SỞ GD & ĐT THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂN NGUYÊN
SỞ GD&ĐT THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂNSÁNG
NGUYÊN
KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI DẠY ĐOẠN TRÍCH “TRAO
DUYÊN” (TRÍCH TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU) THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Người thực hiện: Nguyễn Thị Đức
Tổ công tác: Tổ Ngữ văn
Năm học: 2016 - 2017
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn
THANH HÓA, THÁNG 5/2017
MỤC LỤC
Nội dung
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
2.3.1 Xây dựng hệ thống câu hỏi
2.3.1.1 Dạng câu hỏi phát hiện
2.3.1.2 Câu hỏi tưởng tượng
2.3.1.3 Câu hỏi nêu vấn đề
2.3.1.4 Câu hỏi cảm xúc
2.3.1.5 Câu hỏi quan điểm
2.3.2 Vận dụng hệ thống câu hỏi kết hợp với công nghệ thông tin
2.3.2.1 Xác định mục tiêu, chuẩn bị tư liệu
2.3.2.2 Soạn thảo giáo án điện tử
2.3.2.3 Giáo án soạn thảo trên Word
2.3.3 Xây dựng bài dạy
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1 Kết quả vận dụng của bản thân
2.4.2 Hiệu quả đối với đồng nghiệp
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Trang
2
2
3
3
3
4
4
5
6
6
6
7
7
8
8
9
9
9
10
10
15
16
17
17
17
2
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đã nhiều năm trở lại đây, việc dạy và học văn trong nhà trường đang ở tình
trạng báo động. Hiện tượng học sinh trong các trường phổ thơng khơng thích học
mơn ngữ văn ngày càng nhiều. Nhưng môn văn lại là môn học quan trọng có số giờ
học cao nhất ở trường Phổ thơng. Ngồi tính chất là mơn học cơng cụ góp phần
hình thành những kĩ năng cơ bản, thiết yếu cho học sinh. Nó cịn là mơn học cịn
có những đặc thù riêng biệt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho lứa tuổi học sinh. Nó trang bị cho học sinh cơng cụ để
giao tiếp, học tập, sinh hoạt và nhận thức về xã hội. Hơn nữa, việc dạy văn ở
trường phổ thông cịn giúp cho học sinh có được những tình cảm, những
tư
tưởng tốt đẹp: biết yêu quý các giá trị chân-thiện-mĩ, căm ghét cái độc ác, cái
xấu xa, giả dối, biết u thương, q trọng gia đình, bè bạn, có tình u thiên
nhiên, có lịng u nước, tinh thần tơn trọng và phát huy các giá trị văn hoá của
dân tộc và nhân loại, có lịng ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho quê
hương, đất nước và cho nhân loại.
Học văn là học làm người bởi “Văn học là nhân học”. Nhưng hiện nay học
sinh đang dần rời xa môn học nhiều ý nghĩa này. Thực tế trên khiến bản thân tôi –
một giáo viên dạy văn, thường xuyên trăn trở suy tư là làm sao để có được những
giờ học vừa truyền tải được nhiều kiến thức cho học sinh, vừa giúp học sinh
ngày càng yêu quý môn văn và hứng thú hơn nữa trong việc học tập và say mê
nghiên cứu để không ngừng mở mang trí tuệ, kiến thức cho bản thân. Từ vấn đề
đó, tôi nhận thầy rằng cần phải đổi mới phương pháp dạy học Văn theo hướng tích
hợp bằng cơng nghệ thơng tin.
Tuy nhiên, ở tất cả các bộ mơn học nói chung và mơn ngữ Văn nói riêng, cấu
trúc của một bài học kiểu mới không phải là thứ sân khấu độc thoại của thầy mà là
sân khấu đối thoại của thầy và trị. Ở đó người dạy tạo ra những hoạt động cụ thể và
người học đáp lại bằng những việc làm c ủa trí tuệ, cảm xúc. Phương thức hoạt
3
động hơ ứng này tất nhiên phải tìm đến một biện pháp dạy học tương ứng đó là dạy
học bằng việc thiết kế hệ thống câu hỏi đa dạng phức hợp. Vấn đề đặt ra là phải
soạn thảo một hệ thống câu hỏi như thế nào? Để bài học thực sự hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này của tôi là:
- Phân loại và xây dựng hệ thống câu hỏi trong đoạn trích trao duyên
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Cụ thể hóa bằng những câu hỏi khơi gợi khả năng phát huy tính tích cực
của học sinh.
- Phù hợp cho việc sử dụng công nghệ thơng tin vào dạy đoạn trích này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là hệ thống câu hỏi và cách thức sử
dụng công nghệ thông tin trong việc dạy đọc - hiểu đoạn trích “Trao duyên”
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) theo định hướng phát triển năng lực học sinh
ở trường THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi sử dụng chủ yếu các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
Ngồi ra, chúng tơi còn vận dụng kết hợp một số phương pháp khác.
4
II.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
- Trong chương trình sách giáo khoa mới, ở môn ngữ Văn: phần Đọc hiểu
văn bản là phần quan trọng nhất không chỉ quyết định đến việc đánh giá kết quả
học tập bộ mơn mà cịn góp phần khơng nhỏ vào việc giáo dục nhân cách cho học
sinh. Từ đó ta có thể rút ra kết luận về vai trò, tác dụng của hệ thống câu hỏi
trong dạy đọc hiểu văn bản như sau:
- Câu hỏi có vai trị đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến sự thành cơng của
các tiết học. Nó làm thức tỉnh trí tị mị của học sinh, kích thích việc tư duy ở
người học, thúc đẩy các em tìm kiếm tri thức mới. Nhờ đó học sinh được đặt vào
vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của người học mới được xác lập.
- Qua suy nghĩ, trả lời hệ thống câu hỏi, học sinh không chỉ hiểu kỹ, hiểu
sâu tri thức mà còn được rèn luyện, phát triển tư duy, cảm xúc ; được hình thành
phương pháp cách thức phát hiện tri thức; được hưởng niềm hạnh phúc của lao
động trí tuệ. Đây là mục tiêu quan trọng của việc giáo dục – đào tạo hiện nay.
- Việc sử dụng hệ thống câu hỏi còn đẩy mạnh sự tương tác giữa giáo viên
và học sinh, giữa người học với người học đem lại khơng khí đối thoại dân chủ
trong giờ học. Qua đó tập cho các em thói quen hợp tác, chung sống với tập thể,
cộng đồng.
- Tạo cơ hội cho người học được trình bày những ý tưởng của mình đồng
thời có cơ hội lắng nghe ý kiến của bạn bè để từ đó có cơ hội so sánh, đối chiếu,
đánh giá và học hỏi lẫn nhau; nâng cao năng lực diễn đạt, năng lực giao tiếp cho
người học.
- Về phía giáo viên việc sử dụng hệ thống câu hỏi để tổ chức dạy học giúp
giáo viên có những thơng tin phản hồi, từ đó rút kinh nghiệm cho việc giảng dạy
của mình.Tuy nhiên, trong các tiết dạy giáo viên cần chú ý đên mối quan hệ của
hệ thống câu hỏi theo ba hướng cơ bản sau: Đọc – hiểu; suy nghĩ – vận dụng; liên
tưởng – tích lũy của các phương pháp dạy học hiện đại.
5
Về mặt lí luận, người giáo viên phải nắm vững được bản chất của hệ thống
câu hỏi và sự cần thiết phải xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức đặc
biệt là cách thức hỏi để tiết dạy thêm hấp dẫn, gây được hứng thú học tập cho
học sinh và thực hiện tốt mục tiêu bài học.
* Một số khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt : Hỏi là nói ra điều mình muốn người ta cho mình
biết với u cầu được trả lời; Nói ra điều mình đòi hỏi hoặc mong muốn ở người
ta với yêu cầu được đáp ứng. Như vậy câu hỏi có đặc điểm: Hướng vào đối tượng
tiếp nhận; Đặt ra yêu cầu hoặc nhiệm vụ; Đòi hỏi sự đáp ứng hoặc trả lời. Các
nhà giáo người Pháp lại quan niệm: Hệ thống câu hỏi không đơn thuần là một
loại câu hỏi được hỏi nhiều lần mà hệ thống câu hỏi gồm nhiều loại câu hỏi được
thiết kế theo một mạch lơ gíc được nêu ra đúng lúc, câu nọ khởi nguồn cho câu
kia và được đan xen một cách nhịp nhàng. Trên cơ sở đó, mỗi giáo viên cần nhận
thức được rằng hệ thống câu hỏi là một phương tiện đắc lực góp phần tạo cho
việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học bộ môn một cách tốt nhất.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
- Phân tích tác phẩm văn chương là một nội dung quan trọng trong
chương trình THPT. Tuy nhiên có một thực tại khá phổ biến hiện nay ở các
trường phổ thơng là học sinh thường phân tích một cách sơ lược, chung chung.
Các tác phẩm văn chương thường được giải nghĩa lại theo cách của mình thậm
chí là diễn nơm thơ văn. Việc phân tích nghệ thuật chỉ được chú ý một cách
chiếu lệ. Trong khi đó giá trị của một tác phẩm tập trung nhiều ở phương diện
này. Hệ thống câu hỏi khơi gợi nghệ thuật cịn ít.
- Học sinh nhàm chán và rất ngại học môn ngữ văn bởi giờ học tẻ nhạt
khơ khan, khơng kích thích được sự tìm tịi khám phá.
- Học sinh khơng say mê với những giờ học dẫn đến môn văn dần dần mất
đi vai trị độc tơn của nó. Vì thế để cho giờ văn không bị rơi vào tẻ nhạt nhàm
chán thì chúng ta cần thay đổi hệ thống câu hỏi và cách thức thực hiện khi lên
6
lớp. Cụ thể nên đặt câu hỏi một cách đa dạng để khơi gợi khám phá của học
sinh. Sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
2.3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
Như chúng ta đã biết việc thiết kế một hệ thống câu hỏi khoa học phù hợp
với nội dung giờ dạy đọc hiểu văn bản và vừa sức với trình độ học sinh là điều rất
quan trọng và cần thiết đòi hỏi người giáo viên phải đặc biệt quan tâm đến những
vấn đề cơ bản sau:
- Phải hiểu rõ bản chất của từng loại câu hỏi ( về mục đích, nội dung, dạng
thức và các hình thức hỏi).
- Phải nắm chắc được mục tiêu cơ bản của từng tiết học (về kiến thức trọng
tâm, kỹ năng, thái độ) thể hiện qua từng phần, mục của bài học và yêu cầu tích
hợp kiến thức giữa các phân môn: Đọc văn; Tiếng Việt; Làm văn.
- Phải có cảm nhận sâu sắc về tác phẩm văn chương sẽ dạy (đọc trước văn
bản nhiều lần; thu thập các tài liệu về văn bản; đặt văn bản vào bối cảnh, thời
điểm mà tác giả sáng tác văn bản; đối chiếu so sánh, liên hệ với các văn bản khác
trên cùng bình diện. Từ đó đề xuất cách tiếp cận hợp lý nhất.)
- Tiếp đó cần nắm chắc trình độ học sinh để xây dựng hệ thống câu hỏi cho
phù hợp.
- Trong khi thiết kế hệ thống câu hỏi cho các tiết dạy đọc hiểu văn bản cần
chú ý đến các dạng câu hỏi theo nhóm 2 (như đã trình bày ở trên).
2.3.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi
2.3.1.1. Dạng câu hỏi phát hiện
Là loại câu hỏi yêu cầu học sinh phải nhận diện được các chi tiết, hình ảnh,
từ ngữ, biện pháp tu từ,… có trong một câu thơ, đoạn thơ hay trong câu văn đoạn
văn bản nào đó mà giáo viên yêu cầu. Cũng có thể là phát hiện các phương thức
biểu đạt trong câu thơ, đoạn văn đó.
Cách thức cấu tạo loại câu hỏi này có dạng như: - Em hãy tìm trong đoạn
(câu) hay văn bản những chi tiết hình ảnh thể hiện… hoặc Hãy phát hiện những
7
tín hiệu nghệ thuật trong câu thơ đoạn thơ (văn) ? Ví dụ khi hướng dẫn học sinh
tìm hiểu phần đầu trong đoạn trích (Trao duyên – “Truyện Kiều” – Nguyễn Du).
Ta có thể đạt câu hỏi: Đoạn thơ trên là lời của ai nói với ai? Trong tâm trạng như
thế nào ? Những chi tiết nào thể hiện dáng vẻ bề ngoài của Kiều? Biện pháp nghệ
thuật nào được sử dụng trong đoạn thơ trên? Những hình ảnh nào diễn tả tâm
trạng bên trong của Kiều? Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong đoạn
thơ trên?
2.3.1.2. Câu hỏi tưởng tượng
Là loại câu hỏi từ những dữ kiện vốn có hoặc lấy sự tương đồng để học
sinh hình thành ra cái mới. Loại câu hỏi này chia làm 2 loại nhỏ: Tưởng tượng tái
tạo (là tả lại bằng cảm nhận của học sinh); Tưởng tượng sáng tạo (tả lại theo lối
hình dung riêng). Kiểu câu hỏi này thường biểu hiện như sau: Qua các chi tiết,
hình ảnh hoặc cử chỉ hãy hình dung ra hồn cảnh đó như thế nào? Ví dụ khi dạy
đoạn trích (Trao duyên – “Truyện Kiều” Nguyễn Du) GV có thể hỏi: Qua các chi
tiết, hình ảnh, từ ngữ trong đoạn trích em hãy tưởng tượng ra khung cảnh Thúy
Kiều trao duyên cho Thúy Vân là gì? Hoặc: Em hãy hình dung và tả lại cảm nhận
của mình về tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên cho Thúy Vân? Vì sao
sau khi trao duyên cho em Thúy Kiều lại nghĩ đến chàng Kim?
2.3.1.3. Câu hỏi nêu vấn đề
Là loại câu hỏi mà qua đó học sinh được tham gia tích cực vào q trình
giải quyết vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm. Loại câu hỏi này có dạng: Theo em,
nếu sự việc, hiện tượng ấy xảy ra (…) hoặc không xảy ra (…) Thì chuyện gì sẽ
đến? Hoặc; Theo em tại sao lại thế này mà khơng phải thế khác?
Ví dụ khi dạy đoạn trích (Trao duy ên – “Truyện Kiều” Nguyễn Du) Gv có
thể hỏi: Em hãy thử thay thế các từ “cậy” bằng “nhờ” thay từ “chịu” bằng từ
“nhận” thì hiệu quả của lời nói có đạt nh ư ban đầu khơng? Vì sao? Hoặc: Vì sao
khi miêu tả tâm trạng của Kiều khi trao duyên, trao kỉ vật lại tưởng tượng ra cảnh
mình “thác oan”? Việc tưởng tượng như vậy góp phần khắc họa tâm trạng gì của
8
Thúy Kiều?,…
2.3.1.4 Câu hỏi cảm xúc
Là loại câu hỏi xuất phát từ trực cảm của học sinh có tác dụng khơi gợi
những rung động của các em về một hiện tượng nào đó trong tác phẩm . Điều đó
có thể là rung động thẩm mỹ, hoặc rung động xúc cảm tình cảm của người tiếp
nhận tác phẩm. Dạng thức phổ biến của loại câu hỏi này là: Chi tiết, hình ảnh…
gợi cho em cảm xúc, suy nghĩ gì? Khi dạy đoạn trích (“Chí khí anh hùng” –
“Truyện Kiều” – Nguyễn Du) để gợi cảm xúc cho học sinh, Gv có thể hỏi: Từ
Hải đã nói gì trước ý định xin đi theo của Thúy Kiều? Điều đó đã gợi cho suy
nghĩ gì? Hoặc khi dạy những câu cuối đoạn trích (Trao duyên – “Truyện Kiều”
Nguyễn Du) Gv có thể hỏi: Câu thơ “Ơi Kim Lang, Hỡi Kim lang. Thơi thơi
thiếp đã phụ chàng từ đây” đã gợi cho em cảm xúc, suy nghĩ gì?
2.3.1.5 Câu hỏi quan điểm
Là loại câu hỏi có tính chất bình giá của cá nhân để khẳng định rõ nhận
thức của học sinh, vì thế nó giúp học sinh tự đánh giá hoặc đề xuất cách đánh giá,
lý giải vấn đề theo cách riêng . Đó là cơ hội kích thích sự sáng tạo của học sinh.
Loại câu hỏi này thường có dạng: Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào? Vì
sao em lại cho rằng nên như thế? Ví dụ: Thúy Kiều nói “dun này thì giữ vật
này của chung” em suy nghĩ vấn đề này như thế nào? Hoặc: Câu “Mất người cịn
chút của tin” gợi cho em suy nghĩ gì?
Ngồi việc nắm vững mục đích, dạng thức của từng loại câu hỏi, Gv cũng
cần phải biết linh hoạt khi sử dụng các hình thức hỏi. Nếu gặp vấn đề quá khó với
nhận thức chung của học sinh, hoặc học sinh hiểu nhưng khó diễn đạt. Gv có thể
sử dụng phối kết hợp với các hình thức hỏi khác như các câu trác nghiệm khách
quan, câu hỏi gợi mở,…Điều đó sẽ giúp học sinh hứng thú hơn với nội dung bài
học. Đồng thời khi thiết kế hệ thống câu hỏi với sự hỗ trợ đắc lực của cơng nghệ
thơng tin, thì việc thực hiện đa dạng hình thức hỏi sẽ rất dễ dàng. Mặt khác thơng
qua các tiện ích của cơng nghệ thơng tin, học sinh có thể tương tác trực tiếp với
9
kiến thức mình đã học và việc học sinh tự đánh giá hoặc đưa ra quan điểm riêng
cũng không phải là điều khó thực hiện. Tuy nhiên vẫn phải tính đến vai trị định
hướng và khả năng kiểm sốt của Gv để vừa đảm bảo phát huy tính tích cực của
học sinh, vừa góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn.
2.3.2. Vận dụng hệ thống câu hỏi hết hợp với công nghệ thông tin
2.3.2.1 Xác định mục tiêu, chuẩn bị tư liệu
Trước khi, soạn giảng bài học này, cũng như đối với tất cả các bài học khác
trong chương trình. Tơi ln ln đọc kỹ sách giáo khoa, sách giáo viên, hướng
dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ Văn lớp 10, cùng với tất cả các tài
liệu tham khảo có liên quan để nắm vững kiến thức, xác định chính xác mục tiêu
của bài học. Trong bài giảng này chúng tơi cịn đưa thêm một số tư liệu bên
ngồi, cùng với các ngữ liệu sẵn có trong sách giáo khoa góp phần giúp học sinh
củng cố và khắc sâu kiến thức. Bài giảng về Truyện Kiều và các đoạn trích được
soạn thảo trên phần mềm Power Point, tôi đã khai thác kiến thức từ kho tư liệu
khổng lồ trên mạng Internet, sử dụng bằng máy chiếu thơng thường và máy chiếu
hắt, để trình chiếu những nội dung quan trọng của bài học và nội dung phần thảo
luận của các nhóm học sinh.
2.3.2.2. Soạn thảo giáo án điện tử
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các tư liệu cần thiết, tôi phác thảo một giáo án
theo cấu trúc của giáo án dạy học tích cực nhằm dự kiến cách thức tổ chức giờ
học trước khi triển khai với giáo án điện tử. Tôi soạn trước phần tiết
dạy trên
Microsoft Word. Rồi từ giáo án đó tơi lại tiến hành chuyển sang soạn và trình
chiếu trên phần mềm Power Point. Ở các bài Truyện Kiều và các đoạn trích
chúng tơi khai thác tối đa hiệu quả trình chiếu của máy móc và các trang thiết bị
hiện đại khác, vừa hạn chế tối đa việc ghi bảng. lại vừa tăng thời gian thảo luận
nội dung bài học. Những kiến thức chi tiết trong bài học cần trình chiếu lên máy
cho học sinh quan sát và ghi chép đã được tính tốn chắt lọc đến mức cao nhất.
Tuy nhiên, không phải chữ nào có ở trên màn chiếu học sinh cũng phải ghi chép.
10
Bởi vậy, trong quá trình soạn ở nhà và dạy trên lớp, tơi ln lưu ý để học sinh có
thể nắm bài học một cách tốt nhất. Những phần quan trọng nh ư cách phân tích
các ý thơ, tác dụng của các biện pháp tu từ cũng như tâm sự của tác giả thể hiện
qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của từng nhân vật trong các đoạn trích,… Tất
cả đều được sắp xếp với các hình ảnh minh họa, kết hợp với cách phối màu nền,
màu chữ, cỡ chữ to hơn, đậm hơn để khi trình chiếu dừng lại lâu hơn cho học sinh
ghi bài ; Tiếp đến dùng máy chiếu hắt trình chiếu nội dung thảo luận của các
nhóm. Rồi từ các vấn đề học sinh đã thảo luận, tôi đã dẫn dắt để học sinh tự rút ra
kết luận. Hơn nữa, trong bài giảng điện tử hệ thống các đề mục đều được sắp xếp
một cách khoa học, hợp lý, rất thuận lợi cho việc học bài. Cuối mỗi tiết dạy có
kèm phiếu học tập vừa đề củng cố vừa kiểm tra việc nắm bài của học sinh.
Từ kết quả đã dạy, cộng với kinh nghiệm gần hai chục năm giảng dạy của
bản thân, tôi đem so sánh đối chiếu giữa những lớp dạy thực nghiệm với những
lớp thông thường để đúc rút kinh nghi ệm. Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ
thông tin, trong tiết dạy tơi thường đa dạng hóa các hình thức và phương pháp
dạy học tích cực như: làm việc theo nhóm, nêu vấn đề, phương pháp đàm
thoại, thuyết trình, hướng dẫn học sinh tự học, tổ chức trò chơi, kể chuyện,...
nhằm khai thác tối đa năng lực tự học và tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh.
2.3.2.3. Giáo án soạn thảo trên Word (Đính kèm giáo án ở phần phụ lục)
2.3.3. Xây dựng bài dạy
a. Bố cục bài dạy:
Từ thực tế và kinh nghiệm bản thân, trên cơ sở đã giảng dạy ở cả ba trường
THPT. Tôi mạnh dạn đưa ra bố cục cho các bài học đọc hiểu văn bản: Truyện
Kiều và các đoạn trích trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, gồm ba phần (tương
ứng với ba bước) chính sau đây:
Bước 1. Đọc hiểu phần tiểu dẫn:
11
Hướng dẫn học sinh đọc và hiểu phần tiểu dẫn trong đoạn trích trao dun.
Để giúp các em có cái nhìn tổng thể giáo viên có thể đặt ra những câu hỏi thuộc
các dạng phát hiện, nêu vấn đề, nêu quan điểm, nhưng nhờ vào công nghệ thông
tin giáo viên có thể đưa ra những slide rồi kết hợp với những hệ thống câu hỏi để
tránh sự nhàm chán cho học sinh.
Bước 2. Hướng dẫn kĩ năng phân tích phần đọc hiểu văn bản:
Khi dạy phần đọc hiểu văn bản yêu cầu quan trọng nhất là giúp học sinh
tiếp cận văn bản một cách tự nhiên nhất, đây là yêu cầu tối quan trọng mỗi khi
tiến hành tiết dạy đọc hiểu văn bản. Muốn vậy Gv ngoài việc chủ động tạo ra
khơng khí phù hợp với nội dung bài học thì cịn cần phải xây dựng hệ thống câu
hỏi vừa sức, sáng tạo, gay cấn để khơi gợi sự tò mị của học sinh. Ví dụ khi dạy
đoạn Trao dun” Gv có thể dẫn dắt: Câu chuyện tình dun – chồng vợ là một
câu chuyện vơ cùng kín đáo và tế nhị bởi duyên ai người ấy hưởng, tình ai người
ấy nhận! Vậy mà trong Truyện Kiều của Nguyễn Du lại có chuyện dun tình
của chị lại được trao gửi cho em. Vậy câu chuyện trao duyên ấy có đặc sắc như
truyện Chí Phèo - Thị Nở của Nam Cao ly kì hấp dẫn lãng mạn như chuyện tình
của Romeo và Juliet không? Để làm rõ vấn đề chúng ta cùng đi vào tìm hiểu đoạn
trích “Trao dun”. Hoặc khi thảo luận nhóm trong lúc dạy mục II Tâm trạng của
Kiều sau khi trao duyên: Gv chia lớp làm 4 nhóm tập trung thảo luận 2 vấn đề
lớn (tâm trạng, ngôn ngữ cử chỉ hành động của Kiều đối với chính Kiều và của
Kiều đối với Kim Trọng khi đang ngồi trước mặt Thúy Vân. Đây quả là một vấn
đề khó đối với phần đơng hs lớp 10, đặc biệt là đối với đối tượng hs dân tộc thiểu
số thì lại càng nan giải hơn. Bởi vậy khi thiết kế hệ thống câu hỏi cho bài giảng
này tôi đã chủ động vận dụng linh hoạt hệ thống 5 dạng câu hỏi nêu trên. Đồng
thời khi thể hiện trên giáo án Power Point thể hiện ở Slides 19, 20 và 21.Tôi đã
cụ thể hóa các dạng câu hỏi cho bốn nhóm học sinh thảo luận trong 3 phút và ghi
kết quả ra giấy bóng kính để trình chiếu bằng máy chiếu hắt; Như: Trao dun
xong Kiều có dự cảm gì về thân phận? Hãy tìm những từ ngữ cho thấy Kiều đã
12
nghĩ đến cái chết? Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa gì? Hoặc:
Kiều đối thoại với những ai? Nàng đã nói gì? Với chàng Kim, độc thoại gì với
bản thân? Thời gian tâm trạng có sự thay đổi như thế nào?
Bước 3. Luyện tập:
Phần lớn các tiết dạy đọc hiểu văn bản Gv có thể chia nhóm cho học sinh
thực hiện, sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét và chỉnh sửa. Để bài học
hấp dẫn và mới mẻ hơn, giáo viên cần chọn thêm những dạng bài tập thực hành
bằng hệ thống câu hỏi hay phiếu học tâp phát cho học sinh. Tuy nhiên, Gv cũng
cần chú ý đến mức độ khó - dễ vừa sức với trình độ hs để học sinh thực hiện, vừa
linh động, hấp dẫn, bởi học sinh làm, tránh được việc học sinh chép sách giải,…
Đặc biệt, giáo viên nên tổ chức một số trò chơi nhỏ có liên quan đến nội dung
bài học cho học sinh tham gia. Việc này một mặt rất hiệu quả trong việc củng cố
kiến thức vì nó rất phù hợp với tâm lí các em, kích thích được hứng thú học tập,
mặt khác giáo viên lại có thể tích hợp được kiến thức ở các mảng khác như văn
học dân gian, các văn bản đọc hiểu quen thuộc với học sinh hay các câu trên sách
báo mà các em tiếp xúc hàng ngày. Ngoài ra, cũng nên cho học sinh các bài tập về
nhà, xoáy trọng tâm vào phần tạo văn bản mới (có ứng dụng phần thực hành vừa
làm trên lớp). Ví dụ: Cho học sinh nhập vai đóng các nhân vật trong đoạn trích
trao duyên.
b. Cách thức tiến hành
Giờ học bắt đầu có thể học sinh sẽ phải làm việc nhiều hơn tiết học tiếp thu
kiến thức bình thường. Học sinh phải chuẩn bị bảng phụ như giấy bóng kính, bút
lơng, đọc lại các bài đọc văn đã học trước đó, chuẩn bị ý kiến tham gia phát biểu
xây dựng bài, làm việc theo nhóm để củng cố và nâng cao kiến thức. Có thể xem
đây cũng là một dạng thực hành nữa cho học sinh – thực hành phát biểu bày tỏ
quan điểm của cá nhân về một vấn đề đã được đặt ra. Do vậy, trong giờ học giáo
viên phải chú ý kích thích sự năng động, tích cực của học sinh bằng cách yêu cầu
các em chuẩn bị thật tốt cho tiết học. Ngoài việc các em phải đọc kỹ bài học, trả
13
lời hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, làm các bài tập luyện tập trong sách
giáo khoa, hoặc thầy, cô đưa thêm nên hướng dẫn các em về xem lại kiến thức lí
thuyết ở lớp dưới, tìm thêm các ví dụ trong các văn bản đọc hiểu.
Khi soạn giáo án, các thầy cơ nên chú trọng đến tính thực tế trong những
ví dụ, trong các bài tập sao cho vừa gần gũi với học sinh, vừa đảm bảo tính “đồng
dạng” về “chất” và “đồng đẳng” ở việc liên môn, liên nghành mới giúp các em
lĩnh hội được các vấn đề mà tác giả đề ra trong tác phẩm, mà sách giáo khoa đưa
ra. Đồng thời cũng cần linh động thực hiện cách chia nhóm để học sinh thực
hành, liên tục điều chỉnh các nhóm khi cần thiết Gv nên chủ động giao việc cho
những hs có khả năng cảm thụ tốt soạn thảo hệ thống câu hỏi về vấn đề gv đưa ra
khiến cho tất cả các học sinh đều làm việc, tránh tình trạng độc giảng, nặng nề,
ít hiệu quả và gây nhàm chán.
Trước khi lên lớp, giáo viên cần dự tính trước và cố gắng tinh gọn lượng
kiến thức cần trình chiếu lên máy, tránh trường hợp lượng câu chữ trên máy quá
dài dòng khiến học sinh quá chú tâm ghi chép mà không kịp theo dõi lời giáo
viên giảng giải hay ý kiến của các bạn. Và sẽ rất sai lầm nếu như ai đó lạm dụng
máy chiếu để phô bày hết những tư liệu mà mình tìm được về bài học. Trong vốn
tư liệu mình có, giáo viên cần chọn lọc những tư liệu cơ bản nhất, không nên đưa
ra nhiều tranh ảnh hay đoạn phim làm phân tán sự chú ý của học sinh. Khi soạn
bài, cần chú ý hệ thống đề mục, ý lớn, ý nhỏ phải thống nhất với nhau về cỡ chữ,
màu chữ và hiệu ứng trình chiếu để tạo tính mạch lạc, logíc cho bài và học sinh
tiện theo dõi. Khi sử dụng các phầm mềm thiết kế giáo án điện tử phải thận
trọng, cân nhắc để lựa chọn các hiệu ứng phù hợp về màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ,
cách chạy chữ, thiết kế màn hình, âm thanh phải phù hợp. Tuy nhiên, cần chú ý
không làm cho học sinh vì quá chú ý vào sự “trình diễn” của câu chữ mà mất tập
trung, lãng phí thời gian. Số lượng slide khơng nên q ít hoặc q nhiều (ví dụ
một tiết dạy chỉ dùng có vài ba slide hoặc ngược lại dùng đến ba bốn chục slide).
Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, giáo viên tránh thao tác quá nhanh,
14
học sinh không kịp chép bài, ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức
và mức độ hiểu bài của các em khơng cao.
Ngồi ra, qua phiếu điều tra từ các học sinh đã học bài thực hành các phép tu
từ với giáo án điện tử, chúng tôi còn nhận thấy một số nguyện vọng của học sinh có
thể gợi ý cho giáo viên trong cách soạn giáo án và chuẩn bị tiết học như sau:
Vì năng lực tiếp thu bài ở học sinh trong một lớp khác nhau nên thái độ và
cách thích nghi của các em với giờ học có ứng dụng cơng nghệ thơng tin khác
nhau. Nếu giáo viên ý thức rõ điều này và trong q trình soạn bài, giảng dạy có
cách tổ chức phù hợp, điều chỉnh tiến độ giờ học một cách hợp lí thì sẽ đáp ứng
được mong muốn của từng học sinh và hiệu quả giờ học sẽ cao hơn hẳn. Tất
nhiên, để làm được điều này, mỗi người cần có năng lực chun mơn, hiểu học
sinh và đặc biệt làm chủ giờ dạy, thành thục trong việc sử dụng công nghệ thông
tin. Trong khuôn khổ một tiết học, đặc biệt là các bài thực hành, cần cố gắng đa
dạng hoá các hoạt động học tập, khai thác tối đa năng lực của học sinh. Ngoài
các bài tập yêu cầu học sinh hoạt động cá nhân, trao đổi cặp, hoạt động nhóm, rất
nên có các trị chơi nhỏ có sự thi đua giữa các đội (ví dụ thi kể chuyện, thi đối
chữ, đối các thành ngữ, tục ngữ điển tích, điển cố trong văn bản của Việt Nam,
hoặc của nước ngoài ... ). Tác dụng của hoạt động này rất lớn, vừa giúp học sinh
củng cố kiến thức lí thuyết, cung cấp nhiều ngữ liệu về b ài học và khiến các em
hứng thú với bài học, gợi hướng cho các em tìm tịi mở rộng hiểu biết về tác
phẩm, tác giả mà các em đang học.
Mặc dù đa phần các em thích học giờ học đọc hiểu văn bản có ứng dụng
cơng nghệ thơng tin nhưng khơng có nghĩa là các em đã hồn tồn hài lịng, thoả
mãn với những gì đã có. Nhiều em bày tỏ nguyện vọng có thêm nhiều giờ học
như thế nữa, rồi mong muốn được tiếp cận với nhiều ngữ liệu phong phú hơn, các
trang được thiết kế đẹp hơn, đặc biệt nhiều em muốn được tham gia các trò chơi
liên quan đến bài học. Đây chính là những gợi ý quý báu cho bản thân tôi và các
15
đồng nghiệp trong q trình thực hiện ứng dụng cơng nghệ thông tin vào dạy học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết quả vận dụng của bản thân
Thứ nhất: Năng lực nhận xét, đánh giá bài văn của học sinh có tiến bộ rõ
rệt sau khi chúng tơi yêu cầu các em thực hiện việc đánh giá, nhận xét bài văn
trên phiếu.
Thứ hai: Học sinh khá hào hứng khi tham gia thực hiện hoạt động nhận
xét đánh giá bài văn của mình và của bạn trên lớp.
Thứ ba: Quan hệ thầy - trò, trò - trò dân chủ hơn.
Thứ tư: Học sinh có sự nỗ lực hơn trong việc rèn luyện chữ viết, cách
dùng từ, đặt câu, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Thứ năm: Thông qua phiếu tự nhận xét đánh giá bài văn của học sinh, cả
học sinh lẫn giáo viên đều đánh giá được quá trình học tập, mức độ tiến bộ trong
học tập, rèn luyện của người học.
Thứ sáu: Trong các giờ trả bài ở trên lớp, học sinh được thực hành, được nói,
được trao đổi với bạn bè nhiều hơn so với các giờ trả bài truyền thống. Cho nên,
tính tích cực, tự giác, chủ động, sự sáng tạo của người học được phát huy cao độ.
- Sau 4 tiết dạy thể nghiệm ở các lớp 10A3, 10A6, và tiến hành kiểm tra
khảo sát bằng 2 bài kiểm tra ngắn, tôi thu được một số kết quả như sau:
Bảng 1: Kết quả với lớp học không vận dụng SKKN
Tên Lớp Tổng
bài
số HS
Trao 10A3 47
Giỏi
SL
9
Khá
%
19.1
SL
15
%
31.9
Trung bình
SL
%
13 27.66
Yếu
SL
10
%
21.34
duyên
Bảng 2: Kết quả với lớp học có vận dụng SKKN
Tên
Lớp
Tổng
bài
số HS
Trao 10A6 50
Giỏi
Khá
SL
%
SL
%
20
40.0
27
54.0
Trung bình
SL
%
3
6.0
Yếu
SL
%
0
0
duyên
16
Bảng 3: So sánh giữa hai nhóm tương quan kết quả được thể hiện bằng
biểu đồ như sau:
2.4.2. Hiệu quả đối với đồng nghiệp
- Hướng dẫn tốt cách thức tổ chức hoạt động nhận xét, đánh giá bài văn
cho học sinh: Cách sử dụng phiếu đánh giá nhận xét, cách tổ chức hoạt động lập
dàn ý cho bài văn, cách trình bày nhận xét, đánh giá trước lớp và cách thức
thống nhất kết quả bài văn.
- Sử dụng hệ thống kí hiệu quy ước để nhận xét, ghi điểm trên bài văn.
- Sử dụng thêm các thiết bị hiện đại như máy ghi âm, máy ảnh để lưu giữ bài
làm văn của học sinh, giúp cho tiến trình nhận xét, đánh giá thuận lợi, nhanh chóng.
- Sử dụng phần mềm dạy học như Powpoint hoặc Lecture Macker để chụp
và trình chiếu những đoạn văn, bài văn hay hoặc đoạn văn, bài văn còn mắc lỗi của
học sinh để các em có thể thực hiện tốt hoạt động đánh giá, nhận xét, rút kinh
nghiệm.
17
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Từ thực tế những kết quả thu được, chúng tôi tin tưởng rằng tổ chức dạy
học các dạng bài thiết kế hệ thống câu hỏi Đọc đoạn trích Trao dun bằng cơng
nghệ thơng tin là hoàn toàn khả thi và hiệu quả, thực sự góp phần nâng cao chất
lượng hiệu quả trong dạy học Ngữ văn 10. Tại trường THPT Nguyễn Xuân
Nguyên - huyện Quảng Xương. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài này, những
kết quả thu được mang tính chất khẳng định tính khả thi của đề tài và khích lệ
động viên tác giả tiếp tục thực nghiệm và nghiên cứu sâu hơn trong thời gian tới
tại đơn vị mình. Tuy nhiên, những gì chúng tơi đạt được ở đây cũng chỉ là kết quả
thực nghiệm bước đầu, chưa phải là kết quả cuối cùng để đi đến một kết luận
khoa học – hi vọng các đề tài nghiên cứu rộng và sâu hơn của các bạn đồng
nghiệp và của các nhà giáo dục sẽ tìm hiểu kĩ và sâu hơn về vấn đề này.
Những thể nghiệm của bản thân tôi trong 4 tiết dạy này thực sự mới chỉ là
bước khai phá ban đầu trong một cơng việc cịn mới mẻ và lí thú. Trong bài dạy
này, việc sử dụng vào dạy học mới chỉ dừng lại ở sự chuẩn bị của giáo viên, chưa
phát huy được năng lực về công nghệ thông tin của học sinh. Hơn nữa, đối tượng
học sinh tại trường huyện quá ít, mặt bằng đầu vào lại thấp. Do vậy, sự tích cực
chủ động của học sinh chưa được khai thác tối đa. Mặt khác, do hạn chế về thời
gian và khả năng sử dụng các phần mềm soạn giáo án điện tử nên có những ý
tưởng mà người soạn còn chưa thực hiện được. Để nâng cao hiệu quả của giờ học
sử dụng công nghệ thông tin, chúng ta cần nhiều điều kiện từ cơ sở vật chất cũng
như năng lực của giáo viên và học sinh.
3.2 Kiến nghị
* Về phía các cấp lãnh đạo
Nhằm khuyến khích giáo viên tích cực tiếp cận và ứng dụng cơng nghệ
thơng tin, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn, các cấp lãnh đạo
18
cần có chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong cơng việc.
Ví dụ sở giáo dục cần có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các trường triển khai ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ Văn, mỗi năm cần tổ chức hội thi
giáo viên sử dụng cơng nghệ giỏi để kích thích lịng đam mê sáng tạo phục vụ
cho sự nghiệp giáo dục; nhà trường cần tổ chức các phong tr ào thi đua giảng dạy
bằng phương tiện hiện đại, có tổng kết, biểu dương, khen thưởng nhằm tạo thêm
khí thế sơi nổi và để những giáo viên cịn e ngại có những bước đi mạnh dạn hơn,
đặc biệt là giáo viên có độ cao, … mới vào nghề, giáo viên dạy tại các trường
huyện như chúng tôi. Cần đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm giữa các giáo viên, từ đó đề xuất với chun mơn những giải pháp góp
phần nâng cao trình độ tin học cho giáo viên, có chế độ đãi ngộ cho những giáo
viên có bài giảng điện tử có giá trị, tích cực lao động sáng tạo trong nghề, đồng
thời đầu tư cơ sở vật chất phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy mơn Ngữ Văn,… Ngồi ra, các trường cần trang bị phòng đa chức năng và
đầu tư đồng bộ như: máy chiếu, máy quay, máy chụp, nối mạng, cũng như việc
mua bổ sung các tranh, ảnh liên quan đến bài giảng, …
* Về phía tổ chun mơn
Đề nghị thường xuyên áp dụng phương pháp dạy phát huy tính tích cực
của học sinh vào từng bài học.
Sử dụng kiểu câu hỏi gợi mở nêu vấn đề. Sử dụng công nghệ thông tin
trong từng bài dạy.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Người thực hiện
Nguyễn Thị Đức
19
20