Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lý luận văn học ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.3 KB, 21 trang )

Mục lục

I.

Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lí luận của SKKN
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Các giải pháp đưa ra để nâng cao chất lượng dạy học lí luận
văn học ở trường THPT
2.3.1. Khái quát về các bài học lí luận văn học
2.3.2. Đặc điểm các bài học LLVH
2.3.3. Một số nguyên tắc khi dạy học LLVH
2.4. Các biện pháp cụ thể hướng dẫn học sinh học các bài lí luận
văn học
2.4.1 Xác định đúng đặc điểm các bài LLVH
2.4.2. Hướng dẫn học sinh học bài ở nhà
2.4.3. Vận dụng các phương pháp giảng dạy đúng đặc trưng và phù
hợp
2.4.4. Phương pháp diễn giảng
2.4.5. Phương pháp nêu vấn đề
2.4.6. Phương pháp trực quan
2.4.7. Chú trọng kiểm tra, đánh giá học sinh
2.5. Kết quả áp dụng sáng kiến


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1

Trang
3
3
4
4
4
5
5
5
7
8
8
8
9
9
10
11

11
13
15
16
16
18
18
18
19


Đổi mới phương pháp dạy học là một tất yếu để nâng cao chất lượng giáo dục.
Là một môn học, Ngữ văn không nằm ngoài xu thế đó đặc biệt trong tình hình hiện
nay số lượng học sinh yêu thích môn văn ngày càng giảm dần.
Lí luận văn học là một hệ thống tri thức có tính chất đặc thù trong quá trình
học tập môn Ngữ văn, có khả năng trang bị những hiểu biết cơ bản về các khái niệm,
đặc điểm có tính bản chất đặc trưng của văn học, có nhiệm vụ rèn luyện tư duy cho
học sinh. Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta chưa xác định đúng vị trí của các bài lí
luận văn học dẫn đến lúng túng trong cách dạy của giáo viên và học sinh tiếp thu hời
hợt, thụ động.
Căn cứ vào đặc điểm của các bài học lí luận văn học, dựa trên các nguyên tắc
dạy lí luận văn học; từ niềm đam mê và thực tế giảng dạy bộ môn, tôi mạnh dạn đề
xuất một vài biện pháp hướng dẫn học sinh học các bài lí luận văn học trong chương
trình Ngữ văn ở bậc THPT mà tôi thấy có hiệu quả.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trung tâm của đổi mới giáo dục
hiện nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCH Trung ương Đảng khóa XI về Đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế; phần nhiệm vụ giải pháp đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và

vận dụng kiến thức kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học cách nghĩ, khuyến khích tự học tạo
cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”.
Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới là: phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất người học. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm
chất, năng lực cần thiết như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hoài bão và lí
tưởng phục vụ Tổ quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã
hội; có hiểu biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả… như Bác Hồ
từng mong muốn: “một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người công dân
hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng
lực sẵn có của các em”.
Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT là một quá trình phức hợp vì
nó đòi hỏi phải tác động đến nhiều yếu tố khác nhau. Một trong những hướng đổi
mới đó là lập kế hoạch bài học, thiết kế các bài học trên lớp để phát hiện và phát huy
tính tích cực của học sinh để các em tiếp thu bài một cách chủ động, tích cực, biết
2


ứng dụng những tri thức học được vào tình huống cụ thể. Trong nhà trường ngày
nay, đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh, học sinh không thể chỉ ngồi chỉ nghe giảng và chép bài một cách thụ động. Các
em sẽ phải tham gia nhiều hoạt động học tập như làm bài tập cá nhân, làm việc theo
nhóm sau đó thuyết trình kết quả trước nhóm hoặc tập thể lớp. Học sinh có thể phát
biểu ý kiến trong nhóm, bày tỏ quan điểm cá nhân về một vấn đề xã hội, tranh luận
với người khác để bảo vệ kiến của mình. Xã hội phát triển và luôn biến động đòi hỏi
con người phải có trình độ chuyên môn vững vàng và năng lực ngày càng cao. Điều
đó rất cần thiết với học sinh THPT chuẩn bị bước vào cuộc sống với biết bao dự định
và ước mơ về tương lai phía trước.
Hướng dẫn học sinh học các bài lí luận văn học là một biện pháp cụ thể góp

phần đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp dạy học kết hợp với kiến thức về lí luận văn học
nhằm hướng dẫn học sinh học bài học lí luận văn học đạt hiệu quả cao nhất.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi
Các bài lí luận văn học trong chương trình Ngữ văn THPT
3.2. Đối tượng áp dụng
Áp dụng với học sinh ở trường THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Đọc và tìm hiểu các tài liệu về dạy bài học lí luận văn học ở trường
THPT.
4.2. Dùng phương pháp điều tra thống kê và phân loại để tìm nguyên
nhân chất lượng học tập lý thuyết và vận dụng kiến thức lí luận văn học của học
sinh chưa cao.
4.3. Khảo sát kết quả học tập của học sinh để có kế hoạch xây dựng thiết kế bài học.
4.4. Dùng phương pháp thực nghiệm, từ kết quả nghiên cứu về cách dạy các
bài lí luận văn học áp dụng cho học sinh trong năm học 2018 - 2019.
4.5. Kết hợp các phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề, dạy học trực quan…
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
3


- Lí luận văn học là một hệ thống tri thức có tính chất đặc thù trong quá trình
học tập môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông, có khả năng trang bị những
hiểu biết cơ bản về các khái niệm, đặc điểm có tính bản chất, đặc trưng của văn học,
có nhiệm vụ rèn luyện tư duy cho học sinh.
- Lí luận văn học có vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh hoàn thiện,
nâng cao trí thức văn học. Là loại tri thức có khả năng rèn luyện tư duy khoa học, tư

duy logic, giúp học sinh nâng cao khả năng cảm thụ văn học. Các khái niệm có tính
chất lý thuyết có tác dụng như những chìa khóa nhận thức về văn học.
- Lí luận văn học là một bộ môn của khoa học nghiên cứu văn học có nhiệm
vụ nghiên cứu bản chất, chức năng xã hội và thẩm mĩ quy luật phát triển của sáng
tác văn học, có tác dụng xác định phương pháp luận và phương pháp phân tích văn
học.
Các vấn đề của lí luận văn học bao gồm ba nhóm: lí thuyết về các đặc trưng
phản ánh đặc trưng phản ánh hiện thực bằng hình tượng nghệ thuật, lí thuyết về cấu
trúc của tác phẩm văn học và lí thuyết về quá trình văn học.
+ Nhóm thứ nhất gồm các khái niệm: tính hình tượng, tính nghệ thuật, lí
tưởng thẩm mĩ, thế giới quan và phương pháp sáng tác, tính nhân dân, tính giai cấp
tính Đảng, các nguyên tắc đánh giá sáng tác văn học nói chung.
+ Nhóm thứ hai gồm các khái niệm: nội dung và hình thức văn học như đề tài,
chủ đề, cảm hứng tư tưởng, tính cách nhân vật, kết cấu cốt truyện, các vấn đề phong
cách học, luật thơ và thi pháp học lí thuyết.
+ Nhóm thứ ba gồm các khái niệm phong cách, phương pháp, trào lưu, dòng,
khuynh hướng, các thể loại văn học và quá trình văn học.
Các khái niệm lí luận văn học có tính chất phổ quát rất chung cho nên khi sử
dụng phải được bổ sung và làm minh xác thêm về mặt lịch sử; mặt khác các thuật
ngữ của lí luận văn học có một tính chất chức năng. Chúng không những biểu hiện
các khái niệm tương ứng với các hiện tượng bình diện thuộc tính của văn học mà
còn chỉ ra chức năng của khái niệm lí luận văn học trong việc phản ánh các quy luật
khái quát của văn học.
Như vậy, hướng dẫn học sinh học tập tốt các bài học về lí luận văn học không
chỉ cung cấp đầy đủ kiến thức bộ môn mà còn cung cấp thêm con đường, cách thức
để vận dụng chiếm lĩnh kiến thức học tập các phân môn khác như đọc văn, làm văn.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.2.1. Thực trạng dạy học của giáo viên và học sinh: Trong thời gian vừa qua
việc giảng dạy lí luận văn học của giáo viên còn thiếu thống nhất về mục đích, nội
4



dung, phương pháp. Trong các đề kiểm tra định kì, các đề thi tốt nghiệp THPT
không có các câu hỏi nội dung đề cập đến lí luận văn học mà nội dung này chỉ tập
trung dành cho học sinh giỏi trong các đề thi chọn học sinh giỏi.
Học sinh chưa chú tâm đến nội dung bài học, kiến thức đọng lại rất hạn chế.
Nhiều học sinh không trả lời được câu hỏi về các khái niệm thông thường như: kết
cấu, chủ đề, đề tài… Có nhiều em hiểu sai một số khái niệm như “Phú là loại thơ
trình bày có tính chất vui và lí thú”, “Hình tượng là nói lên trí tưởng tượng về nhân
vật”. Có một số em suy nghĩ phiến diện về một vài từ ngữ như “trữ tình” là tình yêu
nam nữ; “tự sự” là tự nói lên sự kiện của mình, “tình tiết” là chuyện kể một cách
rôm rả về các tình tiết tự đáy lòng mọi người”…
Những hiện tượng trong thực tế giảng dạy và học tập đó khẳng định một điều:
Các bài học lí luận văn học chưa được giáo viên và học sinh quan tâm đúng mức như
các bài học về tác phẩm văn học hay lí thuyết làm văn.
2.2.2.Về chương trình học các bài lí luận văn học trong môn Ngữ văn
Chương trình lí luận văn học hiện nay chỉ dành một tỉ lệ nhỏ quỹ thời gian
trong chương trình môn học Ngữ văn THPT nhưng bước đầu đã được chú ý hơn.
Chương trình nhằm chủ yếu vào việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
sơ giản nhất về văn học, về tác phảm văn học với các thể loại khác nhau.
phân phối chương trình dành thời lượng cho phần lí luận văn học như sau:
STT
1
2
3
4
5
6
Tổng


Bài học
Văn bản văn học
Nội dung và hình thức của văn bản văn học
Một số thể loại văn học: Thơ, truyện
Một số thể loại văn học: Kịch, nghị luận
Quá trình văn học và phong cách văn học
Giá trị văn học và tiếp nhận văn học
6 bài

Lớp
10
10
11
11
12
12

Số tiết
2
1
2
2
2
2
11 tiết

Ngoài phần nội dung dành riêng hàng năm cho mỗi lớp, chương trình quy
định việc cung cấp kiến thức lí luận văn học thông qua các bài khái quát về lịch sử
văn học, các bài về tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học. Do vậy đặc điểm của
chương trình lí luận văn học ở bậc THPT là sự kết cấu song song với chương trình

văn học sử các lớp. Như vậy, dung lượng kiến thức lí luận văn học được xây dựng từ
hai nguồn: một là qua các tiết dạy ổn định cho các lớp và hai là việc giảng giải cắt
nghĩa của giáo viên thông qua những bài giảng văn, lịch sử văn học.
5


Với vai trò tầm quan trọng đặc biệt của việc dạy lí luận văn học trong việc
hình thành năng lực ngữ văn của học sinh, cách lập luận triển khai các nội dung
trong một bài viết văn nhưng trước thực tế của các dạy, cách học các bài lí luận văn
học hiện nay buộc chúng ta phải suy nghĩ trăn trở: làm thế nào để học sinh hứng thú
với việc học các bài lí luận văn học từ đó giúp các em nắm chắc kiến thức về môn
học để vận dụng trong các bài học ngữ văn khác.
2.3. Các giải pháp đưa ra để nâng cao chất lượng dạy học lí luận văn học
ở trường THPT
2.3.1. Khái quát về các bài học lí luận văn học
Lí luận văn học là một bộ môn của khoa học nghiên cứu văn học có nhiệm vụ
nghiên cứu bản chất, chức năng xã hội và thẩm mĩ quy luật phát triển của sáng tác
văn học, có tác dụng xác định phương pháp luận và phương pháp phân tích văn học.
Các vấn đề của lí luận văn học bao gồm ba nhóm: lí thuyết về các đặc trưng
phản ánh hiện thực bằng hình tượng nghệ thuật; lí thuyết về cấu trúc của tác phẩm
văn học và lí thuyết về quá trình văn học.
Nhóm thứ nhất gồm các khái niệm: tính hình tượng, tính nghệ thuật, lí tưởng
thẩm mĩ, thế giới quan và phương pháp sáng tác, tính nhân dân, tính giai cấp tính
Đảng, các nguyên tắc đánh giá sáng tác văn học nói chung.
Nhóm thứ hai gồm các khái niệm: nội dung và hình thức văn học như đề tài,
chủ đề, cảm hứng tư tưởng, tính cách nhân vật, kết cấu cốt truyện, các vấn đề phong
cách học, luật thơ và thi pháp học lí thuyết.
Nhóm thứ ba gồm các khái niệm phong cách, phương pháp, trào lưu, dòng,
khuynh hướng, các thể loại văn học và quá trình văn học.
Các khái niệm lí luận văn học có tính chất phổ quát rất chung cho nên khi sử

dụng phải được bổ sung và làm minh xác thêm về mặt lịch sử; mặt khác các thuật
ngữ của lí luận văn học có một tính chất chức năng. Chúng không những biểu hiện
các khái niệm tương ứng với các hiện tượng bình diện thuộc tính của văn học mà
còn chỉ ra chức năng của khái niệm lí luận văn học trong việc phản ánh các quy luật
khái quát của văn học.

2.3.2. Đặc điểm các bài học lí luận văn học
Các bài học lí luận văn học thường mang tới những kiến thức khái quát trừu
tượng không dễ nắm bắt. Vì thế, trong tiết học trước, giáo viên cần hướng dẫn, dặn
6


dò học sinh chuẩn bị kĩ bài ở nhà: đọc chậm, tìm ý chính, xác lập quan hệ giữa các ý.
Có thể lập dàn ý sơ lược về bài học.
Mặt khác, các bài lí luận văn học thường hay khô khan, giáo viên cần phát huy
tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh bằng cách đặt câu hỏi cho từng khối
kiến thức để gợi mở, phân tích, khẳng định, mở rộng, nâng cao vấn đề. Đồng thời
cần làm cho bài học thêm sinh động hấp dẫn bằng những dẫn chứng phong phú trong
thực tế văn học để chứng minh cho từng luận điểm lí thuyết. Khuyến khích học sinh
tìm dẫn chứng. Có thể cho học sinh đối thoại tranh luận để xem dẫn chứng đưa ra có
phù hợp với luận điểm lí thuyết không.
2.3.3. Một số nguyên tắc khi dạy bài học lí luận văn học
2.3.3.1. Dạy lí luận văn học chủ yếu thông qua tác giả, tác phẩm, lịch sử văn
học.
Cơ sở khoa học: Căn cứ vào qui luật nhận thức, trình độ tâm lí nhận thức
của học sinh cũng như bản chất và bội dung của bộ môn văn học. Việc giảng dạy các
bài học lí luận văn học ở bất cứ cấp độ nào cũng không thể tách rời được việc
nghiên cứu sáng tác cụ thể.
Ví dụ: Khi dạy bài Giá trị văn học và tiếp nhận văn học ở lớp 12, trong mục
giá trị nhận thức giáo viên có thể căn cứ vào các tác phẩm học sinh đã học trong năm

học để phân tích dẫn chứng. Cùng nói về nạn đói năm 1945, Tuyên ngôn độc lập của
Hồ Chí Minh khẳng định: Từ Quảng Trị ra Bắc Kì hơn 2 triệu người bị chết đói. Còn
trong Vợ nhặt của Kim Lân thì miêu tả: người chết như ngả rạ, người sống xanh xám
dật dờ như những bóng ma. Qua đó, giáo viên có thể đưa ra khái niệm về giá trị nhận
thức, phân tích lý giải nguồn gốc tạo thành và phân tích những nội dung cơ bản của
giá trị nhận thức.
2.3.3.2. Lí luận văn học được hình thành khắc họa và củng cố thông qua hệ
thống bài tập ứng dụng.
Ví dụ dạy bài Nội dung và hình thức của văn bản văn học ở lớp 10 có thể
hướng dẫn học sinh so sánh đề tài của Tắt đèn (Ngô Tất Tố) và Bước đường cùng
(Nguyễn Công Hoan).
- Cả hai tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn
Công Hoan đều viết về cuộc sống bị bóc lột áp bức rất cơ cực của nông dân ở nông
thôn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự phản kháng tự phát của họ. Nhưng
có sự khác nhau: Tắt đèn tả cuộc sống nông thôn trong những ngày sưu cao thuế
nặng, nông dân bị áp bức bóc lột đủ đường buộc phải vùng lên phản kháng. Bước
đường cùng miêu tả cuộc sống hàng ngày lầm than cơ cực của nông dân: bị áp bức,
7


bóc lột, bị địa chủ dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi để cướp lúa, cướp đất, bị đẩy vào
bước đường cùng, không còn lối thoát, nông dân phải đứng lên chống lại.
- Tắt đèn và Bước đường cùng phản ánh thực trạng cuộc sống của nông dân ở
nông thôn trước cách mạng mà các tầng lớp cầm quyền cố che đậy. Người ta chỉ
quyết tâm thay đổi hoàn cảnh sống khi hiểu ra thực trạng cuộc sống bi thảm của
mình.
Ví dụ: Khái niệm sử thi, nhân vật anh hùng ca chỉ có thể được học sinh lĩnh
hội thông qua các bài giảng về sử thi Ấn Độ, về I-li-at và Ô- đi- xê ở lớp 10.
Thông qua việc giảng dạy văn học dân gian và văn học cổ điển Việt Nam giáo viên
sẽ kết hợp giảng lí thuyết về các thể loại văn học dân gian và văn học cổ điển, các

thủ pháp thường được sử dụng trong các sáng tác văn học dân gian, văn học trung
đại như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, ước lệ, tượng trưng, điển cố.
Thông qua việc giảng dạy văn học từ đầu thế kỉ XX đến 1945 giáo viên sẽ
giảng về cách luật và thơ tự do, thơ mới, tiểu thuyết cổ điển và tiểu thuyết hiện đại,
phân biệt được tiểu thuyết truyện vừa, truyện ngắn…
Thông qua những bài học về thời kì văn học, giảng văn việc hình thành khái
niệm luôn gắn liền với việc minh họa phân tích các dẫn chứng cụ thể; do đó việc học
lí luận văn học sẽ không trừu tượng mà có được tính chất cụ thể ứng dụng vào thực
tiễn các bài học Ngữ văn của học sinh.
2.3.3.3. Tận dụng vốn hiểu biết văn học của học sinh làm cơ sở cho việc hình
thành khái niệm lí luận văn học
Trước khi bước vào THPT các em học sinh đã có kiến thức nhất định về văn
học. Mặt khác học sinh ham đọc sách, say mê truyện đã phần nào có những kiến
thức về văn học. Giáo viên cần biết khơi dậy đánh thức vốn kiến thức tiềm ẩn ở các
em. Đối với các bài học lí luận văn học ở lớp 10, giáo viên nên lấy các tác phẩm ở
lớp 9 làm ví dụ để phân tích cho học sinh dễ hiểu và tạo cảm giác gần gũi.
Ví dụ khi dạy về các khái niệm của Nội dung và hình thức trong văn bản văn
học: Sau khi đã xác định được khái niệm về đề tài là “lĩnh vực đời sống được nhà
văn nhận thức lựa chọn, khái quát bình giá và thể hiện trong văn bản”. Giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh lấy ví dụ bằng các câu hỏi về đề tài của truyện: Làng, Những
ngôi sao xa xôi, Bức tranh… trong chương trình Ngữ văn lớp 9. Như vậy học sinh sẽ
dễ dàng tìm ra các câu trả lời.
2.4. Các biện pháp cụ thể hướng dẫn học sinh học các bài lí luận văn học
2.4.1. Xác định đúng đặc điểm các bài học lí luận văn học
8


Đối với giáo viên trước khi dạy bài lí luận văn học, ngoài việc xác định được
mục tiêu bài học thì việc tìm hiểu, xác định đúng đặc điểm của bài học lí luận văn
học là rất quan trọng. Bởi vì có xác định đúng đặc điểm của bài học thì mới sử dụng

phương pháp dạy học phù hợp, xây dựng thiết kế giáo án đảm bảo vừa khai thác đầy
đủ kiến thức trọng tâm của tác phẩm vừa phát huy tối đa tính tích cực, chủ động của
học sinh trong giờ học.
Ví dụ như dạy bài Văn bản văn học ở lớp 10, giáo viên xác định đặc điểm của
bài: Đây là bài học lí luận văn học đầu tiên của lớp 10 nên giáo viên giảng bài cần
kết hợp với phân tích một số ví dụ cụ thể để soi sáng lí thuyết. Các ví dụ nên lấy từ
những văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9, lớp 10 học sinh đã được học để
học sinh tiện theo dõi; tránh lấy những ví dụ từ những tác phẩm quá xa lạ, quá khó
hoặc kém giá trị.
Từ đặc điểm trên, giáo viên có thể xác định phương pháp cách thức dạy bài
học này là kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề.
Hoặc như ở lớp 11 khi dạy bài Một số thể loại văn học: Thơ, truyện có thể nêu ra
những đặc điểm của bài hoc như sau: Bài học hướng tới một vấn đề cơ bản của lí
luận văn học: vấn đề loại thể. Giáo viên giúp học sinh phân biệt được loại và thể,
nắm được mối quan hệ giữa loại và thể trong văn học, hiểu đặc trưng khái quát của
một số thể loại văn học tiêu biểu.
Giáo viên chú ý trình bày lí thuyết gắn với thực tiễn thể loại văn học. Nên ưu
tiên lấy dẫn chứng ở các tác phẩm mà học sinh đã học trong chương trình phổ thông.
Từ đặc điểm đó, giáo viên xác định phương pháp dạy học ở bài này là kết hợp
phương pháp diễn giảng, phương pháp nêu vấn đề và phương pháp trực quan.
Phương pháp diễn giảng và phương pháp nêu vấn đề giúp học sinh hình thành khái
niệm: Loại, thể, thơ, truyện.
Phương pháp trực quan giúp học sinh triển khai những yêu cầu về cách đọc
hiểu văn bản theo thể loại.
Đặc điểm bài học Giá trị văn học và tiếp nhận văn học ở lớp 12 là: Bài học đề
cập đến những khả năng của văn học trong việc đáp ứng những nhu cầu khác nhau
của con người trong việc tác động sâu sắc tới cuộc sống và con người. Giáo viên cần
phải phân biệt cho học sinh thấy được sự khác nhau giữa giá trị với tác dụng. Từ đó
thấy được giá trị văn học gắn với đặc trưng, bản chất của văn học. Văn học có thể có
nhiều tác dụng nhưng giá trị thì chỉ có ba giá trị cơ bản là nhận thức, giáo dục và

thẩm mĩ.
9


Giá trị của văn học được thực hiện, được cụ thể hóa qua hoạt động tiếp nhận
văn học. Đó là một quá trình tác động thẩm mĩ: người đọc tiếp nối và tham gia mục
đích sáng tạo của nhà văn, hiện thực hóa ý đồ nghệ thuật của nhà văn qua sự đồng
điệu và nhân lên cảm xúc, qua sự lay thức tâm hồn và mở ra những hiểu biết mới mẻ
về cuộc đời.
Từ đó, giáo viên xác định được phương pháp giảng dạy là nêu vấn đề, liên tục
đặt ra những câu hỏi theo một hệ thống có liên quan chặt chẽ, soi tỏ mọi khía cạnh
của vấn đề. Chú ý khơi gợi học sinh tìm nhiều dẫn chứng cụ thể trong thực tế văn
học để chứng minh tính đúng đắn của các luận điểm lí thuyết. Sau đó tổ chức lớp
học chia thành nhiều nhóm để thảo luận vấn đề nêu ra. Cuối cùng giáo viên diễn giải
bổ sung, hoàn chỉnh, tổng kết kiến thức cần có của vấn đề đặt ra.
Như vậy, có thể coi đối với người giáo viên việc xác định đúng, chính xác đặc
điểm của bài học lí luận văn học là khâu chuẩn bị đầu tiên và quan trọng nhất trước
khi hình thành kết cấu bài dạy, thiết kế giáo án.
2.4.2. Hướng dẫn học sinh học bài ở nhà
Để chuẩn bị cho giờ học về các bài lí luận văn học, phần hướng dẫn học bài
của tiết học trước đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
Mục đích của việc chuẩn bị bài ở nhà giúp cho học sinh chủ động, tích cực lĩnh hội
kiến thức mới trong giờ học chính khóa. Hình thức chuẩn bị bài ở nhà thông thường
là học sinh đọc trước bài học trong sách giáo khoa; trả lời các câu hỏi ở phần hướng
dẫn học bài ở ngay sau phần văn bản của bài học. Học sinh cũng có thể chuẩn bị bài
bằng cách học phần ghi nhớ và triển khai các ý của phần ghi nhớ thông qua nội dung
bài học.
Giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh học bài ở nhà bằng các câu hỏi
hoặc bài tập. Ví dụ Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài Một số thể loại văn học: Thơ,
truyện giáo viên cho học sinh trả lời một số câu hỏi sau:

Câu 1: Thơ có mấy nét đặc trưng? Đọc thơ phải qua mấy bước chính? Nêu
vắn tắt từng bước?
Câu 2: Truyện có mấy nết đặc trưng? Đọc truyện phải qua mấy bước chính?
Nêu vắn tắt từng bước?
Câu 3: Cho học sinh tự chọn một bài thơ (hoặc một truyện) mà mình yêu thích
nhất. Giải thích ngắn gọn vì sao lại thích bài thơ (hoặc một truyện) đó.
Hoặc để chuẩn bị bài Giá trị văn học và tiếp nhận văn học giáo viên có thể nêu
các câu hỏi kết hợp với bài tập. Câu hỏi: Theo em văn học có những giá trị nào? Em
10


đã tiếp nhận được những gì từ văn học? Bài tập: Hãy phân tích bài thơ Tràng giang
của Huy Cận để làm sáng tỏ các giá trị của văn học?
Hướng dẫn như vậy, học sinh nếu chuẩn bị tốt sẽ nắm chắc kiến thức của bài
học và khi học bài mới học sinh sẽ tiếp thu bài một cách chủ động, tích cực.
2.4.3. Vận dụng các phương pháp giảng dạy đúng đặc trưng và phù hợp với
bộ môn để hướng dẫn học sinh học các bài lí luận văn học.
Chương trình môn Ngữ văn THPT đã xác định kiến thức lí thuyết văn học như
là một bộ phận văn học. Như vậy, hệ thống kiến thức lí luận đã giữ vị trí quan trọng
trong chương trình Ngữ văn THPT giúp học sinh có thể vận dụng những tri thức về
lí luận vào sự phân tích đánh giá tác phẩm, tác giả, vào sự tìm hiểu các trào lưu, các
trường phái, các qui luật phát triển trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam. Để
truyền thụ những kiến thức lí luận văn học cụ thể, lại khá phong phú, tùy từng bài
học cụ thể, giáo viên cần thực hiện những yêu cầu và phương pháp phù hợp với đặc
trưng bộ môn và kiến thức liên quan một cách linh hoạt.
2.4.4. Phương pháp diễn giảng
a.Cơ sở lí luận
Đây là phương pháp thường được dùng nhiều ở trường phổ thông. Từ một bài
văn, bài thơ cụ thể, từ những hiện tượng văn học cụ thể, giáo viên giúp học sinh đi
đến một kết luận có tính khái quát về văn học.

Một bài học lí luận văn học thường chứa đựng những mệnh đề khái quát, các
tri thức minh họa và tiêu biểu. Mỗi tri thức là một khái quát trên các bình diện khác
nhau chứa đựng bao nhiêu khái niệm cần giải thích, bao nhiêu định nghĩa phải minh
họa, bao nhiêu mối quan hệ logic trong câu phải phân tích, giải thích. Vì vậy, dùng
phương pháp diễn giảng là phù hợp đối với một bài giảng về lí luận văn học. Ngoài
ra, diễn giảng là phương pháp tiết kiệm được thời gian, có khả năng trình bày tri
thức một cách có hệ thống, kết hợp được tính lôgic và tính truyền cảm.
b.Cách thực hiện
Giáo viên phân tích, trình bày các tri thức kết hợp với ghi bảng, còn học sinh
nghe hiểu và ghi chép vào vở.
Giáo viên sử dụng phương pháp diễn giảng có thể theo hình thức qui nạp tức
là đi từ các hiện tượng đến các nhận định.
Diễn giảng phải dựa vào sách giáo khoa nhưng không phải là đọc, là chép
sách giáo khoa hay nói theo sách giáo khoa mà là giảng giải, minh họa nhằm giúp
học sinh hiểu sách giáo khoa: hiểu các khái niệm, nhận định và các dẫn chứng.
11


Phải đảm bảo tính truyền cảm để bài giảng có sức thu hút, tránh sự nhàm chán
đối với người nghe.
Giáo viên cần giúp học sinh nắm vững các khái niệm về thuật ngữ văn học.
Việc giảng dạy bài lí luận văn học, giáo viên phải coi trong việc hình thành, khắc
họa cho học sinh hiểu rõ các khái niệm, nắm chuẩn xác các thuật ngữ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Một số thể loại văn học: thơ, truyện” ở lớp 11 giáo viên
có thể sử dụng phương pháp này. Sở dĩ nên sử dụng phương phương pháp này vì
kiến thức bài này chứa đựng rất nhiều khái niệm khó hiểu đối với học sinh. Mặc dù
các từ như: loại, thể hay thơ là gì? Các em đã được tiếp xúc nhiều, nhưng để hiểu
được nội hàm bản chất của nó thì giáo viên phải diễn giải một cách cụ thể để giúp
học sinh hiểu rõ các khái niệm trừu tượng đó.
Trước hết, giáo viên nên giải thích cho học sinh hiểu người ta dựa vào cơ sở

chung đó là phương thức (cách thức phản ánh hiện thực, tình cảm của tác phẩm) để
phân chia thể loại tác phẩm.
Tiếp theo giáo viên giảng giải các khái niệm như: thế nào là “loại” và tác
phẩm văn học được chia làm mấy loại?
Yêu cầu về kiến thức giáo viên cần giảng giải như sau: “Loại” là phương thức
tồn tại chung, là loại hình chủng loại. Có sự so sánh phân biệt giữa các thành phần.
Giáo viên đưa ra 3 loại hình tác phẩm văn học và những đặc điểm cơ bản của nó để
chứng minh cho khái niệm trên: Trữ tình là bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tâm trạng con
người bao gồm: thơ, ca dao, tục ngữ, hò, vè… Tự sự là kể lại (miêu tả) trình tự các
sự việc, có nhân vật, cốt truyện… bao gồm: truyện, tiểu thuyết, bút kí, phóng sự, kí
sự, tùy bút… Kịch là thông qua lời thoại, hành động của các nhân vật để thể hiện
mâu thuẫn, xung đột kịch, bao gồm: Kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi
kịch, hài kịch.
Sau khi đưa ra các dẫn chứng chứng minh đầy đủ cho khái niệm về “loại” giáo
viên tiếp tục đưa ra khái niệm về “thể” và lấy dẫn chứng đầy đủ chứng minh.
“thể” là hiện thực hóa của loại, nhỏ hơn loại. Các tiêu chí dùng để phân chia “thể”
rất đa dạng: dựa vào độ ngắn dài, đề tài, cấu trúc, cảm hứng chủ đạo, tính chất mâu
thuẫn… Như vậy với việc đưa ra các dẫn chứng đầy đủ, trong quá trình giảng bài
giáo viên sẽ giúp học sinh dễ hình dung cụ thể các khái niệm. Phương pháp diễn
giảng này phát huy hiệu quả đối với những bài có lượng kiến thức mới, học sinh khó
khăn trong việc tìm hiểu. Do đó giáo viên nên áp dụng phương pháp này để hướng
dẫn học sinh khám phá những khái niệm đó.
12


Ví dụ dạy bài Văn bản văn học ở lớp 10 giáo viên có thể phân tích bài thơ
Mình và ta của Chế Lan Viên để cho học sinh thấy được mối quan hệ giữa người đọc
(mình) và nhà văn (ta) ở hai câu đầu:
Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình.
Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!

Câu thơ nói mối quan hệ thân thiết giữa bạn đọc (mình) và người viết (ta).
Chỗ sâu thẳm trong tâm hồn người đọc cũng là chỗ sâu thẳm của tâm hồn mà người
viết tìm đến khai thác, diễn tả. Vì mối quan hệ tương đồng đó, người viết mới có thể
tiêu biểu cho tâm hồn dân tộc, có thể sáng tác những tráng ca của đất nước.
Có thể phân tích hai câu thơ sau: Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy
Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành
Với hai câu thơ này, Chế Lan Viên nói lên quá trình từ văn bản của nhà văn
đến tác phẩm văn học trong tâm trí người đọc. Viết không phải là nói hết, cạn lời,
cạn ý. Nhà văn cần dành cho người đọc cơ hội tái tạo lại, tưởng tưởng thêm, suy
nghĩ rộng hơn thế giới nghệ thuật được nói đến trong văn bản: từ tro nhen lên thành
lửa từ viên đá dựng nên thành.
Áp dụng phương pháp giảng dạy này giáo viên có thể từ việc phân tích đoạn
trích Hồi trống Cổ Thành giáo viên giúp học sinh hiểu thêm được phần nào đặc điểm
của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Từ bài giảng văn Hoàng Hạc lâu, học sinh
sẽ nắm sơ bộ thế nào là thơ Đường, đặc điểm về số câu, số chữ và kết cấu.
Với phương pháp diễn giảng học sinh dễ hiểu hơn vì nó gắn liền với việc hình thành
khái niệm trừu tượng gắn liền chặt chẽ với tư liệu cụ thể.
2.4.5. Phương pháp nêu vấn đề
a. Cơ sở lí luận
Dạy học nêu vấn đề là một hệ thống tình huống có vấn đề được đặt ra gắn liền
với nhau và trong quá trình đó học sinh dưới sự giúp đỡ và lãnh đạo của giáo viên,
nắm được nội dung bộ môn, phương thức học tập và phát triển ở mình những phẩm
chất cần thiết cho một thái độ sáng tạo đối với khoa học và đời sống. Như vậy, dạy
học nêu vấn đề là một quá trình xây dựng và giải quyết một cách khéo léo hệ thống
tình huống có vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề với những câu hỏi phải mang tính hệ thống liên tục, dẫn
dắt học sinh từng bước khám phá ra quan điểm tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác
giả. Cho nên quá trình phân tích là quá trình giải quyết từng bước những vấn đề đặt
ra trước học sinh. Mỗi câu hỏi là một cái mốc trong quá trình khám phá đó. Câu hỏi
sau bổ sung cho câu hỏi trước, câu hỏi trước chuẩn bị cho câu hỏi sau, làm thành

13


một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống vấn đề, phản ánh được
bản chất nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Trong việc dạy học các bài lí luận văn học thì phương pháp nêu vấn đề sẽ giúp
học sinh hệ thống lại những kiến thức cũ đã học qua các tác phẩm văn chương cụ
thể, phương pháp này giúp học sinh tư duy một cách lôgic và hệ thống các kiến thức
mình đã học để vận dụng vào việc tìm hiểu các khái niệm lí luận văn học.
Muốn học sinh làm được những điều đó thì giáo viên phải đưa ra những “tình huống
có vấn đề”, sau khi đưa ra được tình huống thì giáo viên phải đưa ra hệ thống câu
hỏi gợi mở để hướng học sinh giải quyết “tình huống có vấn đề” đó.
Tình huống có vấn đề sẽ gợi cho học sinh những khó khăn, những kích thích,
sự tò mò, đem đến nhu cầu cần khám phá các khái niệm về lí luận văn học. Từ đó,
học sinh bắt buộc phải trải qua quá trình suy nghĩ, sự sáng tạo, những suy nghĩ tích
cực phát huy tính chủ động cá nhân. Phương pháp này giúp học sinh chủ động trong
việc lĩnh hội những kiến thức, những nội hàm về các khái niệm lí luận văn học.
b. Cách thực hiện
Để thực hiện được phương pháp nêu trên cần có các điều kiện sau:
Giáo viên phải biết tự mình liên tưởng và đưa ra hệ thống các câu hỏi mang
tính chất gợi mở, tìm các nội dung mà học sinh cần nắm được có liên quan đến đến
vấn đề mà giáo viên đã đưa ra. Giúp học sinh xác định được mục đích của vấn đề
đang tìm hiểu. Giáo viên hướng dẫn để học sinh biết tự mình liên tưởng và biết tận
dụng nhiều mảng kiến thức có liên quan để từ đó xác định được trọng tâm giải quyết
vấn đề về các kiến thức lí luận.
Để giúp học sinh giải quyết những tình huống có vấn đề ngoài việc giáo viên
đưa ra một hệ thống câu hỏi gợi mở thì giáo viên cũng cần phải cho học sinh thực
hành các bài tập ứng dụng, những câu hỏi ứng dụng trực tiếp qua các giờ giảng văn,
lịch sử văn học để học sinh có thể dễ dàng hơn trong việc giải quyết các tình huống
mà giáo viên đưa ra.

Các khái niệm như: sử thi, nhân vật anh hùng ca chỉ được học sinh thực sự
hiểu thông qua các bài giảng về sử thi Ấn Độ, về I-li-at và Ô-đi-xê ở lớp 10. Thông
qua việc dạy văn học dân gian và văn học cổ điển Việt Nam, giáo viên sẽ kết hợp
việc đưa ra các câu hỏi để học sinh so sánh về các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, ước lệ,
tượng trưng, điển cố… giữa văn học dân gian và văn học cổ điển. Bằng những cách
như thế sẽ giúp học sinh hiểu về các kiến thức lí luận một cách nhanh nhất. Hay ở
lớp 12, cùng với việc dạy học văn học hiện đại Việt Nam và thế giới, giáo viên sẽ
đưa ra các vấn đề về thể loại thơ, tiểu thuyết, kịch, các thể kí… các câu hỏi để học
14


sinh tìm hiểu về các khái niệm về phong cách và các kiểu sáng tác hiện thực, lãng
mạn và các khái niệm liên quan tới vấn đề lịch sử văn học.
Từ việc đưa học sinh về các tác phẩm văn học cụ thể, giáo viên sẽ giúp học
sinh dễ hình dung ra các kiến thức về lí luận văn học rất gần gũi với các tác phẩm
văn chương. Có như vậy khi sử dụng phương pháp nêu vấn đề mới đạt được hiệu
quả.
Tuy nhiên không phải khi dạy bất kì bài nào về văn bản lí luận giáo viên sử
dụng phương pháp này cũng mang lại hiệu quả cao. Đối với những bài kiến thức có
tính chất trừu tượng, học sinh khó nắm bắt, nếu không kết hợp với phương pháp diễn
giảng của giáo viên thì học sinh rất khó nắm được bài. Phương pháp này chỉ phù hợp
với những văn bản lí luận mà ở đó học sinh đã có một nền tảng về kiến thức cũ, giáo
viên chỉ đưa ra tình huống có vấn đề và hệ thống câu hỏi hướng dẫn thì học sinh mới
hiểu được các kiến thức về lí luận.
Ví dụ: Khi dạy bài “Quá trình văn học và phong cách văn học”, giáo viên áp
dụng phương pháp nêu vấn đề bằng cách đưa ra một tình huống khơi gợi học sinh
tìm hiểu như sau: Đối với việc tìm hiểu khái niệm “Quá trình văn học” giáo viên nêu
câu hỏi: Tại sao khi tiến hành xem xét một hiện tượng văn học cụ thể nào đó, chúng
ta cần phải xác định đúng vị trí của nó trong quá trình văn học?
Việc xác định chính xác có ý nghĩa như thế nào?

Giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh giải quyết câu
hỏi vấn đề đã nêu:
Câu 1: Văn học là gì?
Câu 2: Lịch sử văn học khác với quá trình văn học như thế nào?
Câu 3: Bản thân văn học và toàn bộ đời sống văn học khác nhau như thế nào?
Câu 4: Giữa văn học và lịch sử có mối quan hệ ra sao?
Câu 5: Tại sao để hiểu được bản chất của một hiện tượng văn học nào đó thì
chúng ta phải tìm hiểu những thay đổi trong các thời kì lịch sử?
2.4.6. Phương pháp trực quan
a. Cơ sở lí luận
- Trực quan là hoạt động quan sát và nhận thức trực tiếp từ những sự vật, hiện
tượng, con người… cụ thể hoặc các yếu tố phi ngôn ngữ như ánh mắt, điệu bộ, cử
chỉ, nụ cười, nét mặt… trước khi trải qua phương pháp suy luận của lí trí. Đó là
những cơ sở làm cho học sinh khi quan sát có được những hình ảnh cụ thể từ chính
những điều đã quan sát hay nhận thức được.
15


- Phương pháp trực quan trong việc dạy các bài học lí luận văn học là một
phương pháp tương đối quan trọng để thực hiện thao tác quan sát và nhận thức các
vấn đề lí thuyết và thực hành nhằm thực hiện hoạt động tiếp nhận văn bản và hoạt
động tìm hiểu các khái niệm lí luận.
- Cụ thể hơn, phương pháp trực quan có thể được xem xét là một phương
pháp học lí luận mà học sinh sử dụng để tận mắt chứng kiến một sự vật, hiện tượng
nào đó, để tìm hiểu một vấn đề, tìm kiếm một ý tưởng, hay một thái độ… thông qua
phương pháp quan sát và trình bày trực quan.
- Giáo viên sử dụng phương pháp trực quan chủ yếu là phục vụ cho vấn đề
thực hành như: tìm dẫn chứng chứng minh cho một khái niệm lí luận văn học, hay
thực hành các ý tưởng, sắp sếp các sự kiện về kiến thức văn học sử, các trào lưu văn
học… thông qua sử dụng thao tác quan sát để trực tiếp nhìn thấy sự vật, hiện tượng

hoặc nghiên cứu một vấn đề nào đó về lí luận văn học. Nếu như học sinh thực hiện
hoạt động quan sát tốt thì mới có thể nắm vững được hình thức, đặc điểm, tính chất
của sự vật, hiện tượng… rồi mới có thể tìm ý, nắm bắt các ý tưởng có liên quan tới
những kiến thức đó. Vì vậy, phương pháp này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hoạt động tiếp nhận các bài học lí luận văn học.
b. Cách thực hiện
- Khi thực hiện phương pháp này, giáo viên khi đưa ra những dẫn chứng, hình
ảnh cụ thể để giải thích minh họa cho các khái niệm lí luận phải thật chính xác và
khoa học. Các nội dung giáo viên sử dụng, hỗ trợ cho bài giảng phải có thực và
không sai lệch. Đồng thời khi sử dụng phương pháp trực quan, giáo viên cũng phải
chú ý tránh đưa ra những hình ảnh minh hoa, những ý kiến làm học sinh phân tán tư
tưởng không chú ý tới phần trọng tâm của phương tiện trực quan.
- Để thực hiện được phương pháp này giáo viên phải biết tạo thói quen quan
sát cho học sinh như: tìm hiểu về hình thức các sự vật, hiện tượng thật hoặc là các sự
vật, hiện tượng tượng trưng (sơ đồ, đồ thị…) hoặc các sự vật tạo hình (tranh ảnh,
phim, mô hình…) để có cơ sở tìm hiểu các kiến thức lí luận.
- Khi đưa ra các dữ liệu để học sinh quan sát giáo viên hướng dẫn học sinh các
thao tác quan sát: Học sinh phải luôn luôn thực hiện quan sát kết hợp với thực hiện
ghi chép, tích lũy dữ liệu.
- Trên cơ sở đó học sinh sẽ tự tìm được nhiều ý tưởng, những dẫn chứng, luận
cứ chứng minh cho một hiện tượng văn học.
Ví dụ: Khi dạy bài“Giá trị văn học”, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ để hướng
dẫn học sinh tiếp cận các giá trị văn học một cách cụ thể và dễ hiểu hơn. So với
16


phương pháp diễn giảng thì đối với bài này giáo viên sử dụng phương pháp trực
quan sẽ mang lại kết quả cao hơn. Để hướng học sinh tìm hiểu khái niệm về giá trị
văn học, giáo viên đưa ra sơ đồ sau:
Nhà văn== ====è tác phẩm =====è bạn đọc

Với sơ đồ này giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị văn học là sản
phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc sống
con người. Nhà văn thông qua hiện thực cuộc sống, thể hiện quan điểm của mình
bằng tác phẩm. Bạn đọc muốn tìm hiểu đánh giá nhà văn phải tìm hiểu thông qua tác
phẩm văn học của nhà văn đó. Giá trị của tác phẩm văn học chính là những điều còn
đọng lại ở bạn đọc khi tìm hiểu về tác phẩm đó.
2.4.7. Chú trọng việc kiểm tra, đánh giá học sinh sau mỗi bài học lí luận
văn học.
- Mục đích: Kiểm tra, đánh giá được mức độ nắm bắt kiến thức về bài học lí
luận văn học; từ đó giáo viên xác định nguyên nhân do đâu mà chất lượng làm bài
tập của học sinh chưa cao.
- Hình thức: Kiểm tra vấn đáp, kiểm tra viết 15 phút.
Ví dụ: Học xong bài Một số thể loại văn học: Kịch, nghị luận ở lớp 11 giáo viên có
thể giao bài tập cho học sinh làm để đánh giá: Em hãy phân tích xung đột kịch trong
đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.
Hoặc học xong bài Văn bản văn học ở lớp 10 có thể ra đề bài kiểm tra 15 phút: Em
hãy phân tích tầng hàm nghĩa của bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Như vậy, sau một, hai lần kiểm tra, học sinh với tâm lí muốn giành điểm cao
trong học tập chắc chắn sẽ có động lực trong học tập các bài lí luận văn học. Qua
việc đánh giá học sinh, giáo viên cũng tự rút ra bài học kinh nghiệm trong việc dạy
các bài học lí luận văn học.
2.5. Kết quả áp dụng sáng kiến
Trong năm học 2018 - 2019 tôi dạy 2 lớp 10A và 10E, qua đối chiếu so sánh
tôi thấy: Lớp 10A dạy theo cách truyền thống (lớp đối chứng), lớp 10E đã bước đầu
áp dụng đổi mới và áp dụng đề tài này (lớp thực nghiệm), qua kết quả bài kiểm tra
học kì 2 năm học 2018 - 2019 cho kết quả như sau:

Điểm

Lớp thực nghiệm 10B1

Số lượng
Tỉ lệ (%)
17

Lớp đối chứng 10B2
Số lượng
Tỉ lệ (%)


9-10
7-8
5-6
4 trở xuống
Tổng

1
14
26
3
44

2,3
31,8
59,1
6,8
100

0
8
28

6
42

0
19
66,7
14,3
100

Nhận xét:
- Điểm khá, giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng lần lượt là
34,1% so với 19 %.
- Điểm trung bình và yếu ở lớp đối chứng cao hơn so với lớp thực nghiệm lần
lượt là 65,9 % so với 81 % .
- Số bài yếu ở lớp thực nghiệm ít hơn lớp đối chứng.
- Về kĩ năng nhìn chung cả hai lớp đều nắm được các kĩ năng cơ bản nhưng ở
lớp thực nghiệm khả năng vận dụng các kĩ năng vào viết bài tốt hơn so với lớp đối
chứng.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
18


- Các bài học về lí luận văn học ở bậc THPT là những bài khó, khô khan và học
sinh thường không thích học, tiếp thu chậm.
- Để dạy tốt một bài lí luận văn học trong môn Ngữ văn ở bậc học THPT không
hề đơn giản, đòi hỏi người giáo viên phải nắm chắc kiến thức lí luận văn học, có
phương pháp phù hợp, biện pháp cụ thể vận dụng vào từng đối cụ thể.
- Có thể vận dụng các biện pháp: Xác định đặc điểm bài học; hướng dẫn học sinh

học ở nhà; sử dụng phương pháp dạy học phù hợp và chú trọng việc đánh giá, kiểm
tra để hướng dẫn để nâng cao chất lượng các bài học lí luận văn học của học sinh.
- Phải kiên trì thực hiện và có những điều chỉnh cụ thể theo từng đối tượng trong
từng năm học để học sinh và giáo viên cùng chiếm lĩnh các kiến thức của bài học
lí luận văn học.
2. Kiến nghị - đề xuất
2.1. Đối với các cấp lãnh đạo, quản lí giáo dục
-Tăng thời lượng dạy bài học lí luận văn học trong chương trình giáo dục môn
Ngữ văn sau năm 2019.
- Trong phân phối chương trình nên dạy bài học lí luận văn học vào đầu hoặc
giữa mỗi học kì để tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh và giáo viên hiểu kĩ hơn, sâu
hơn, hứng thú và vận dụng tích hợp trong các bài học tiếp theo.
- Mạnh dạn đưa những câu hỏi có nội dung về lí luận văn học vào các đề thi
quốc gia như thi tốt nghiệp THPT quốc gia, thi học sinh giỏi…
2.2. Đối với giáo viên
- Giáo viên cần tăng cường thời gian đọc nhiều tài liệu về kiểu bài lí luận văn
học, kiên trì áp dụng các biện pháp để hướng dẫn học sinh học các bài lí luận văn
học.
2.3 Đối với học sinh.
- Phải biết phát huy kiến thức trong nhà trường và trong cuộc sống để so sánh,
phát triển, vận dụng vào bài học sao cho phong phú, sâu sắc, đầy đủ, cô đọng nhất.
- Phải chủ động, mạnh dạn đề xuất chính kiến của mình, có thể đúng hoặc
chưa đúng, miễn là nó thuyết phục người đọc bằng những lí lẽ xác đáng.
Dạy học là công việc đòi hỏi ở người thầy ý thức học tập và vươn lên không
ngừng. Trên đây là một vài biện pháp đã được áp dụng vào thực tế và có hiệu quả.
Song đó chỉ là ý kiến chủ quan chắc chắn còn hạn chế, khiếm khuyết. Tôi mong
được đồng nghiệp góp ý để đề tài được phong phú, hoàn thiện và áp dụng vào thực
tế giảng dạy đạt kết quả cao.
19



Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Như Thanh, ngày 18 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Trần Minh Quế
----------------------------------------------------------------------

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phương pháp dạy học văn - Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn
20


2
3
4
5
6
7
8


Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996
Từ điển thuật ngữ văn học - Chủ biên: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1999
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp
10,11,12 - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục Việt Nam 2010
Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10,11,12 môn
Ngữ văn - Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử và các tác giả khác - NXB
Giáo dục 2008
Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ, NXB Đà Nẵng, 2002
Phân phối chương trình môn Ngữ văn - Sở Giáo dục đào tạo Hải
Dương năm 2011
Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12 - tập 1,2 - Nhiều tác giả - NXB
Giáo dục 2008
Sách giáo viên Ngữ văn 10,11,12 - tập 1,2 - Nhiều tác giả - NXB
Giáo dục 2008

21



×