Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN hướng dẫn HS vận dụng trí thức và kỉ năng tiếng việt vào đọc hiểu các trích đoạn truyện kiều lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.98 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC
1
1. PHẦN MỞ ĐẦU:.............................................................................................2
1.1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................3
2. PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................4
2.1. Cơ sở lý luận..............................................................................................4
2.1.1. Quan niệm về tri thức và kĩ năng tiếng Việt trong dạy học đọc hiểu....4
2.1.2. Tri thức và kĩ năng tiếng Việt– cơ sở tiếp cận các trích đoạn Truyện
Kiều trong SGK Ngữ văn THPT.....................................................................5
2.2.Thực trạng..................................................................................................6
2.2.1. Ưu điểm................................................................................................6
2.2.2. Một số tồn tại........................................................................................6
2.2.3. Thực trạng về cách tiếp cận của HS...................................................7
2.3 Các biện pháp cách thức ,tổ chức hướng dẫn học sinh vận dụng kĩ
năng tiếng Việt vào đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều............................9
2.3.1. Phương pháp giải nghĩa từ..................................................................9
2.3.2. Phương pháp giảng bình...................................................................10
2.3.3. Phương pháp giao tiếp.......................................................................12
2.3.4. Kết hợp các phương pháp, hình thức dạy học..................................13
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm......................................................14
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ............................................................................17
3.1. Bài học kinh nghiệm:..............................................................................17
3.2.Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm........................................................17
3.3. Khả năng ứng dụng và triển khai..........................................................17
3.4. Những kiến nghị đề xuất.........................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................19



1


1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài
1.1.1 Môn Ngữ văn là “môn học nền tảng về kiến thức và công cụ giao
tiếp, có vị trí quan trọng trong các môn học, góp phần tạo nên trình độ văn hóa
của con người… Mục tiêu chung của môn Ngữ văn ở THPT là nâng cao thêm
một bước năng lực ngữ văn của HS (HS), bao gồm năng lực đọc hiểu các văn
bản thường gặp (văn, thơ, truyện…), năng lực viết một số văn bản thông dụng
và năng lực nói trước công chúng.
1.1.2 Do đó, môn Tiếng Việt có vai trò quan trọng. Khi năng lực ngôn ngữ
được xác định là một trong những năng lực cốt lõi cần có ở đối tượng HS đã
hoàn thành các bậc học phổ thông, phân môn Tiếng Việt càng cần được xem là
phân môn đóng vai trò chủ đạo trong việc rèn luyện, phát triển năng lực này
1.1.3 Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu của môn Ngữ văn là hình thành và rèn
luyện cho HS năng lực đọc hiểu văn bản văn học: từ câu chữ đến hiểu hình
tượng, từ hiểu hình tượng đến cách nắm bắt, khái quát tư tưởng tác phẩm, đặc
trưng thể loại, giá trị thẩm mỹ, giá trị lịch sử. Các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt
không chỉ là công cụ quan trọng của việc tìm hiểu, phân tích và khám phá văn
bản văn học, mà cũng là công cụ cho việc làm văn. Văn bản văn học là một công
trình nghệ thuật ngôn từ, vì thế, muốn khám phá nó, trước hết phải có những
hiểu biết về tiếng Việt. phải nắm chắc và giỏi tiếng Việt mới có thể hiểu, phân
tích và hiểu hết cái hay, cái đẹp của văn học thông qua ngôn từ của văn bản.
Cũng phải giỏi tiếng Việt mới có thể diễn đạt (nói hoặc viết) một cách rõ ràng,
sáng sủa những hiểu biết và cảm nhận của bản thân về cái hay, cái đẹp của tác
phẩm văn học cho người khác hiểu.
1.1.4 Muốn có năng lực đọc hiểu văn bản, cần phải có tri thức và kĩ năng
về tiếng Việt, phải trau dồi vốn từ, nắm vững các loại phong cách biểu đạt…Đây

chính là “chìa khóa” để GV hướng dẫn HS tiếp cận tác phẩm văn học bằng con
đường khoa học, chính xác và hợp lý nhất. Tri thức và kĩ năng tiếng Việt là cơ sở
phụ vụ cho đọc – hiểu và làm văn, như: nghĩa của từ, nghĩa của câu, của đoạn,
rèn luyện sử dụng câu đơn, câu phức, rèn luyện kĩ năng viết theo các phong cách
chức năng ngôn ngữ… Chính vì thế, vận dụng tri thức tiếng Việt trong dạy học
Ngữ văn nói chung, phân tích tác phẩm văn học nói riêng là yêu cầu có tính
nguyên tắc, vừa cụ thể hóa quan điểm tích hợp trong dạy học, vừa thể hiện được
năng lực đọc hiểu văn bản của cả GV và HS.
1.1.5 Trong chương trình (CT), sách giáo khoa SGK) Ngữ văn THPT,
phần văn học trung đại chiếm một số lượng tiết khá lớn, chủ yếu được phân bố ở
lớp 10 và học kì 1, lớp 11với đầy đủ các thể loại, từ thơ trữ tình đến cáo, kí, văn
tế, hịch, sớ, chiếu, tấu, biểu… Ở thể loại trữ tình, Truyện Kiều (Nguyễn Du)
được tuyển chọn và giới thiệu để hướng dẫn đọc hiểu cho HS, ngoài bài khái
quát về tác giả, tác phẩm, gồm 4 trích đoạn: Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí
khí anh hùng và Thề nguyền (Đọc thêm). Trong CT Ngữ văn THCS, Truyện
Kiều cũng đã được dạy học với 3 trích đoạn: Cảnh ngày xuân, Chị em Thúy
Kiều, Tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích. Điều đó đã nói lên được ví trí
của Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều trong nền văn học Việt Nam nói chung
2


và văn học trung đại nói riêng, một giai đoạn được mệnh danh là “thời đại một
đi không trở lại”. Việc tiếp cận các đoạn trích Trao duyên từ góc độ ngôn ngữ là
cách tiếp cận mang tính khao học, hệ thống.
1.1.6 Cho đến thời điểm hiện tại, quan điểm tích hợp không còn là vấn đề
mới mẻ, đã trở thành nguyên tắc chi phối đến việc lựa chọn cách thức, biện
pháp, phương pháp đọc hiểu văn bản nhưng thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Trong
dạy học các trích đoạn Truyện Kiều, việc vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt
nhằm khai thác vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của tác phẩm còn nhiều bất cập,
nhiều khi khiên cưỡng, áp đặt, không thể hiện được hướng khai thác theo đặc

trưng thể loại, đặc biệt là thể loại văn học trung đại vốn xuất hiện nhiều từ ngữ
Hán Việt, các điển cố, điển tích, các thành ngữ…
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài:
Hướng dẫn HS vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt vào đọc hiểu các trích
đoạn Truyện Kiều ở lớp 10 nhằm đưa ra một số kinh nghiệm trong việc sử
dụng những nguyên tắc, cách thức, biện pháp khi vận dụng tiếng Việt vào đọc
hiểu và khắc phục những bất cập của GV THPT khi dạy học Ngữ văn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đưa ra một số kinh nghiệm trong việc lựa chọn, xây dựng các biện pháp,
cách thức tổ chức hướng dẫn HS lớp 10 vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt
vào đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc hướng dẫn HS lớp 10 vận dụng
tri thức và kĩ năng tiếng Việt trong dạy học các trích đoạn: Trao duyên, Nỗi
thương mình, Chí khí anh hùng và Thề nguyền trong Truyện Kiều.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
.- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Chúng tôi tiến hành tìm hiểu,
nghiên cứu các tài liệu lí thuyết về tri thức và kĩ năng tiếng Việt, lí thuyết Đọc
hiểu và việc vận dụng các lí thuyết đó trong phân tích văn học để làm tiền đề, cơ
sở cho việc triển khai đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Trong quá trình hoàn thiện đề tài,
chúng tôi luôn ý thức việc kết hợp lí thuyết đi đôi với thực tiễn, tiến hành tìm
hiểu thực trạng dạy học các đoạn trích thông qua việc tham khảo ý kiến GV và
HS từ phiếu trưng cầu.
- Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại trường
thực nghiệm với giáo án đã đề xuất và thông qua đề kiểm tra để nhằm tìm hiểu
khả năng thực thi của đề tài.

3



2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Quan niệm về tri thức và kĩ năng tiếng Việt trong dạy học đọc
hiểu
2.1.1.1. Tri thức tiếng Việt
- Khái niệm tri thức liên quan trực tiếp đến khái niệm năng lực. Tuy có
nhiều quan niệm khác nhau, nhưng tựu trung, năng lực được hiểu là: 1) Sự nắm
vững tri thức; 2) Sự thuần thục kỹ năng, kỹ xảo.
Nói đến năng lực của con người không thể không nói đến năng lực ngôn
ngữ, bao gồm những tri thức về đơn vị, cấu trúc, quy tắc hành dụng của ngôn
ngữ và kĩ năng hiện thực hóa các tri thức nói trên trong giao tiếp bằng ngôn
ngữ nhằm đạt một hiệu quả giao tiếp tối ưu trong những tình huống giao tiếp
nhất định.
- Tri thức tiếng Việt bao gồm những kiến thức lí thuyết chung và kiến thức thuộc
các bình diện cụ thể. Kiến thức lí thuyết chung là những hiểu biết về lịch sử
tiếng Việt, loại hình của tiếng Việt, các yêu cầu sử dụng tiếng Việt... Tri thức
thuộc các bình diện cụ thể là hiểu biết về ngữ âm, chính tả, vốn từ ngữ và cách
sử dụng các quy tắc ngữ pháp và cách tạo câu, các loại phong cách chức năng
của văn bản.
2.1.1.2. Kĩ năng tiếng Việt
- Kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách lựa
chọn và vận dụng tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với
điều kiện cho phép. Kĩ năng biểu hiện trình độ các thao tác tư duy, năng lực
hành động và mặt kĩ thuật của hành động.
Như vậy, kĩ năng tiếng Việt (gọi đầy đủ là kĩ năng sử dụng tiếng Việt),
chính là mọt trong hai thành tố chính của năng lực tiếng Việt. Đây là nhiệm vụ,
là mục tiêu của việc dạy học tiếng Việt, ở các cấp học khác nhau. Tương ứng
với các bình diện ngôn ngữ là những kĩ năng: dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, lập
luận... Tương ứng với hai dạng tồn tại của ngôn ngữ, người ta nói đến các kĩ

năng: nghe, nói, đọc, viết.
- Kĩ năng đọc, theo dự thảo Chương trình Ngữ văn của Bộ giáo dục &
Đào tạo 2018 là: “không chỉ hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, những đặc
điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản, mà còn chú trọng đến yêu cầu
phân tích, đánh giá nội dung, ý nghĩa và hình thức biểu đạt của văn bản, nhất là
những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu loại văn bản; tập trung
vào yêu cầu đọc hiểu sâu, giúp HS tiếp nhận được các văn bản phức tạp hơn”
- Kĩ năng viết được phát triển trên cơ sở tập trung hơn vào văn bản nghị
luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp nhưng vẫn phù hợp với
những vấn đề mà HS THPT thường gặp trong học tập và đời sống; biết cách tạo
lập và trình bày các văn bản điện tử với yêu cầu cao hơn cấp THCS về nội dung
và hình thức thể hiện” .
- Về kĩ năng nói và nghe, chương trình yêu cầu HS nói và nghe linh hoạt;
biết tham gia tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau.
4


Qua thực hành giao tiếp, “HS nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một
cuộc tranh luận; nắm bắt và đánh giá được quan điểm trái ngược với mình để
tranh luận một cách hiệu quả; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp;
có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung cũng như hình thức
biểu đạt của bài thuyết trình; có nhu cầu, hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính
trong tranh luận” .
2.1.2. Tri thức và kĩ năng tiếng Việt– cơ sở tiếp cận các trích đoạn
Truyện Kiều trong SGK Ngữ văn THPT
2.1.2.1. Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu được sử dụng trong các tác phẩm văn
chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ
của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ
ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ. .

Nhìn chung, ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ trong tác phẩm chương) có những
đặc điểm riêng, liên quan đến chức năng thẩm mỹ.
-Thứ hai, ngôn ngữ nghệ thuật mang tính truyền cảm. Ngôn ngữ nghệ
thuật phải biểu hiện được những cảm xúc của tác giả và truyền đến cho người
đọc những tình cảm như tác giả.
-Thứ ba, ngôn ngữ nghệ thuật mang tính cá thể hóa.
- Thứ tư, ngôn ngữ nghệ thuật mang tính hàm súc.
- Thứ năm, ngôn ngữ nghệ thuật mang tính hệ thống.
- Cuối cùng, ngôn ngữ nghệ thuật mang tính đa phong cách.
2.1.2.2. Tri thức và kĩ năng tiếng Việt với việc đọc hiểu tác phẩm văn
chương
- Không chỉ có vai trò quan trọng với phân môn Tiếng Việt, tri thức và kĩ năng
tiếng Việt còn chi phối trực tiếp đến quá trình Đọc hiểu
Như vậy, để đọc hiểu văn bản văn học, HS phải có tri thức và kĩ năng tiếng Việt.
Trong lí thuyết đọc hiểu văn bản, bước đầu tiên, quan trong nhất chính là việc
hiểu nghĩa của các từ, tức là “ nhận ra kí hiệu và nghĩa của kí hiệụ; dùng từ, đặt
câu, thậm chí những đặc điểm về phong cách nghệ thuật của nhà văn cũng được
khám phá một cách kĩ lưỡng. Đó chính là vai trò quan trọng của việc hướng dẫn
HS vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt trong dạy học đọc hiểu nói chung,
dạy học các trích đoạn Truyện Kiểu trong SGK Ngữ văn THPT nói riêng.
2.1.2.3. Vấn đề tích cực hóa hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương
của HS THPT
Để vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt khi tiếp cận các đoạn
trích Truyện Kiều, các biện pháp “đọc” văn bản cần được vận dụng đúng mức
trong mỗi công đoạn của quy trình dạy học. Tích cực hóa hoạt động của HS
trong giờdạy Truyện Kiều nhằm hướng cho HS chủ động, tích cực tìm hiểu văn
bản dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. GV phải biết khích thích hứng
thú, khơi dậy những sáng tạo trong tiếp nhận của HS để khắc phục khoảng cách
5



thẩm mĩ giữa bạn đọc HS và văn bản truyện thơ Nôm, giữa thế hệ hiện đại với
văn bản từ thời trung đại.
2.2.Thực trạng
Để thấy được thực trạng dạy học các đoạn trích Truyện Kiều trong CT, SGK
Ngữ văn 10, chúng tôi đã tiến hành làm một cuộc khảo sát nhỏ đối với GV và
HS ở một số trường THPT. Kết quả khảo sát cho thấy một vài vấn đề như sau:
2.2.1. Ưu điểm
- Khi khai thác các đoạn trích này, đa phần các GV thường khai thác theo
bố cục. Đó là hướng đi đúng đắn với mục đích giúp HS dễ nắm bắt nội dung,
nghệ thuật tác phẩm từ việc chia đoạn, phân tích và chỉ ra nội dung nghệ thuật
của từng đoạn. Việc phân tích như vậy đem lại mức độ hiệu quả nhất định. Kết
quả khảo sát cho thấy, 35,6% HS có thể nắm được nội dung nghệ thuật của từng
đoạn trích, 22,4% HS được khảo sát có thể cảm nhận được những đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật, hiểu được giá trị chủ đạo của từng đoạn trích, nhưng bên
cạnh đó, vẫn còn nhiều HS cảm thấy khó hiểu, thắc mắc (42.0%), và không HS
nào trong số được khảo sát nhận thấy mình hình thành được năng lực đánh giá
khái quát, năng lực xâu chuỗi đối sánh sau khi học xong các đoạn trích này.
- Về cách hướng dẫn HS vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt trong dạy
học các trích đoạn Truyện Kiều:
GV cũng đã chú trọng đến việc phân tích những diễn biến nội tâm của
nhân vật Thúy Kiều trong các trích đoạn Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí
anh hùng. Đây là cách giảng dạy đúng hướng. Nội tâm nhận vật được khắc họa
qua nhiều yếu tố nghệ thuật, trong đó có các từ ngữ, các kiểu câu, qua bút pháp
ước lệ, qua các điển tích, điển cố,.. Truyện Kiều là một tác phẩm tự sự, do đó
hình tượng nhân vật luôn gắn liền với một chuỗi những sự kiện, biến cố làm nên
cốt truyện. Tính cách nhân vật trong Truyện Kiều cũng giống như các tác phẩm
tự sự khác, luôn là sự thể hiện toàn diện của con người từ diện mạo bên ngoài
đến suy nghĩ bên trong. Nhưng điểm khác biệt giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du
và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân lại chính là ở chỗ này. Tuy

dựa khá sát vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng Nguyễn Du đã lược
bỏ đi rất nhiều chi tiết để chú ý khai thác tối đa nội tâm nhân vật, đặc biệt là nội
tâm nhân vật Thúy Kiều. Đây chính là một trong những đặc điểm thi pháp nổi
bật của kiệt tác Truyện Kiều.
+ Đa phần GV và HS đều nhận thấy sự cần thiết của việc giải nghĩa từ khi
tiếp cận văn bản các đoạn trích. Và ở phía GV, thời gian dành cho việc giải
nghĩa từ trong các đoạn trích lại rất khác nhau, nhìn chung, họ dành khoảng 5-7
phút cho việc giải nghĩa từ trước khi đi vào phân tích tìm hiểu một đoạn trích.
2.2.2. Một số tồn tại
- Việc vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt để hướng dẫn HS đọc hiểu
các trích đoạn Truyện Kiều chưa đúng với quy trình, hoặc, chỉ dừng lại ở mức độ
chung chung. Điều đó khiến cho việc tiếp cận của HS gặp không ít khó khăn.
Bởi, các trích đoạn Truyện Kiều ở lớp 10 đều tương đối khó, khoảng cách thời
đại, tư duy tiếp nhận của HS với các văn bản văn học trung đại có những yêu
cầu riêng, do đặc điểm thi pháp của tác phẩm quy định.
6


- Và công việc giải nghĩa, giải thích các điển cố, điển tích này của GV
hầu hết đều tách riêng với việc đặt các từ ngữ giải nghĩa trong môi trường hành
chức để hiểu rõ chức năng của từ, mặc dù cũng có GV giải nghĩa từ bằng việc
nói lên nội dung của cả câu chứa từ ngữ đó, song giá trị biểu đạt của từ thì chưa
thực sự được chú ý. Phương pháp dạy học từ lý thuyết trường nghĩa, hoặc, từ
phong cách học, bắt buộc người GV bao giờ cũng phải hướng dẫn HS bắt đầu từ
hệ thống từ ngữ với những ý nghĩa rõ ràng của nó, trên cơ sở đó mới tuần tự chỉ
ra các lớp nghĩa có được do sự phối hợp hay đối lập với ngữ cảnh. Như vậy việc
GV hướng dẫn cho HS giải nghĩa các từ trước khi tìm hiểu nội dung không thể
xem là cách tìm hiểu nội dung câu thơ, đoạn thơ chưa thể hiện được tinh thần
tích hợp và tích cực. Nhìn chung, GV không chú ý tới việc phân tích giá trị của
hệ thống từ ngữ trong mối qua hệ hành chức của nó, tức là trong tình huống giao

tiếp, trong ngữ cảnh.
- Tính chất dàn đều và sự hạn chế về thời lượng các giờ học không cho
phép GV đi vào phân tích cặn kẽ tất cả những từ ngữ khó. Để giúp HS vượt qua
được lớp "rào chắn" từ ngữ trong các trích đoạn Truyện Kiều, người thầy phải có
một cách thức, một phương pháp nào đó. Trên thực tế, GV ít giảng giải từ ngữ
khó cho HS cũng như không thường xuyên kiểm tra việc đọc các chú thích trong
SGK của các em. Có lẽ vì vậy mà HS , với sự áp đặt của người thầy, chỉ nắm
được bài học trên những nét lớn chứ không thực sự hiểu và "cảm" được cái hay,
cái đặc sắc của câu thơ Kiều.
Mang dấu ấn thi pháp văn học trung đại, Truyện Kiều có sự hiện diện của
nhiều từ Hán Việt, nhiều điển cố, thi liệu... xa lạ, khó hiểu đối với HS : "Theo
thống kê của tổ tư liệu Viện Ngôn ngữ thì trong số 3412 từ của Truyện Kiều, có
1310 từ Hán Việt, tức là từ Hán Việt chiếm tỉ lệ 35% trong tổng số từ của tác
phẩm". Nhưng Nguyễn Du, với tài năng của mình, đã sử dụng sáng tạo những
yếu tố ngôn ngữ trên, khiến người đọc, cho dù không thật hiểu những từ Hán
Việt, điển cố, điển tích thì cũng có thể hiểu được nội dung câu thơ. Tuy nhiên,
những số liệu chúng tôi đã trình bày trong phần viết về HS (kể cả trong bài làm
văn của các em), đã chứng minh rằng có rất nhiều HS chẳng những không hiểu
từ ngữ mà còn không hiểu cả nội dung câu thơ Kiều. Là một tác phẩm tự sự
nhưng ngôn ngữ của Truyện Kiều lại là ngôn ngữ thơ ca hết sức tinh tế và giàu
cảm xúc. Sẽ thật lãng phí nếu như GV Văn của chúng ta không biết mang lại
những rung động cho HS qua việc lựa chọn để tập trung phân tích cái đẹp của
một số từ ngữ, câu thơ Truyện Kiều.
2.2.3. Thực trạng về cách tiếp cận của HS
- Khảo sát những giờ học khác, chúng tôi rút ra một kết luận: nhìn chung,
HS ít hứng thú, không hào hứng trong học tập. Điều này được thể hiện ở thái độ
thờ ơ, thụ động, ít phát biểu xây dựng bài, hầu như không thắc mắc ở HS trong
các giờ học. Giờ học vì thế khá đơn điệu và tẻ nhạt, hầu như chỉ có GV hoạt
động.
Chúng tôi đã tiến hành phát các phiếu thăm dò, điều tra ngay sau khi 550 HS lớp

10 học xong các bài học về chuyên mục này. Trước câu hỏi của chúng tôi (Em
không thích học bài, đoạn trích nào? Em hứng thú với đoạn trích nào?)
7


Kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.2.3.1 :Bảng điều tra hứng thú của học sinh khi học các trích
đoạn Truyện Kiều
Tên bài học
HS không thích học
Tỷ lệ %
Nguyễn Du
98
17.8
Trao duyên
97
17.6
Nỗi thương mình
220
40
Chí khí anh hùng
102
18.5
Tổng hợp kết quả
HS trả lời không thích học
479
87.1
HS trả lời thích học
71
12.9

Bảng thống kê trên cho thấy một tỉ lệ lớn HS (87,1%) đã trả lời không
thích học những bài học về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Chỉ có 71 trong số 550
em không có ý kiến ( có thể hiểu là thích học), chiếm một tỉ lệ ít ỏi 12,9%.
Trong các bài học về Nguyễn Du và Truyện Kiều, số HS trả lời không thích học
đoạn trích Nỗi thương mình nhiều nhất (chiếm tỉ lệ 40%). Đặc biệt có một số HS
đã không ngần ngại trả lời: không thích học tất cả những bài học về chuyên mục
này. Đây thực sự là những con số đáng lo ngại.
- HS chưa vượt qua được "rào chắn" của từ ngữ, vì thế chưa thực sự hiểu
và rung cảm với bài học.
Tuy nhiên, ngay cả sau khi đã học xong những bài học về Nguyễn Du và
Truyện Kiều trên lớp, vẫn còn rất nhiều HS thừa nhận rằng mình chưa hiểu nhiều
từ ngữ trong bài học. Để tìm hiểu về thực trạng này, trước tiên chúng tôi lựa
chọn một cách ngẫu nhiên 9 từ ngữ khó (là các từ Hán Việt hay những điển cố,
điển tích: Tống Ngọc, Trường khanh,phong gấm,mưa Sở mây Tần, xuân, cung
cầm, nước cờ, gió tựa, hoa kề) trong trích đoạn Nỗi thương mình sau đó yêu cầu
HS trả lời câu hỏi: "Em còn chưa hiểu từ ngữ nào trong các từ ngữ dưới đây?".
Sau đây là kết quả điều tra:
Bảng 2.2.3.2 :Bảng điều tra học sinh về nghĩa các từ các trích đoạn
Truyện Kiều
Số lượng từ ngữ
Số HS không hiểu Tỷ lệ %
Từ 1 đến 3
301
54.7
Từ 4 đến 5
126
22.9
Từ 6 đến 8
49
8.9

Cả 9
32
5.8
Tổng hợp kết quả
HS không hiểu từ 1đến 9 từ ngữ
HS hiểu cả 9 từ ngữ (không có ý kiến) 508
92.4
42
7.6

8


Nhìn vào kết quả điều tra, chúng tôi thấy vì có 92.4% HS thừa nhận mình
đã không hiểu các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố trong một bài học cụ thể.
Số HS không hiểu từ 1 đến 3 từ chiếm tỉ lệ cao nhất (54.7%). Đặc biệt nghiêm
trọng là đã có 32 HS trả lời không hiểu cả 9 từ ngữ khi được hỏi. Trong số 550
HS tham gia cuộc điều tra, chỉ có 42 em trả lời là hiểu hết 9 từ ngữ được nêu ra,
chiếm tỉ lệ ít ỏi 7.6%. Thực trạng này chắc chắn cũng sẽ xảy ra đối với các bài
học khác trong chuyên mục này. ở đây xuất hiện một mâu thuẫn: mặc dù chưa
hiểu cặn kẽ từ ngữ trong các trích đoạn, HS vẫn trả lời đúng một số nội dung
chính của bài học.
Trên đây chỉ là một số ví dụ tiêu biểu trong nhiều ví dụ chứng minh rằng
việc học chuyên mục "Nguyễn Du và Truyện Kiều" ở HS THPT hiện nay chưa
đạt kết quả như mong muốn. Vấn đề là việc hướng dẫn HS vận dụng tri thức và
kĩ năng tiếng Việt để tiếp cận các trích đoạn còn chưa thực sự chú ý, hoặc, chưa
khoa học.
2.3 Các biện pháp cách thức ,tổ chức hướng dẫn học sinh vận dụng kĩ
năng tiếng Việt vào đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều
2.3.1. Phương pháp giải nghĩa từ

Nghĩa của từ là một vấn đề quan trọng liên quan đến dạy học văn. Theo
tác giả Đỗ Việt Hùng , “nghĩa của từ là toàn bộ nôi dung tinh thần xuất
hiện trong suy nghĩ của một người bản ngữ khi người đó tiếp xúc (tạo lập
hoặc lĩnh hội) với một hình thức âm thanh ngôn ngữ nhất định”. Vì vậy,
khi hướng dẫn HS vận dụng tri thức và kĩ năng khi dạy các trích đoạn
Truyện Kiều trong SGK Ngữ văn 10, chúng ta có thể sử dụng một số cách
giải nghĩa sau:
-“Giải thích nghĩa của từ bằng cách chiết tự:
Đây là cách phân tích các từ thành các từ tố (tiếng). Biện pháp giải nghĩa từ này
thường được sử dụng trong khi dạy các từ Hán Việt. Qua quá trình tiếp xúc ngôn
ngữ hàng nghìn năm giữa hai dân tộc Trung Hoa và Việt Nam, kho từ vựng
Tiếng Việt đã tiếp nhận và sử dụng một số lượng rất lớn các từ ngữ gốc Hán.
Dạy cho HS hiểu và sử dụng vốn từ Hán Việt là đã giải quyết được một bộ phận
kiến thức quan trọng về từ vựng Hán Việt.
Khi giải nghĩa các từ gốc Hán, giáo viên nên tách thành từng yếu tố để
giải nghĩa rồi hợp nghĩa các yếu tố đó lại. Ví dụ: “Tâm sự” (Tâm: lòng; sự: nỗi):
là một từ ghép gốc Hán có nghĩa là nỗi lòng; “Tổ quốc” (Tổ: ông cha ta từ xa
xưa; quốc: nước, đất nước): là từ ghép gốc Hán có nghĩa là đất nước.
Ví dụ:
Từ “tương tư” trong câu thơ: “Giữa đường đứt gánh tương tư” (Trao
đuyên), đọc hiểu là:
Tương: nhớ; tư: lòng. Tương tư có nghĩa là nhớ, nhưng là nhớ da diêt, không
lúc nào nguôi ngoại.
Mệnh bạc, trong câu thơ: Mệnh sao mệnh bạc như vôi
Có nghĩa là số phận mỏng manh, không ra gì.
- Giải nghĩa từ bằng cách đặt từ vào văn cảnh mà từ xuất hiện.
Ví dụ:
9



Giải nghĩa từ “phụ” trong câu thơ: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Phụ: làm trái với điều mình đã hẹn ước, đã thề nguyền, hoặc phản lại công
ơn, sự tin cậy của người khác. (phụ lời hẹn ước, phụ lòng cha mẹ).
Trách ai tham phú phụ bần, Tham xa mà bỏ nghĩa gần thuở xưa." (Ca
dao).
Tuy nhiên, Kiều không hề phụ Kim Trọng. Bởi, vì hoàn cảnh, Kiều đành hi sinh
chữ tình, làm tròn chữ hiếu. Nỗi đau ấy, Kiều đã thể hiện qua việc trao duyên,
trao kỉ vật lại cho em, nhưng lòng thì canh cánh với Kim Trọng. Như vậy, trong
hoàn cảnh ấy, Kiều quên đi nỗi đau của mình mà vẫn nhớ, nghĩ, đau cho Kim
Trọng. Điều đó làm sáng lên nhân cách cảu Kiều trong đoạn trích này.
- Giải nghĩa từ bằng cách đối chiếu, so sánh với những từ đồng nghĩa hoặc
trái nghĩa.
Ví dụ:
Giải nghĩa từ “cậy” trong quan hệ so sánh với từ “nhờ”; từ “chịu” trong quan hệ
với từ “nhận”.
Hoặc, từ “Xăm xăm” trong câu thơ “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”.
Xăm xăm có nghĩa là dáng đi nhanh, liền một mạch thẳng tới nơi đã định. Câu
thơ giúp hình dung được bước chân của Kiều, đồng thời cũng thể hiện được thái
độ dứt khoát của Kiều. Đó là tình yêu ban đầu, say mê, nông nổi nhưng rất mãnh
liệt, vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến.
- Giải nghĩa từ bằng cách định nghĩa khái niệm nhằm nêu lên những nét
đặc trưng trong nghĩa của từ. Khi định nghĩa, những nét đặc trưng này được sắp
xếp theo trình tự nét chung, khái quát nói trước, nét riêng, cụ thể nói sau.
Trong Truyện Kiều, sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt, các từ cỏ hoặc, các điển cố,
điển tích. Điều đó đòi hỏi GV phải sử dụng phương pháp này khá nhiều. Điều đó
đòi hỏi GV phải sử dụng từ điển như một cẩm nang quan trọng. PP này dựa vào
cách miêu tả ngôn ngữ như các nhà từ điển học vẫn thường sử dụng trong các từ
điển giải thích. PP này, có thể cung cấp cho HS một cách tương dối đầy đủ các
nét nghĩa của từ. Nhưng cái khó là diễn đạt bằng lời một cách gẫy gọn, khúc
chiết một nghĩa của từ không phải là việc dễ dàng và không phải từ nào cũng có

thể nêu ra những nghĩa biểu niệm bằng lời.
Trong quá trình dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều, phương pháp giải
nghĩa từ giữ vai trò quan trọng, được vận dụng một cách triệt để trong các tiết
dạy. PP này giúp GV phân tích ngọn ngành, sáng tỏ vấn đề chữ nghĩa.
2.3.2. Phương pháp giảng bình
Bản chất lao động của GV trong dạy học tác phẩm văn chương là dạy cho HS
cách Đọc hiểu văn bản, cách biến văn bản trở thành tác phẩm sinh động, hấp
dẫn, đa chiều qua quá trình chiếm lĩnh giá trị ngôn ngữ, giá trị tác phẩm bằng
cách đọc tích cực, sáng tạo, trãi nghiệm, phân tích, cắt nghĩa, lí giải, tổng hợp,
đánh giá, vận dụng... Từ đó, GV hình thành ý thức tự nhận thức, tự phát triển
cho HS.
Bản chất của giờ đọc hiểu không chỉ dừng lại ở việc tổ chức đặt câu hỏi
phát vấn, gợi mở, đàm thoại về vấn đề phát huy tính tích cực chủ động của HS
mà còn đảm bảo đúng đặc trưng của giờ dạy. Không những thế, giờ đọc hiểu còn
10


phải đảm bảo yêu cầu thể loại. Vì vậy, ngoài các PP nói trên, trong tiết dạy Đọc
hiểu cần sử dụng PP giảng bình phù hợp, hiệu quả.
Giảng bình vốn là một PPDH truyền thống nhưng nó không lỗi thời so với xu
thế hiện nay. Trong giờ Đọc hiểu văn bản nếu thiếu đi những lời giảng giải sâu
sắc, lời bình đắt giá thì chưa thể nói là giờ dạy thành công. Người GV biết bình
và bình giỏi sẽ gây dựng được niềm đam mê, sự hứng thú cho HS trong giờ học,
tạo nên một giờ học thành công. Đây là PP đặc thù của cảm nhận và phân tích
chiếm lĩnh tác phẩm.
Những cách thức giảng bình chủ yếu:
- Lời bình có khi bắt đầu là một lời tâm sự, một câu chuyện tưởng là chủ quan
nhưng chúng lại có sức khêu gợi rất sâu xa.
Ví dụ:
Khi bình giảng về hình ảnh Từ Hải trong trích đoạn Chí khí anh hùng,

GV có thể khai thác hình tượng Từ Hải qua câu chuyện về nhân vật Nguyễn
Huệ. Bởi, Từ Hải là hình ảnh được xây dựng từ nguyên mẫu Nguyễn Huệ, tất
nhiên là bằng bút pháp lãng mạn hóa, thậm chí thần thoại hóa. Điều đó sẽ giúp
HS cảm nhận về vẻ đẹp dứt khoát, với lý tưởng cao đẹp của người anh hùng.
- Bình giảng theo cách so sánh, đối chiếu tương đồng hoặc tương phản.
Ví dụ:
Khi bình về số phận đau khổ, bất hạnh của Thúy Kiều trong trích đoạn
Nỗi thương mình, GV có thể liên hệ với Tiểu Thanh (Đọc Tiểu Thanh kí –
Nguyễn Du), người chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc – Đặng trần Côn). Đây là
số phận chung của những người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh trong chế độ
phong kiến. Điều đó cũng giúp cho HS hiểu hơn quan niệm, tấm lòng nhân đạo
của Nguyễn Du.
-Lời bình có khi bắt đầu từ một lời bình trong tác phẩm.
Ví dụ:
Mở đầu tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Chữ tài, chữ mệnh khéo
là ghét nhau”, từ câu nói của tác giả này, chúng ta lấy nó để bình giảng về cuộc
đời của Thúy Kiều, cụ thể là tâm trạng của Kiều trong đoạn trích Trao duyên,
hoặc, Nỗi thương mình.
Thao tác bình giảng trên lớp tỏ ra có ưu thế hơn so với PP phân tích, diễn giảng
theo lối truyền thống. Dạy theo PP bình giảng, cần phải tạo môi trường thân
thiện, hướng HS cùng tham gia cảm thụ tác phẩm theo định hướng và những gợi
ý từ GV.
Con đường đi vào tác phẩm nhất thiết phải từ đọc, gắn liền với việc đọc.
Đọc phải là một hình thức hoạt động có tính chất đặc thù của nhận thức về văn
học. Tiếng nói của nhà văn gửi gắm cho bạn đọc thông qua hệ thống ngôn ngữ
kết dệt nên hình tượng của tác phẩm, nhưng trước mắt bạn đọc vẫn chỉ là những
ký hiệu chết. Đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn
định gửi gắm. Âm vang của lời đọc kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và
tái hiện hình ảnh. Cảm xúc bắt đầu từ đọc và được duy trì phát triển trong quá
trình đọc. Nhập thân vào tác phẩm chỉ có thể bắt đầu từ đọc diễn cảm. Mỗi một

bộ môn có một phương pháp tiếp cận đối tượng, giảng dạy riêng. Với Văn học 11


bộ môn vừa mang tính chất khoa học vừa mang tính chất nghệ thuật nên phương
pháp dạy học môn văn càng mang nhiều đặc thù hơn.
Ví dụ:
Khi đọc hai thơ:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi đọc, cần ngắt nhịp câu trên theo hình thức 3/3. Cách ngắt nhịp này là
hiện tượng phá luật, phá cách của lối ngắt nhịp thơ lục bát. Điều đó diễn tả được
sự trôi đi nặng nề của thời gian ở chốn lầu xanh, cũng là tâm trạng ê chề, nhục
nhã của Thúy Kiều.
+ Bình giảng:
GV giới thiệu khái quát những vấn đề trọng tâm, cơ bản của tác phẩm,
của đoạn thơ, câu thơ.
Trên cơ sở câu hỏi hướng dẫn học bài, GV xây dựng lại hệ thống câu hỏi
theo hướng bình giảng, bám sát những đặc trưng thể loại của tác phẩm để HS
hình dung tổng thể về các yếu tố từ ngữ, điển tích, điển cố trong mối qua hệ với
các thủ pháp nghệ thuật cũng như nội dung tư tưởng cần phải khai thác trong tác
phẩm. Trong khâu này, GV cần khuyến khích HS mạnh dạn phát biểu suy nghĩ
riêng của bản thân, trên cơ sở chỉ định ngẫu nhiên HS phát biểu ý kiến (không
theo cách truyền thống lâu nay là chờ HS giơ tay phát biểu, sẽ chỉ có một nhóm
nhỏ làm việc trong khi phần lớn không chú ý vào bài). HS qua đó cũng tập được
thói quen chủ động và tự tin nêu những cảm nhận ban đầu, dù rất chủ quan hoặc
suy diễn ý vô căn cứ thì GV cũng hình dung được cách tiếp cận của HS để điều
chỉnh, định hướng kịp thời.
GV chọn lọc những từ ngữ, điển tích, điển cố, các biện pháp tu từ trọng
tâm bình giảng mẫu, sau đó yêu cầu HS dựa vào cách trình bày, diễn đạt của GV
để bình giảng các từ ngữ, điển tích, điển cố tương tự. Đây chính là khâu quan

trọng nhất vì HS được truyền đạt PP như là “chìa khóa” để mở những cánh cửa
vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Cuối cùng, GV hệ thống hóa, chốt lại vấn đề trọng tâm. PP bình giảng sẽ
truyền thụ được kiến thức cơ bản đầy đủ, đồng thời tạo hứng thú cho HS tiếp
cận tác phẩm, kích thích năng lực sáng tạo cho các em tiếp tục tìm hiểu tác
phẩm theo cảm nhận riêng của mình. Muốn vậy, GV phải nắm chắc kết cấu tác
phẩm, chọn lọc được những từ ngữ, điển tích, điển cố đắt gía, đúng trọng tâm để
bình thật trúng ý, vừa mang tính bao quát vừa thể hiện chiều sâu trong bài giảng.
2.3.3. Phương pháp giao tiếp
PP giao tiếp là PP hướng dẫn HS vận dụng lí thuyết được học vào thực
hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố
tham gia vào hoạt động giao tiếp. Trên tinh thần này, PP giao tiếp trở thành PP
chủ yếu để phát triển lời nói cho HS”
Từ đó ta thấy, những PP đã trình bày ở trên là cơ sở tốt để hướng dẫn HS bước
vào một hoạt động hoàn toàn chủ động: hoạt động giao tiếp (thể hiện ở nói và
viết).
12


Cơ sở của phương pháp giao tiếp là dựa vào việc xác định chức năng giao
tiếp của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ (sản phẩm chung của một cộng đồng người)
được coi là phương tiện giao tiếp thì lời nói (sản phẩm của một cá nhân) được
coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn ngữ. Dạy học Ngữ văn theo hướng giao
tiếp tức là dạy phát triển lời nói cho từng cá nhân người học qua từng văn bản.
Để thực hiện tốt phương pháp này cần chú ý:
- Tạo các tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp của HS.
- Giúp HS định hướng mục đích giao tiếp trong môi trường giao tiếp:
Xác dịnh cụ thể đối tượng, hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp.
- Hướng dẫn HS sử dụng kĩ năng diễn đạt của mình, vận dụng ngôn ngữ
bản thân kết hợp ngôn ngữ văn bản văn học đã được học để tạo ra lời nói, viết

hoàn chỉnh trong giao tiếp.
- Hướng dẫn HS biết tự đánh giá mức độ đạt được, bổ sung, hoàn thiện cả
về nội dung và hình thức giao tiếp và rút kinh nghiệm giao tiếp.
Ví dụ:
Sau khi học xong trích đoạn Chí khí anh hùng, GV có thể vận dụng các đơn vị
về tri thức và kĩ năng tiếng Việt, yêu cầu HS thực hiện bài tập sau:
Khi miêu tả cuộc chia tay giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Còn trong cuộc chia tay giữa Thúy Kiều với Từ Hải, Nguyễn Du lại viết:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Căn cứ vào hoàn cảnh giao tiếp, anh/ chị có nhận xét gì về tâm trạng của Kiều ở
hai đoạn trích? Phân tích cách dùng từ của tác giả trong hai đoạn thơ?
2.3.4. Kết hợp các phương pháp, hình thức dạy học
Trên đây là một số của phương pháp dạy học tích cực đã và đang chứng
minh được tính hiệu quả trong dạy học Ngữ Văn (nói chung) cũng như dạy học
các trích đoạn Truyện Kiều nói riêng.Trên thực tế không có một hoạt động dạy
học nào chỉ sử dụng duy nhất một phương pháp, mà luôn có sự kết hợp giữa các
phương pháp lại với nhau trong một chỉnh thể tác phẩm. Hướng dẫn HS vận tri
thức và kĩ năng tiếng Việt vào dạy học các trích đoạn Truyện Kiều cũng là một
hoạt động như thế.
Mỗi phương pháp, biện pháp mà chúng tôi phân tích và sử dụng ở trên
cần có sự sáng tạo của GV trong các giờ dạy. Phương pháp đọc diễn cảm sẽ giúp
cho HS bước đầu thâm nhập vào đoạn trích qua ngôn ngữ. Cần định hướng cho
các em đọc đúng giọng, đúng nhịp. Cũng có thể, sử dụng các băng hình ghi âm

những đoạn ngâm thơ hay, giúp các em thâm nhập tác phẩm..
Chẳng hạn như trong đoạn Trao duyên, chúng ta cần giải thích các phạm
trù văn hoá: hiếu, tình, nghĩa, duyên, thề… Đoạn trích cho thấy cách nhìn hiện
13


thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người. Thuý Kiều không chỉ đơn thuần
bị biến thành một mẫu nguời nêu gương đạo đức (hiếu), chỉ biết đến bổn phận
làm con mà còn là một người con gái thiết tha với tình yêu tức là cũng thiết tha
với cuộc sống riêng tư. Đây là một quan niệm rất mới nếu so với quan niện sáng
tác để giáo huấn của Nho gia. Sự thiết tha của Kiều với tình yêu có nguồn gốc từ
quan niệm của thời trung đại về tình gắn liền với nghĩa.
Yêu cầu của phương pháp dạy học hiện đại là phải làm sao phát huy được tính
tích cực chủ động sáng tạo của HS. Bên cạnh các phương pháp trên, GV cũng có
thể sử dụng PP thảo luận. GV chỉ lựa chọn những điểm cần thiết quan trọng, có
vấn đề để đặt câu hỏi, cho HS thảo luận nhóm, phát biểu ý kiến rồi sau đó hướng
dẫn HS tổng kết rút ra kiến thức.
Giáo viên cũng cần so sánh đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều với
đoạn Trao duyên trong tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân để thấy sự sáng tạo của Nguyễn Du. Trong tác phẩm Kim Vân Kiều
truyện, màn trao duyên diễn ra trước khi Kiều quyết định bán mình cho Mã
Giám Sinh. Khi đó Kiều cũng đau khổ nhưng có lẽ chưa cảm thấy mình thật sự
có lỗi và mất mát như khi đã bán mình. Nguyễn Du đã thay đổi vị trí của màn
trao duyên một cách hợp lý. Nỗi đau đớn vì tình yêu tan vỡ của Kiều ở Truyện
Kiều sâu sắc hơn, ám ảnh hơn.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trên cơ sở tiến hành giờ dạy theo tinh thần trên của đề tài, sử dụng đề
kiểm tra với cả hai đối tượng, lớp TN và lớp ĐC, chúng tôi thu được kết quả
sau:
2.4.1 Bảng điểm về kết quả kiểm tra của các lớp

Lớp SL
bài
KT

Xếp loại
Giỏi(9-10) Khá(7-8)

TB(5-6)

Yếu(3-4)

Kém(1-2)

SL

%

SL

SL

%

SL

%

10V 46

10


21.7 22

47.8 14

30.4 0

0

0

0

10D

45

3

6.7

26

57.8 16

35.6 0

0

0


0

10G

45

1

2.2

21

46.7 22

48.9 1

2.2

0

0

10A

45

0

0


21

46.7 23

51.1 1

2.2

0

0

10B 44

0

0

19

43.2 22

50

2

4.5

1


2.3

10E

46

1

2.1

17

36.9 23

50

3

6.5

2

4.3

10H

45

0


0

13

28.9 27

60

4

8.9

1

2.2

SL

%

14

%


Bảng 2.4.2 Tổng hợp so sánh kết quả giữa thực nghiệm và đối chứng

Xếp
loại


Thực nghiệm
(225 bài)

Đối chứng
(91 bài)

Tỉ lệ đạt được
nghiệm

SL

SL

Tăng >

%

%

của thực

SL

%

Giảm <
Giỏi

14


6.2

1

1.1

>

13

5.1

Khá

109

48.4

30

32.7

>

79

15.7

TB


97

43.1

50

54.9

<

47

11.8

Yếu

4

1.8

7

7.7

<

2

3.7


Kém

1

0.4

3

3.3

<

2

2.9

Bảng nhận xét đánh giá cho thấy kết quả bài dạy thực nghiệm hơn bài dạy
đối chứng. từ cơ sở đó, chúng tôi có một số nhận xét sau:
Tỉ lệ bài đạt điểm kiểm tra khá giỏi là 57.6%, bài từ trung bình trở lên là 97.8%,
bài yếu kém là 2.2%. Trong khi đó, tỉ lệ khá giỏi của bài đối chứng là 34.8%, bài
đạt tỉ lệ trung bình trở lên là 91.6%, tỉ lệ yếu kém là 8.4%.
So sánh kết quả bài thực nghiệm với bài đối chứng thì tỉ lệ đạt khá giỏi của bài
thực nghiệm cao hơn bài đối chứng là 22.8%, tỉ lệ trung bình trở lên cao hơn là
6.2, tỉ lệ bài yếu kém thấp hơn là 6.2.
Đa số GV đều thấy cách dạy này mới, vận dụng tri thức và kỹ năng tiếng
Việt theo hệ thống, điển cố, từ đó lí giải giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác
phẩm. Hướng khai thác một tác phẩm văn chương thông thường là về phần nội
dung tư tưởng trước, sau đó tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật. Với hướng
dạy này lại đi ngược lại, từ các đơn vị từ ngữ, điển tích, điển cố trong mối quan

hệ với các biện pháp nghệ thuật khác, suy ra nội dung tác phẩm, hơn nữa các
yếu tố được xem xét một cách hệ thống, bám sát những đặc trưng thể loại tác
phẩm. Dạy theo hướng này, một tác phẩm thơ trung đại nói chung, các trích
đoạn Truyện Kiều nói riêng thực sự được giải mã một cách khoa học và được
đặt đúng vị trí của một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đích thực.
Hơn nữa, sau mỗi giờ học ngoài việc nắm vững kiến thức của bài học, HS còn
nắm được một số lí thuyết về đặc trưng thể loại, từ ngữ, điển tích, điển cố, cộng
cảm được bầu văn hóa văn bản, từ đó dần hình thành năng lực cảm thụ thơ, tình
yêu với thơ trung đại cho HS và khả năng áp dụng kiến thức văn bản vào cuộc
sống hàng ngày
- Một số ý kiến cho rằng cách dạy học theo hướng vận dụng tri thức và kĩ
năng tiếng Việt là khá khó, nhất là với đối tượng HS yếu kém, hơn nữa với đối
tượng HS, việc nắm vững và vận dụng những kiến thức về từ ngữ (nhất là từ hán
15


Việt), điển tích, điển cố là khá khó khăn và nhất là PP này phụ thuộc rất lớn vào
quá trình tự học của HS ở nhà.
Tóm lại, Từ kết quả quá trình dạy học và kiểm tra, đánh giá cho ta thấy tỉ
lệ HS đạt khá giỏi ở các lớp thực nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng. Nhưng ở
lớp đối chứng tỉ lệ HS trung bình, yếu, kém cao hơn các lớp thực nghiệm. Đó là
những tín hiệu khả quan, là thành công bước đầu của việc hướng dẫn HS vận
dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt trong đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều ở
lớp 10. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả bước đầu, dù khả quan nhưng nó chưa
phải là đã nói lên tất cả. Vì vậy, chúng tôi vẫn cần có những sự hưởng ứng tích
cực từ nhiều phía, cần áp dụng vào thực tiễn nhiều hơn nữa để có thể khẳng định
chắc chắn tính ứng dụng của đề tài.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Bài học kinh nghiệm:

- GV giảng dạy Ngữ văn ngoài việc phải không ngừng tự học để nâng
cao chuyên môn, bồi dưỡng kiến thức lí luận, kiến thức từ thực tế đời sống, còn
16


cần phải nghiên cứu thêm về nghệ thuật sư phạm, tìm tòi các biện pháp gây
hứng thú học tập, tạo một không khí học tập vui vẻ, thoải mái giúp HS ngày
càng yêu thích bộ môn Ngữ văn, giúp việc dạy học đạt kết quả cao.
- Bên cạnh đó, phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp, tìm các thông tin mới, hấp dẫn trên mạng internet làm cho các tiết học
sinh động, lượng thông tin HS thu được nhiều.
- GV cũng luôn phải cập nhật, tự bồi dưỡng những phương pháp dạy
học tích cực,vận dụng linh hoạt trong từng tiết dạy để tạo sự hứng thú cho các
em, không nên thuyết giảng nhiều mà cần để HS là người chủ động, tích cực tìm
ra kiến thức.
- GV cũng cần có sự hiểu biết về tâm lí lứa tuổi HS, biết khuyến khích
động viên kịp thời, biết gần gũi tìm hiểu nguyên do khi các em có biểu hiện tiêu
cực, biết nghiêm khắc phê bình những biểu hiện chây lười của HS...
Theo tôi, dù áp dụng bất kì phương pháp dạy học nào, biện pháp gây
hứng thú nào cho HS thì điều cốt yếu để có một giờ học tốt, GV nhất định phải
có đủ tài, đủ đức, có cái tâm của một người thầy thì chắc chắn sẽ được HS kính
trọng, tin yêu, tâm phục khẩu phục. Chính điều đó sẽ tạo cho các em một tâm
thế học tập tốt nhất, có hứng thú nhất.
3.2 Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Ở bất cứ môn học nào, để có được kết quả học tập tốt nhất thì trước hết
người học phải thực sự yêu thích, có hứng thú với bộ môn đó. Chính vì thế các
biện pháp tôi đưa ra trong sáng kiến kinh nghiệm này cần thiết và đúng đắn góp
phần nâng cao hứng thú của HS trong mỗi giờ học Đọc văn, góp phần nâng cao
chất lượng bộ môn Ngữ văn.
3.3 Khả năng ứng dụng và triển khai

Những biện pháp mà tôi đề xuất không quá khó thực hiện, cũng không
cần các phương tiện dạy học quá hiện đại mà các nhà trường hiện nay không thể
đáp ứng được, do vậy các đồng nghiệp có thể dễ dàng áp dụng. Tôi mong nhận
sự góp ý của lãnh đạo, đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện, đầy đủ,
hiệu quả hơn.
3.4 Những kiến nghị đề xuất
Qua quá trình giảng dạy thực tế, với những kết quả đã đạt được về
hướng dẫn học sinh vận dụng tri thức và kĩ năng tiếng Việt vào đọc hiểu các
trích đoạn Truyện kiều ở lớp 10 trong năm học vừa qua ở trường THPT Nguyễn
Thị Lợi, chúng tôi xin được có một vài kiến nghị:
- Các thành viên trong tổ Ngữ văn trường THPT Nguyễn thị Lợi hưởng
ứng và cùng thực hiện đề tài này.
- Ban Giám hiệu nhà trường tạo điều kiện kinh phí để trang bị các thiết
bị phục vụ cho việc dạy học theo phương pháp này.
- Các cấp quản lý chuyên môn tạo điều kiện để phổ biến rộng rãi ở các
trường THPT trong tỉnh.
Chúng tôi rất mong với đề tài này việc ứng dụng các tri thức và kĩ năng
tiếng Việt vào hướng dẫn học sinh lớp 10 đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều
trong dạy học môn ngữ văn sẽ được các đồng nghiệp hưởng ứng và phổ biến
17


rộng rãi trong các trường THPT để chất lượng dạy học môn ngữ văn của tỉnh
nhà ngày càng được nâng cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi rút ra được trong quá trình thực tế
giảng dạy, hướng dẫn học sinh đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều ở lớp 10. Hi
vọng kinh nghiệm nhỏ nhoi của tôi sẽ được các đồngnghiệp góp ý, xây dựng để
tôi rút kinh nghiệm và tích lũy thêm trong công tác giảng dạy của mình được tót
hơn.
Tôi xin cam đoan, sáng kiến kinh nghiệm trên là do tôi viết, không sao

chép của ai.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Người thực hiện

Phạm Thùy Dung

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và đào tạo (2005), Tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GV
THPT về đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn (Dự án phát triển giáo dục
THPT - Trường ĐHSP Hà Nội - Viện nghiên cứu sư phạm).
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng GV thực hiện CT SGK lớp
10 môn ngữ văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), CT giáo dục phổ thông cấp THPT, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
4. Bộ giáo dục và đào tạo (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ
năng môn ngữ văn lớp 10, Nxb Giáo dục Việt Nam.
5. Bộ giáo dục và đào tạo (2002), Chương trình môn Ngữ văn THPT, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Trọng Hoàn, Vũ Nho (2007), Những vấn đề
chung về đổi mới giáo dục THPT môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục Hà Nội.
7. Nguyễn Thanh Hùng (2011), Kỹ năng đọc hiểu văn bản. Nxb Đại học Sư
phạm,HN.
8. Nguyễn Thanh Hùng(2011), Phương pháp dạy học Ngữ văn trung học phổ
thông - những vấn đề cập nhật, Nxb Giáo dục.
9. Nguyễn Thành Long (2011), Hướng dẫn tìm hiểu những sáng tạo độc đáo

của Nguyễn Du trong các đoạn trích Truyện Kiều ở SGK Ngữ văn 10,
LVThs , ĐHSPHN.
10.Nguyễn Lộc (1998), Nguyễn Du- Về tác gia và tác phẩm,Nxb Giáo dục ,HN
11. Đặng Thanh Lê (2002),“Giảng văn truyện Kiều”, Nxb Giáo dục
12.Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2005), Bài tập Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
13.Đào Ngọc, Nguyễn Quang Ninh (1995), Kỹ năng sử dụng tiếng Việt, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Vụ GV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14.Nguyễn Thục Phương (2015),Học tốt Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh.
15.Đỗ Ngọc Thống (2011), CT Ngữ văn trong nhà trường THPT Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
16.Bùi Minh Toán (2010), Tiếng Việt ở trung học phổ thông, Nxb Đại học sư
phạm Hà Nội.

19



×