hiện các nhiệm vụ:
+ Tìm ý chính của văn bản, các chi tiết quan trọng (đại ý văn bản viết về cuộc đời
Chí Phèo từ khi sinh ra đến khi trưởng thành rồi bị đi tù oan, ra tù bị tha hóa, trở
thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, sau đó thức tỉnh và đâm chết Bá Kiến, tự sát).
+ Đưa ra hiểu biết chung về văn bản: Từ ngữ, hình ảnh, câu văn… trong văn bản
đều tập trung thể hiện rõ số phận, tính cách nhân vật, tấm lòng nhân đạo của nhà
văn. Kết nối các thông tin về cuộc đời, con người, tính cách, sự bóc lột nhân hình
lẫn nhân tính của Bá Kiến và chế độ nhà tù thực dân phong kiến để đi đến nhận
định tất yếu về con đường tha hóa của nhân vật. Sắp xếp được các ý cơ bản theo
7



trình tự: Hoàn cảnh xuất thân, bi kịch cuộc đời và số phận của Chí Phèo; sự gặp gỡ
của đôi lứa xứng đôi; cuộc gặp gỡ với Thị nở quá trình thức tỉnh của Chí. Nhận ra
được kết cấu vòng tròn trong mở đầu và kết thúc của tác phẩm: hình ảnh cái lò
gạch. Đưa ra được kết luận về văn bản: miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật, ngôn
ngữ nhân vật, quá trình lưu manh hóa...
+ Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản: sự cảm thông sâu sắc của nhà văn
với thân phận người nông dân thấp cổ bé họng; khẳng định sức mạnh của tình
người, niềm tin vào nhân tính và bản chất của con người; tác phẩm là một đóng góp
độc đáo cho văn học hiện thực, không chỉ miêu tả chân thực sự thống khổ của con
người, lên án các thế lực áp bức mà còn khẳng định niềm tin ở bản chất con người.
Phong cách nghệ thuật của Nam Cao thể hiện ở việc khái quát được cả một hiện
tượng trở thành quy luật thời bấy giờ đó là: Những người bần nông lương thiện bị
đè nén, áp bức, bóc lột đẩy dồn đến bước đường cùng trở nên tha hóa, biến chất,
lưu manh cùng với sự am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật.
+ Vận dụng những hiểu biết về văn bản để đọc - hiểu các văn bản cùng loại ngoài
chương trình, vận dụng bài học vào thực hiện các nhiệm vụ trong đời sống và học
tập, cụ thể như: Yêu cầu học sinh tìm đọc các văn bản cùng loại, cùng chủ đề ngoài
chương trình (Trẻ con không biết ăn thịt chó, Tư cách mõ) để củng cố kiến thức, kỹ
năng đọc - hiểu. Suy luận để bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống có thể giải
quyết bằng sự học hỏi từ nội dung của văn bản như: vấn đề chỉ có tình yêu thương
và hướng thiện mới giúp con người có được hạnh phúc. Vận dụng được hiểu biết
về văn bản để có biện pháp giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống
như: Suy nghĩ, cảm nhận về các nhân vật, giá trị nhân đạo và hiện thực của tác
phẩm, bàn về tình người trong cuộc sống…
Ở tác phẩm “Chí Phèo”, chúng tôi cũng lần lượt triển khai các nhiệm vụ sau
cho học sinh:
– Công việc chuẩn bị ở nhà: Học sinh đọc trước và tóm tắt được nội dung tác phẩm,
nghiên cứu trước về bối cảnh lịch sử xã hội trước 1945 qua môn Lịch sử và các

phương tiện thông tin, truyền thông.
– Hoạt động trên lớp:
+ Tìm kiếm thông tin: xác định được ý chính của văn bản - tình người, khát vọng
hoàn lương, xác định được các hình ảnh, chi tiết quan trọng tạo nên ý nghĩa tư
tưởng của tác phẩm như: tiếng chửi của Chí Phèo xuất hiện ở đầu tác phẩm, bát
cháo của Thị nở, âm thanh cuộc sống thường ngày tiếng (chim hót, tiếng người nói
8


chuyện, tiếng mái chèo khua nước...), cái lò gạch xuất hiện cuối tác phẩm… đều là
những chi tiết tập trung làm rõ số phận, bi kịch, khát vọng hoàn lương của Chí
đồng thời cũng hướng sự vận động của tác phẩm theo chiều hướng tích cực.
+ Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối… thông tin để tạo nên hiểu biết
chung về văn bản:
(-) Giải thích ý nghĩa, tác dụng của các từ ngữ, hình ảnh, câu văn, chi tiết… như
nhan đề "Chí Phèo" vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô
độc, vô nghĩa... Nhan đề "Chí Phèo" thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí
Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội thực dân phong kiến. Chí là người nông
dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào "bước đường cùng" trở thành kẻ lưu manh,
côn đồ, mất hết cả nhân hình lẫn nhân tính. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Những chi tiết về ngoại hình của Chí: “cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
người xăm trổ đầy mình, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm
trông gớm chết!…” [2] gợi ấn tượng về một hình dáng xấu xí ẩn chứa một nhân
cách méo mó. Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân
tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như
đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc. 
Những chi tiết về cử chỉ, hành động, ngoại hình và ngôn ngữ của Chí Phèo sau
khi ra tù trở về làng Vũ Đại cho thấy sự tha hóa trong nhân cách của hắn ta.   Chí
xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là
bằng tiếng chửi "hắn vừa đi vừa chửi". Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của

một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi
cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo
là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người.
Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.
Con người xấu đến "ma chê quỉ hờn", kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất
đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi
Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi.
Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên
ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Hắn đã nghe thấy âm thanh của cảnh vật xung quanh
bằng tất cả sự nhạy cảm của tâm hồn “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có
tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”...
[2]. Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
9


Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm
sống dậy ước mơ một thời trai trẻ: "có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày
thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua
dăm ba sào ruộng làm" [2]. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như
đã thấy "tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và
ốm đau". Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Và
rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí
phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần
người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng
khuâng. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho.
Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình
yêu ấy đã làm hắn thay đổi.
Hành động chăm sóc Chí Phèo của thị Nở là hành động mang tính nhân sinh
sâu sắc. Nó cũng là căn nguyên để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất con

người; đồng thời, thể hiện tư tưởng nghệ thuật sâu sắc và mới mẻ của Nam Cao.
Mối tình của Chí Phèo - thị Nở là mối tình bất diệt, một thứ tình yêu vô tư, không
vụ lợi, tính toán, một thứ tình yêu chân chính gắn chặt với tình thương và trách
nhiệm. Hành động chăm sóc và bát cháo hành của Thị đã làm Chí thức tỉnh, nhận ra
nhiều điều, cũng như chúng ta đã vỡ lẽ ra một điều: hóa ra những người xấu người
nhưng vẫn có thể đẹp nết, vẫn có một tâm hồn trong sáng và lương thiện.
(-) Chỉ ra mối quan hệ giữa các thông tin trong văn bản: Tất cả các thông tin trong
văn bản: từ tên nhân vật cho đến ngoại hình, nhân tính, hành động, ngôn ngữ (tiếng
chửi), sự thay đổi của Chí Phèo từ quá khứ đến hiện tại, cảnh Chí say rượu tìm đến
nhà Bá Kiến và đâm chết Bá... đều hướng tới một nội dung: Sự bóc lột tàn tệ của
bọn Thực dân, phong kiến đã đẩy người nông dân tới con đường lưu manh tha hóa
tội lỗi, không lối thoát.
(-) Phân tích được mô hình tổ chức của văn bản: Truyện được tổ chức theo hướng
dự báo tương lai đầy ám ảnh nhưng lại mang tính tất yếu của xã hội: truyện bắt đầu
bằng hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người lại qua và kết thúc cũng với
hình ảnh đó. Kết cấu vòng tròn thể hiện sự bế tắc không lối thoát về số phận của
người nông dân. Xã hội còn Bá Kiến thì còn đẻ ra nhiều Chí Phèo như thế nữa. Thế
nhưng, niềm tin tưởng ở Nam Cao về người nông dân vẫn không bao giờ mất đi.
(-) Đưa ra kết luận về văn bản: Sự cảm thông, trân trọng của nhà văn vào số phận,
vẻ đẹp bản chất của con người, khẳng định sự bất tử của tình người.
10


+ Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản:
(-) Đánh giá các thông tin, các cảm xúc, suy nghĩ của người viết: Nhà văn đã thể
hiện cái nhìn đầy thương xót về thân phận con người, trân trọng những phẩm chất,
vẻ đẹp tâm hồn của họ, niềm tin mãnh liệt vào người nông dân tuy bị đẩy đến bước
đường cùng họ vẫn không đánh mất hẳn bản chất tốt đẹp vốn có.
(-) Đánh giá khuynh hướng tư tưởng của người viết: Lòng thương yêu, tin tưởng
vào tình người; tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã cướp đi cả nhân hình lẫn nhân

tính của con người dưới đáy xã hội. Nam Cao lên tiếng cảnh báo đối với con người
sống trong mọi thời đại không được đầu hàng trước hoàn cảnh, số phận. Đồng thời,
nó cũng là một tiếng kêu gọi đòi hỏi mọi hoàn cảnh đừng làm cho con người bị tha
hóa. Và với kiệt tác như Chí Phèo thì tiếng kêu đó càng trở nên cấp thiết hơn.
(-) Khái quát hóa ở mức phê bình: Một truyện ngắn xuất sắc trong văn học hiện
thực. Khác với các tác phẩm cùng đề tài, Chí Phèo làm tỏa sáng tình người chứ
không phải chỉ diễn tả sự tha hóa của nhân cách.
(-) Làm rõ phong cách của người viết: Ngôn ngữ đời thường được sử dụng rất
thành thạo cứ như lấy thẳng từ cuộc sống mà không hề gia công chọn lọc. Nghệ
thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Xây dựng cốt truyện độc đáo.
+ Vận dụng:
(-) Tìm đọc các văn bản khác cùng đề tài: Tư cách mõ, Trẻ con không biết ăn thịt
chó, Lang rận, Mua nhà...[5].
(-) Giải quyết những vấn đề trong cuộc sống như: vai trò của tình người trong xã
hội, sức mạnh của tình yêu thương…
Từ những nội dung trên, chúng tôi xây dựng giáo án sau:
CHÍ PHÈO
(Nam Cao)
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức:
- Hiểu và phân tích được các nhận vật trong truyện. Qua đó hiểu được giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ của tác phẩm.
- Nắm vững giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển
hình trong hòan cảnh điển hình.
2. Kĩ năng:
- Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Rèn kỹ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
11



3. Thái độ:
- Có ý thức học tập và rèn luyện để biết cách phân tích, đánh giá một tác phẩm
của Nam Cao.
4. Định hướng năng lực:
- Năng lực sáng tạo:HS xác định và hiểu được ý đồ nghệ thuật của nhà văn NC
thông qua nội dung tác phẩm; định hướng được thái độ của mình trước hiện tượng
XH đương thời; đọc văn bản dưới sự hướng dẫn của GV và trở thành người đồng
sáng tạo với tác phẩm.
- Năng lực hợp tác: thể hiện qua thảo luận nhóm.
- Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ:HS nhận ra được những giá trị
thẩm mỹ được thể hiện trong tp: cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài…từ đó cảm nhận
được giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn.
II. Hoạt động dạy và học
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Bài mới:

Hoạt động của GV và HS

Yêu cầu cần đạt

12


Tiết 1
I. Tìm hiểu chung:
* Hoạt động 1
- Đầu tiên tác phẩm được đặt tên là Cái lò
HS đọc tiểu dẫn SGK.
gạch cũ → sự quẩn quanh bế tắc.

GV hướng dẫn tóm tắt nội dung - Lúc in nhà xuất bản tự ý đổi tên là Đôi
chính.
lứa xứng đôi. →nhấn mạnh mối tình Chí
Phèo- Thị Nở.
- Em hiểu tên của 3 nhan đề tác - Sau cách mạng tác phẩm được tái bản
phẩm như thế nào?
và được đổi tên một lần nữa Chí Phèo.→
nhấn mạnh nhân vật Chí Phèo.
II. Đọc- hiểu:
1. Làng Vũ Đại - hình ảnh thu nhỏ của
* Hoạt động 2.
xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách
GV gọi HS tóm tắt truyện. HS khác mạnh tháng Tám.
bổ sung. GV nhận xét chuẩn xác.
- Toàn bộ truyện Chí Phèo diễn ra ở làng
Hướng dẫn tìm hiểu nội dung của Vũ Đại. Đây chính là không gian nghệ
truyên .
thuật của truyện.
- Hình ảnh làng Vũ Đại được tác tác - Làng này dân “không quá hai nghìn
giả miêu tả như thế nào? Em có người, xa phủ, xa tỉnh” nằm trong thế
nhận xét như gì?
“quần ngư tranh thực”
- Nhân vật nào đại diện cho giai cấp - Có tôn ti trật tự nghiêm ngặt
thống trị? Nhân vật nào đại diện cho - Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà
giai cấp bị trị?
quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt.
- Đời sống của người nông dân vô cùng
khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối
thoát, bị tha hóa.
Trao đổi cặp (theo bàn ).

2. Nhân vật Bá Kiến
Đại diện cặp trả lời.GV chuẩn xác - Bốn đời làm tổng lí “ Uy thế nghiêng
kiến thức. Cho điểm.
trời”
- Đọc và tìm những chi tiết miêu tả - Giọng nói, cái cười mang tính điển hình
chân dung bá Kiến: Về ngoại hình, cao: tiếng quát “rất sang”, “cái cười Tào
tính cách bản chất…? ( Chú ý cái Tháo”
cười, giọng nói…)
- Thao túng mọi người bằng cách đối nhân
xử thế và thủ đoạn mềm nắn rắn buông.
- Khôn róc đời, biết dìm người ta xuống
13


Nét điển hình trong tính cách của Bá
là gì? Bá Kiến là con người như thế
nào?

Tiết 2
* Hoạt động 3.
Trao đổi thảo luận nhóm.
Đại diện nhóm trình bày.
GV chuẩn xác kiến thức.
- Cách vào truyện của Nam Cao có
gì độc đáo?
 Tiếng chửi: Là phản ứng của chí
đối với cuộc đời, bộc lộ tâm trạng
bất mãn cao độ khi bị làng xóm, xã
hội gạt bỏ.
Bộ lộ sự bất lực, bế tắc, cô đơn tột

độ của Chí giữa làng vũ Đại.
- Trước khi đi tù, Chí Phèo là người
như thế nào? Chi tiết nào thể hiện
điều đó?
Câu hỏi trao đổi thảo luận nhóm.
Nhóm 1:
- Vì sao Chí Phèo đi tù? Sau khi ra
tù Chí Phèo là người như thế nào?
- Em hãy phác hoạ chân dung nhân
vật Chí sau khi ở tù về?
- Em có nhận xét như thế nào về sự
thay đổi của Chí Phèo?

sông, nhưng rồi lại biết dắt người ta lên để
phải đền ơn. Biết đập bàn đòi lại 5 đồng
nhưng rồi cũng biết trả lại 5 hào vì thương
anh túng quá.
- Bá dựng lên quanh mình một thế lực
vững trãi để cai trị và bóc lột, giẫm lên vai
người khác một cách thật tinh vi.
- Bá có đủ thói xấu xa: Háo sắc, ghen
tuông, sợ vợ, hám quyền lực. Lão làm tha
hoá và làm tan nát bao nhiêu cuộc đời con
người lương thiện.
=> Bá Kiến tiêu biểu cho giai cấp thống
trị: có quyền lực, gian hùng, nham hiểm.
3. Hình tượng nhân vật Chí.
a. Trước khi ở tù.
- Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không
mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc

đất cắm dúi cũng không có, đi ở hết nhà
này đến nhà khác. Cày thuê cuốc mướn để
kiếm sống.
- Từng mơ ước: có một ngôi nhà nho nhỏ,
chồn cày thuê cuốc mướn…→ Chí Phèo
là một người lương thiện.
- Năm 20 tuổi: đi ở cho nhà cụ Bá Kiến.
Bị bà ba Bá Kiến gọi lên dấm lưng, bóp
chân…Chí cảm thấy nhục chứ yêu đương
gì→ biết phân biệt tình yêu chân chính và
thói dâm dục xấu xa. Là người có ý thức
về nhân phẩm.
=> Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc
sống yên bình như bao người khác.
b Sau khi ở tù.
- Nguyên nhân: vì Bá Kiến ghen với vợ
hắn.
14


- Ý nghĩa tố cáo từ cuộc đời của Chí
Phèo, tha hóa của Chí Phèo?

Nhóm 2.
Những gì diễn ra trong tâm hồn Chí
sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở?
- Hình ảnh bát cháo hành có ý nghĩa
như thế nào?
+ Đối với Chí Phèo?
+ Tình cảm của tác giả?

Gv giảng:
Lần đầu tiên được một người khác
cho. Lần đầu tiên Chí được hưởng
sự chăm sóc bởi bàn tay của một
người đàn bà. Ngoài 40 tuổi đầu mà

- Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở
thành lưu manh, có tính cách méo mó và
quái dị. Chí trở thành con quỉ dữ của làng
Vũ Đại.
- Hậu quả của những ngày ở tù:
+ Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ
“Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng
hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết
sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm..”
→ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.
+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên
trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá
phách và làm công cụ cho Bá Kiến.
→ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn
nhân tính. Bị biến chất từ một người
lương thiện thành con quỉ dữ. Chí điển
hình cho hình ảnh người nông dân lao
động bị đè nén đến cùng cực, và cũng là
một nhân chứng tố cáo chế độ thực dân
phong kiến đã cướp đi quyền làm người
của Chí.
c. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị
Nở:

- Tình yêu thương mộc mạc, chân thành
của Thị Nở- người đàn bà xấu như ma chê
quỷ hờn, lại dở hơi ấy đã đánh thức bản
chất lương thiện của Chí Phèo.
- Chí Phèo đã thức tỉnh.
+ Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm
thanh trong cuộc sống.
+ Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của
mình và sợ cô đơn, cô độc đối với Chí
Phèo “ cô độc còn đáng sợ hơn đói rét và
15


đây là lần đầu tiên Chí được ăn cháo
hành. Hương vị cháo hành hay
hương vị tình yêu thương mộc mạc
chân thành đã làm cho hắn cảm
động: Hai con mắt ươn ướt...
Thị Nở chính là thiên sứ dẫn
đường cho Chí đến với cuộc sống
con người, giúp Chí có sức mạnh
hoàn lương, đánh thức phần sâu kín
nhất tâm hồn Chí cái bản chất đẹp
đẽ của người nông dân lao động bị
che lấp, vùi dập bấy lâu nay mà
không tắt.
Tình yêu hé mở con đường thành
người. Chí hồi hộp hi vọng. Nhưng
bị chặt đứng. Bà cô Thị không cho
phép Thị lấy hắn. Chí rơi vào bi kịch

tâm hồn đau đớn bị cự tuyệt quyền
làm người, Chí tiếp tục bị xã hội vứt
bỏ.
Nhóm 3.
Nguyên nhân nào Chí bị cự tuyệt?
Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo
sau khi bị Thị Nở từ chối? Vì sao
Chí Phèo lại có hành động như vậy?
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá
Kiến và tự xác của Chí Phèo?
- Nhóm 4. Hãy nêu ý nghĩa 3 câu
nói của Chí phèo khi đứng trước Bá
Kiến?
- Tao muốn làm người lương thiện!
Tiếng kêu tuyệt vọng của người

ốm đau”.
+ Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện
và muốn làm hòa với mọi người.
- Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc
đáo, chân thật và giàu ý nghĩa:
+ Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng
Chí được ăn trong tình yêu thương và
hạnh phúc.
=> Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, Chí
đang đứng trước tình huống có lối thoát là
con đường trở về với cuộc sống của một
con người. Cái nhìn đầy chiều sâu nhân
đạo của nhà văn.
d. Bi kịch bị cự tuyệt:

- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không
cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã
hội .
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ
của Thị Nở
+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: ngẩn người,
nắm lấy tay Thị Nở, bị Thị Nở xô ngã, Chí
thấy hơi cháo hành, nhưng lại tuyệt vọng,
Chí uống rượu và khóc “rưng rứt”, xách
dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và
tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và
tự sát của Chí:
+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy
máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh
về quyền sống.
+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của
con người trong bi kịch đau đớn trên
ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.
16


cùng đường, đó cũng là lời cầu cứu
của con người bị cự tuyệt quyền làm
người.
- Ai cho tao lương thiện?Một sự thật
phũ phàng và vô cùng đớn đau của
một Con Người mà lại không được
làm người.

- Tao không thể là người lương thiện
nữa.Lời xác nhận sự thật.
- Nêu những nghệ thuật đặc sắc của
tác phẩm?

4. Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn
cảnh điển hình. Nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật sắc sảo.
- Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo.
- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do
nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic.
- Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến
hóa giàu kịch tính.
5. Ý nghĩa văn bản:
“ Chí Phèo” tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc
địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi nhân
hình lẫn nhân tính của người nông dan
lương thiện đồng thời nhà văn phát hiện
Qua bài học, em hãy rút ra ý nghĩa và khẳng định bản chất tốt đẹp của con
của tác phẩm?
người ngay cả khi học đã biến thành quỷ
Hoạt động 3:
dữ.
Gv hướng dẫn học sinh tổng kết.
III. Tổng kết
Đọc phần ghi nhớ SGK.
Ghi nhớ.:SGK
4. Củng cố: Nhấn mạnh nội dung chính của bài.
5. Dặn dò:

-Tìm đọc trọn vẹn tác phẩm “ Chí Phèo”
- Soạn bài mới theo phân phối chương trình.
2.3.2. Phương pháp dạy học tích hợp
Với phương pháp này chúng tôi dự kiến sẽ thực hiện việc tích hợp theo hai
hướng: tích hợp các phân môn trong môn Ngữ văn và tích hợp với các môn học
khác có liên quan để phục vụ công tác dạy học.
Do chương trình môn Ngữ văn đã được biên soạn theo tinh thần tích hợp các
phân môn, vì vậy giáo viên phải chú trọng giữa dạy văn với tiếng Việt và Làm văn.
Với bài học này, chúng tôi cũng sẽ thực hiện trên tinh thần đó. Sau đây là một số ví
dụ cụ thể.
Cho đoạn văn:
"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu
hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng
chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ
17


Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên
tiếng cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải
chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp!
Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại
đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi,
hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn
nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ
ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai
biết… " [2].
Với đoạn văn này, chúng ta có thể yêu cầu học sinh vận dụng các kiến thức về
tiếng Việt và làm văn để hiểu thêm về văn bản bằng các câu hỏi như: Đoạn văn trên
được viết theo phương thức nào là chính? Liệt kê những đối tượng Chí chửi và chỉ
rõ tính chất những tiếng chửi của Chí Phèo? Những tiếng chửi ấy cho thấy bi kịch

gì của Chí Phèo? Anh/chị có thể giải thích để trả lời giúp Chí Phèo câu hỏi: Ai đẻ ra
Chí Phèo? Từ văn bản, viết một đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về lối sống vô cảm trong
xã hội ngày nay? Cứ như vậy, chúng ta có thể có những câu hỏi về những nội dung
kiến thức khác tùy theo đoạn văn mà ta chọn làm ngữ liệu.
Chúng ta còn có thể tích hợp các nội dung bài học với các môn học khác,
những hiểu biết xã hội mà học sinh có thể đã biết như: kiến thức về lịch sử Việt
Nam những năm trước CMTT, chính sách cai trị của phát xít Nhật khiến cho đời
sống vật chất và tinh thần của người nông dân vô cùng cực khổ. Phần này nên giao
nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu trước. Đến lớp các em sẽ vận dụng cái “phông” văn
hóa này để tiếp nhận tác phẩm.
2.3.3. Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan
trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp,
có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ của nhiều người hay không.
Với truyện ngắn Chí Phèo, theo chúng tôi có thể thảo luận về các nhân vật.
Chẳng hạn, tìm hiểu về nhân vật Chí Phèo ta có thể tiến hành các bước: chia lớp
thành các nhóm, thảo luận về những vấn đề cơ bản liên quan đến nhân vật: Cuộc
đời Chí Phèo có thể chia làm mấy giai đoạn? Đó là: Chí từ khi sinh ra đến lúc bị
đẩy vào tù; Từ khi Chí Phèo ra tù tới khi gặp Thị Nở và diễn biến tâm lí; Từ khi bị
Thị Nở khước từ tới khi đâm chết Bá Kiến và tự sát. Hết thời gian quy định yêu cầu
các nhóm trình bày kết quả, giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét, kết nối các thông
18


tin rồi đi tới kết luận hợp lí. Với nhân vật Bá Kiến ta cũng có thể chia nhóm tương
tự hoặc thảo luận về giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm...

Các em học sinh lớp 11A8 đang thảo luận nhóm trong giờ Ngữ văn
2.3.4. Phương pháp đóng vai
Tổ chức cho học sinh nhập một vai giả định để trình bày những suy nghĩ và

cảm nhận của mình, giúp các em suy nghĩ sâu sắc hơn.
Với kiệt tác Chí Phèo, ta có thể giao một số nhiệm vụ cho học sinh như: nhập
vai Chí diễn tả cảnh hắn say rượu vừa đi vừa chửi ở đoạn đầu tác phẩm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Do truyện ngắn Chí Phèo trong chương trình lớp 11 được bố trí học trong học
kì I, nên chúng tôi tiến hành khảo sát việc đọc hiểu tác phẩm của các em ở cuối kì I.
Đầu học kì là kiểm tra việc đọc hiểu văn bản khi chưa áp dụng các phương pháp
nghiên cứu. Cuối học kì, tức là sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên chúng tôi
kiểm tra việc đọc - hiểu của học sinh thông qua bài kiểm tra 15 phút. Việc khảo sát
và dạy thực nghiệm được tiến hành với học sinh của 3 lớp 11 trong trường gồm:
11A6, 11A8, 11A9. Kết quả cụ thể như sau:

Lớp

Tổng
số

Đầu kì
Giỏi

Khá

Trung
bình

Cuối kì
Yếu

Kém


Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

Kém

19


11A6

44

17

17

10

0

0

25


17

2

0

0

11A8 40
10 14
15
1
0
17
18
5
0
0
11A9 37
6
11
18
2
0
12
17
8
0
0
3. Kết luận và kiến nghị

3.1. Kết luận
Trong Sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã bàn tới thực trạng và nội dung
cần thiết trong việc dạy học theo theo định hướng phát triển năng lực của người học
đối với truyện ngắn Chí Phèo trong chương trình Ngữ văn 11 tại trường THPT.
Vấn đề dạy học các tác phẩm truyện lớp 11 nói chung và truyện ngắn Chí
Phèo nói riêng cần phải thay đổi theo định hướng phát triển năng lực của người
học. Có như vậy, việc dạy học văn mới thực sự theo hướng đổi mới phương pháp
của ngành.
Dạy học truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (chương trình chuẩn) theo định
hướng phát triển năng lực của người học cần tập trung vào những nội dung: dạy
đọc - hiểu; dạy học tích hợp và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực khác
như: thảo luận nhóm, đóng vai… Qua việc áp dụng những nội dung của sáng kiến
kinh nghiệm này, chúng tôi thấy học sinh đã bước đầu có được những năng lực cần
thiết mà môn học hướng tới như: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực giao tiếp
tiếng Việt; Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ; Năng lực hợp tác;
Năng lực sáng tạo.
Dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của
người học là yêu cầu tất yếu của đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.
Đây là vấn đề chúng tôi tiếp tục được nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả hơn trong
những năm học tiếp theo.
Qua đề tài này, tôi mong muốn góp một tiếng nói nhỏ từ những trăn trở, suy tư
của mình vào việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn để từ đó tìm ra một hướng đi mới cho việc dạy học các bộ môn trong trường THPT. Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân
được rút ra từ quá trình giảng dạy ở trường THPT Lê Lợi, trong thực tế còn có rất
nhiều kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Rất mong sự đóng góp của các quý thầy cô!
3.2. Kiến nghị

20



– Với Sở Giáo dục và Đào tạo, cần tổ chức nhiều hơn nữa lớp tập huấn về đổi mới
phương pháp dạy học nhất là việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định
hướng phát triển năng lực của người học.
– Với BGH nhà trường, tạo điều kiện cho tổ chuyên môn tổ chức những Hội thảo
về việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực
người học.
– Với tổ chuyên môn, tham mưu cho lãnh đạo nhà trường để trang bị những tài liệu
liên quan đến nội dung trên.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ:

LỜI CAM ĐOAN:
Tôi xin cam đoan đây là skkn của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Thọ Xuân, ngày 20/05/2018
Người cam đoan:

Nguyễn Thị Linh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
21


[1]. Hà Minh Đức (1988), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[2]. Phan Trọng Luận (2008), Sách giáo khoa ngữ văn 11 tập 1 (cơ bản), Nxb Giáo
dục.
[3]. Phan Trọng Luận (2008), Sách giáo viên ngữ văn 11, Nxb Giáo dục.
[4]. Phan Trọng Luận (2008), Thiết kế bài học Ngữ văn 11, Nxb Giáo dục.
[5]. Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học.

[6]. Nguyễn Kim Phong (2008), Kĩ năng đọc – hiểu văn bản 11, Nxb Giáo dục.
[7]. Sử dụng nhiều nguồn tư liệu trên mạng Internet.
[Nguồn />
DANH MỤC
22


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Linh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THPT Lê Lợi

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại


(A, B, hoặc C)

1.

Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy và học môn
Ngữ văn ở trường THPT
Mường Lát

Ngành GD cấp
Tỉnh

C

2014

2.

Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học các tác
phẩm Văn học thời kì kháng
chiến chống Mĩ trong chương
trình Ngữ văn 12.

Ngành GD cấp
Tỉnh

C


2017

23



×