Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN phương pháp ôn tập các tác phẩm thuộc thể loại kí trong kì thi THPT quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.07 KB, 20 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, kì thi THPT Quốc gia đã tích hợp hai kì thi xét
tốt nghiệp và đại học cho học sinh THPT. Chính vì vậy, môn ngữ văn cũng như
nhiều môn học khác, vừa phải đảm bảo kiến thức ôn tập cơ bản vừa phải nâng cao
kiến thức phù hợp với năng lực tuyển chọn sinh viên của các trường đại học. Giúp
học sinh có cơ hội tốt nhất trong việc lựa chọn ngành nghề là một thách thức
không nhỏ đối với người học cũng như người dạy. Thầy cô giáo không chỉ hướng
dẫn học sinh nắm vững vàng kiến thức mà còn cần phải có kĩ năng làm bài, tức là
khả năng xử lí kiến thức đã học cũng như phát huy cá tính sáng tạo của người
viết.
So với các thể loại văn học như truyện ngắn, thơ trữ tình thì các tác phẩm
thuộc thể kí là bài toán nan giải, hóc búa nhất với người học. Kí không lôi cuốn
người đọc bằng các chi tiết, tình huống độc đáo, nhân vật hấp dẫn như truyện
ngắn; kí cũng không dễ chinh phục người đọc bằng những nốt nhạc tâm hồn ngân
nga giàu xúc cảm như thơ trữ tình… nhưng kí lại mê hoặc người đọc bằng lối văn
cầu kì, vừa “sang trọng” vừa khó “gần”. Và vì thế, với các em học sinh ôn thi
THPT Quốc gia, các tác phẩm thuộc thể loại kí vẫn là phần ôn luyện khó khăn
nhất.
Với mục tiêu làm cho người học dễ dàng nắm được kiến thức, vừa có sự
hiểu biết vừa yêu thích các tác phẩm thuộc thể loại kí, tôi đã nghiên cứu và áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: Phương pháp ôn tập các tác phẩm thuộc
thể loại kí trong kì thi THPT Quốc gia. Đây là đề tài khái quát từ thực tiễn của
bản thân tôi trong quá trình giảng dạy và bước đầu đã có hiệu quả nhất định.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là từ việc hướng dẫn học sinh:
- Nắm vững đặc trưng thể loại kí.
- Tiếp cận tác phẩm dựa trên đặc trưng thể loại.
- Bồi dưỡng năng lực cảm xúc cho người học các tác phẩm thuộc thể loại kí.
- Luyện tập vận dụng.
1




1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là hai tác phẩm Người lái đò sông
Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
- Phạm vi nghiên cứu là những giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật
của hai bài tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho
dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp như:
phương pháp thống kê – phân loại; phương pháp phân tích – tổng hợp; phương
pháp so sánh - liên tưởng; phương pháp vấn đáp - gợi mở; phương pháp diễn
giải... và một số phương pháp khác.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Kí là một thể loại tự sự ra đời từ thế kí XVIII đầu XIX, khi xã hội có
những những biểu hiện suy thoái. Có thể kể đến Thượng kinh kí sự của Lê Hữu
Trác, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Các tác phẩm thuộc thể loại kí được
xem là một bức tranh chân thực ghi chép những quan sát tinh tường, những điều
mà tác giả mắt thấy tai nghe về những căn bệnh trầm kha, những biểu hiện đớn
đau trong xã hội.
Đối với dòng văn học hiện đại, cùng với sự ra đời và hoàn thiện của các thể
loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ mới, kí cũng là một thể loại văn học phát
triển mạnh mẽ. Kí có nhiều loại như phóng sự, kí sự, tùy bút, bút kí…Đặc trưng
chung của kí là ghi chép, phản ánh đối tượng khách quan trong cuộc sống.
Tùy bút là một dạng của thể kí. Ngoài việc ghi chép những điều mắt thấy
tai nghe, tùy bút thể hiện được ấn tượng chủ quan của người viết với đối tượng
phản ánh qua cảm xúc phóng túng với những liên tưởng bất ngờ, độc đáo. Vì vậy,
với tùy bút dấu ấn của cái tôi nhà văn được thể hiện rất đậm nét.

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông
của Hoàng Phủ Ngọc Tường là những bài tùy bút xuất sắc nhất, tác phẩm in dấu
2


ấn của tâm hồn tài hoa, giàu cảm xúc, giàu chất sống. Đến với hai tác phẩm này,
người học sẽ thấy được khả năng chuyển hóa chất liệu cuộc sống vào văn chương
nghệ thuật đồng thời sẽ thấy được dấu ấn cái tôi của người nghệ sĩ biểu hiện trong
từng trang viết.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN.
2.2.1 Thực trạng đối trường THPT Hoằng Hóa 2
Trường THPT Hoằng Hóa 2 là một ngôi trường giàu truyền thống lịch sử,
tọa lạc ở một vùng đất mà đa số học sinh là con em của các gia đình thuần nông.
Đời sống khó khăn, nhưng các em học sinh rất giàu tinh thần vượt khó, tinh thần
hiếu học. Ước mơ được thoát nghèo, được đổi đời của các em học sinh được bắt rễ
rất sâu từ việc chăm chỉ học tập, dùi mài kinh sử. Đã có rất nhiều học sinh đỗ đạt từ
mái trường này. Tuy nhiên, nơi đây vẫn còn tồn tại tư duy một chiều, các gia đình
phụ huynh và học sinh nhất nhất đều muốn con em mình học theo ban tự nhiên. Vì
thế ở ngôi trường này việc học sinh học ban xã hội để phù hợp với năng lực người
học đã chưa được đầu tư đúng đắn.
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên và học sinh
Xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của một môi trường mà xu thế nghiêng hẳn
về ban tự nhiên, học sinh hầu như không có tâm thế học văn. Vì vậy các giờ học
văn với học sinh chỉ mang tính chất đối phó, qua loa. Nhất là với học sinh khối 12,
khi mà cánh cửa tương lai đã cận kề, các em chỉ ưu tiên thời gian cho việc học các
môn để thi đại học. Trong khi đó, tiếp cận một tác phẩm giàu công phu sáng tạo của
người nghệ sĩ như tùy bút đòi hỏi người học phải chuẩn bị một tâm thế nghiêm túc
và hào hứng.
Một thực trạng nữa nữa có thể nhìn thấy là hai tác phẩm Người lái đò sông
Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? lại được đặt ở phần cuối của chương trình

học kì 1 trong Ngữ văn 12. Điều này cũng gây bất lợi cho cả người dạy. Thông
thường hai tác phẩm này cũng ít nằm trong giới hạn ôn thi học kì vì thế học sinh
càng không có tâm thế tiếp cận tác phẩm. Kể cả việc học sinh được giáo viên yêu
cầu phải chuẩn bị bài trước nhưng các em thực sự không có tâm lí đến với tác phẩm
này. Thậm chí có những em còn bộc lộ sự thờ ơ, vô cảm . Đây chính là khó khăn
3


cho người dạy. Vì vậy có nhiều lớp học, nhiều giờ học hai tác phẩm kí đều chưa
thực sự thành công , chưa đem lại hiệu quả như mong đợi.
Trong các kì thi THPT Quốc gia hằng năm, việc ôn tập các tác phẩm thuộc
thể loại kí là một vấn đề khá căng thẳng với người học. Có khá nhiều học sinh phát
biểu cảm nhận về các tác phẩm thuộc thể loại kí này vừa khó hiểu vừa khó viết.
Hầu hết học sinh đều lo ngại nếu trong kì thi đề sẽ ra các vấn đề xoay quanh tác
phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà. Vì vậy, giáo viên
phải là người từng bước giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn này. Qua thực tế
giảng dạy, ôn tập các năm gần đây, tôi xin mạnh dạn đưa ra những giải pháp sau
đây.
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.3.1. Tiếp cận các thông tin bên lề tác phẩm.
Cũng như bất kì một tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn hoặc thơ trữ tình,
bước đầu của việc tìm hiểu tác phẩm kí là cần nắm được thông tin cơ bản về tác
giả tác phẩm. Đây được gọi là bước khai mở, vừa quan trọng vừa hữu ích. Nắm
được những vấn đề cơ bản bên lề tác phẩm như vị trí nhà văn trong dòng văn học,
phong cách nghệ thuật nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng sáng tác, thể loại
tác phẩm… là đã đi đúng con đường để đánh giá về giá trị tư tưởng cũng như vẻ
đẹp nghệ thuật của tác phẩm.
Với hai tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên
cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giao viên cần giúp học sinh ôn lại,
nắm vững các thông tin sau.

2.3.1.1 Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
-

- Về tác giả nguyễn Tuân:
+ Vị trí: là nhà văn có vị trí quan trọng nền văn học Việt Nam hiện đại .
+ Phong cách nghệ thuật: tài hoa, uyên bác. Biểu hiện của sự tài hoa uyên
bác:
++ Khám phá và phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ; nhìn con
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.

4


++ Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau để
phản ánh đối tượng.
++ Tô đậm những nét phi thường, tuyệt mĩ của cảnh vật, con người.
++Lối văn cầu kì, câu văn có cấu trúc phức hợp, ngôn ngữ ấn tượng, giàu
hình ảnh, tạo dư ba.
Từ những đặc điểm trên, học sinh cần chốt lại ý: Nguyễn Tuân là một định
nghĩa đích thực về người nghệ sĩ. Một nhà văn thực sự quí trọng nghề nghiệp và
coi văn chương là một hình thái lao động nghiêm túc, khổ hạnh. Với kết luận này,
học sinh sẽ có tinh thần và thái độ vừa nghiêm túc vừa bản lĩnh trong việc khám
phá tác phẩm Người lái đò sông Đà – tác phẩm kết tinh tài năng nghệ thuật, tâm
huyết cả một đời văn của nguyễn Tuân.
- Về tác phẩm: Học sinh cần nắm vững thông tin sau:
+ Hoàn cảnh ra đời: là kết quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng để nhà
văn tìm hiểu thiên nhiên và con người Tây Bắc năm 1958.
+ Cảm hứng sáng tác: Vẫn là khát khao “xê dịch” nhưng thay vì tìm về
quá khứ của “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin và tình yêu về
cuộc sống mới, con người mới.

+ Chủ đề : Tác phẩm phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng
Tây Bắc của Tổ quốc, đồng thời thể hiện tình yêu, niềm tự hào và sự gắn bó của
nhà văn với vẻ đẹp của quê hương xứ sở.
2.3.1.2 Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc
Tường
Giáo viên giúp học sinh củng cố những nội dung sau về tác giả, tác phẩm.
- Về tác giả :
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng
trên nhiều lĩnh vực triết học,văn hóa, lịch sử, địa lí...
+ Là nhà văn chuyên viết về bút kí, được đánh giá là « một trong những
nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay » ( Nguyên Ngọc).
+ Phong cách nghệ thuật : Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
chất trữ tình. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ các khái niệm. Chất trí tuệ là ở
5


nghệ thuật lập luận sắc bén kết hợp với suy tư đa chiều, am hiểu vốn kiến thức
sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Chất trữ tình biểu hiện ở tâm hồn nhạy cảm, giàu
cảm xúc say sưa với vẻ đẹp của cảnh và người đất nước ; lối văn uyển chuyển,
giàu nhịp điệu, hình ảnh và cảm xúc.
- Về tác phẩm :
+ Hoàn cảnh sáng tác : là bài kí xuất sắc viết tại Huế năm 1981. Phần văn
bản SGK nghiêng về tùy bút.
+ Chủ đề : Ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông xứ Huế, qua đó bộc lộ tình yêu
quê hương đất nước thiết tha, say đắm của tác giả.
Tiểu kết: Như vậy, việc nắm vững những đặc điểm về phong cách nghệ
thuật của tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, cảm hứng sáng tác của người nghệ sĩ
sẽ giúp cho người học hòa mình vào tác phảm dễ dàng dàng hơn. Đây là bước đi
đầu tiên trên con đường chinh phục tác phẩm. Nếu không có như những bước đi
này, người học dù có cố gắng bao nhiêu đi nữa trong qua trình khám phá tác phẩm

sẽ không tránh khỏi lúng túng. Đồng thời với việc ôn tập, việc đi từ chủ đề tác
phẩm theo hình thức tư duy khái quát, tổng hợp đến riêng rẽ, cụ thể nhằm giúp
cho việc học được đơn giản hơn, hiệu quả hơn.
2.3.2 Tiếp cận tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Cùng với việc nắm được hoàn cảnh sáng tác, chủ đề tư tưởng, học sinh cần
phải nắm được đặc trưng của thể loại tùy bút. Đây là chìa khóa quan trọng để tiếp
cận tác phẩm.
- Thể loại: Tùy bút. Đây là một dạng của thể loại kí. Ngoài việc ghi chép
những điều mắt thấy tai nghe, tùy bút thể hiện được ấn tượng chủ quan của người
viết với đối tượng phản ánh qua cảm xúc phóng túng với những liên tưởng bất
ngờ, độc đáo. Vì vậy, với tùy bút dấu ấn của cái tôi nhà văn được thể hiện rất đậm
nét.
Từ việc nắm được đặc trưng của thể loại trên, học sinh đã xác định được
yêu cầu quan trọng đầu tiên trong việc tiếp cận tác phẩm là : Xác định đối tượng
phản ánh . Điều này giúp học sinh hiểu được đặc trưng cơ bản của thể loại tùy bút
6


là phán ánh đối tượng khác quan trong cuộc sống chứ không phải do nhà văn nhào
nặn bằng hư cấu, tưởng tượng. Và vài vậy, trong tư duy của người học phải hiện
ra các đối tượng phản ánh là :
+ Con sông Đà và người lái đò trên sông Đà ( trong tác phẩm Người lái đò
sông Đà) .
+ Con sông Hương ( trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ?)
Yêu cầu quan trọng thứ hai trong việc tiếp cận tác phẩm thuộc thể loại tùy
bút là học sinh phải đánh giá được dấu ấn cái tôi người nghệ sĩ trong tác phẩm.
Bởi lẽ trong tùy bút, dấu ấn cái tôi người nghệ sĩ thể hiện rất đậm nét. Có thể cùng
một đối tượng khách quan trong phản ánh, nhưng mỗi người nghệ sĩ sẽ để lại dấu
ấn riêng, tài năng riêng.
Trong quá trình ôn tập, giáo viên cũng sẽ lưu ý cho học sinh tìm hiểu về

xuất xứ tác phẩm. Đây chỉ là phần kiến thức thông hiểu nhưng cũng sẽ giúp cho
học sinh thấy được vị thế tác phẩm trong sự nghiệp của tác giả hoặc trong dòng
văn học. Điều này cũng giúp cho tâm thế tiếp cận và ôn luyện tác phẩm tốt hơn.
- Xuất xứ tác phẩm : Người lái đò sông Đà là bài tùy bút xuất sắc in trong
tập tùy bút Sông Đà năm 1960 . Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài bút kí, và
phần văn bản SGK nghiêng về tùy bút.
Như vậy, mặc dù khác nhau ở hoàn cảnh sáng tác nhưng Nguyễn Tuân và
Hoàng Phủ Ngọc Tường đều gặp nhau ở tâm hồn nhạy cảm, tư tưởng say mê với
vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và sử dụng thể loại tùy bút, một lối văn phóng
túng tài hoa.
2.3.3 Phân tích các đối tượng phản ánh theo đặc trưng thể loại .
2.3.3.1 Tác phẩm Người lái đò sông Đà .
a. Hình tượng con sông Đà
Con sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật”
có hai tính cách trái ngược: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ mộng.
- Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo:

7


Giáo viên hướng dẫn học sinh hình dung nét tính cách này của sông Đà
được Nguyễn Tuân quan sát ở vùng thượng nguồn. Dòng sông Đà ở quãng này có
những đặc điểm:
+ Lòng sông hẹp, đá hai bên bờ dựng vách thành ( lưu ý cách miêu tả và
ngôn từ biểu đạt như “đá bờ sông dựng vách thành”, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
“đúng ngọ” (lúc giữa trưa) mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông “như một
cái yết hầu”, có quãng con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Vì lòng
sông hẹp, bờ sông là vách đá cao, nên ngồi trong khoang đò ở quãng sông ấy
“đang mùa hè mà cũng thấy lạnh.”
+ Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với

hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm”. Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà
không thận trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
+ Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà
Mường Vát. Đó là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở
và kêu như của cống cái bị sặc”. Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào
dám men gần những cái “hút nước” ấy. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay “cây chuối ngược” rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới. Tác
giả đã tưởng tượng: có người quay phim táo tợn, ngồi trên chiếc thuyền thúng, rồi
xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim ấn tượng,
gây cảm giác sợ hãi cho người xem.
+ Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có
âm thanh dữ dội, nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác
dưới mà đã nghe thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc
đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là “khiêu
khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm thét khi bị cháy
rừng.
+ Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một
8


dáng vẻ, nhưng mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”.
Sông Đà hình như đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để gây
khó khăn, nguy hiểm cho những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba vòng
vây. Vòng thứ nhất, thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một
“cửa sinh” nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm
nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền”, cũng chỉ có một “cửa sinh” nhưng lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn nhưng bên phải, bên trái

đều là “luồng chết” cả, cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
+ Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm
địa độc ác. Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã
trở thành “kẻ thù số một” của con người.
- Con sông Đà trữ tình, thơ mộng.
+ Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở
nhiều góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao,
Sông Đà như sợi dây thừng ngoằn ngoèo, con sông như mái tóc người thiếu nữ
Tây Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa,
mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ
chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị: giữa
khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện lên như
một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì.
+ Từ trong rừng nhìn ra, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm “như một cố
nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, cùng
với hình ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm bướm” tạo
nên một cảnh sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông bằng
những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau
kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
+ Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ
9


nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương ngô
“nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn
búp”, có “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có
một liên tưởng độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn

nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dòng sông quãng này “lững lờ như
nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
+ Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng,
tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong
phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
+ Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả,
gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà
văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
b. Hình tượng người lái đò
- Tác giả giới thiệu chung về người lái đò:
Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên
Tây Bắc, có nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số
một của con người. Trong cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người
lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên
chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.
- Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm:
+ Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa
tử”, một “cửa sinh”, ông lái đò mong manh đơn độc vẫn bình tĩnh phóng thẳng
vào thạch trận, ghì sát mái chèo. Nước thì hò la vang dậy mà lao vào bẻ gãy cán
chèo, đá trái, thúc gối, bám lấy ông lái đò... Tuy nhiên ông lái đò cố nén vết
thương, mặt méo bệch nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy ngắn gọn và vượt qua thạch
trận thứ nhất .
+ Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai
của thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử”
10


để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui
luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác

Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng
thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám
chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một
đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân
bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt.
Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo
lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử
đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh.
Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở
cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
+Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở
vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là
“luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu
vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa
đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa:
cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt
qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một
người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa
với nghề vượt thác leo ghềnh.
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
+ Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử
dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả đã
sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với những
câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ sống
động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.
+ Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã
khắc họa thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản
11



lĩnh và kinh nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động
Tây Bắc với những phẩm chất cao quí.
+ Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh
hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường
ngày.
2.3.3.2 Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Hình tượng con sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá miêu
tả từ nhiều góc độ
a. SH nhìn từ góc độ địa lí và văn hóa ( Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên)
- SH ở thượng nguồn: Được ví như bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa
bóng cây địa ngàn, mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc, dịu dàng và
say đắm gữa dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng; Giữa lòng Trường Sơn,
sông Hương giống cô gái Di gan phóng khoáng và man dại; Ra khỏi rừng, sông
Hương trở thành người mẹ phù sa dịu dàng và trí tuệ của đất cố đô.
Dưới ngòi bút của HPNT, ở vùng thượng lưu, sông Hương toát lên một vẻ
đẹp đầy sức sống, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính; có lúc như “ người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở” để khẳng định sông Hương là nơi khởi nguồn, là nơi
bắt đầu của không gian văn hóa Huế.
- SH ở ngoại vi thành phố: Giống như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng
giữa cánh đồng Châu hóa đầy hoang dại” được người tình đến đánh thức; mềm
mại, duyên dáng, đầy sức sống mới: “sông Hương chuyển dòng một cách liên tục,
vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo đường cong thật mềm”; sắc nước
xanh thẳm “trôi đi giữa hai đồi sừng sững thành quách”, dòng sông “mềm như
tấm lụa” in trên nền trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”;
sông Hương mang vẻ đẹp như triết lí, như cổ thi giữa tiếng chuông chùa Thiên
Mụ ngân nga, bát ngát..
Ở vùng ngoại vi, sông Hương mang vẻ đẹp của người thiếu nữ duyên dáng,
gợi cảm, khao khát , lãng mạn, đầy sức sống, vừa mang vẻ đẹp như cổ tích, trầm
mặc của một vùng văn hóa đế đô.

Đặc sắc nghệ thuật nổi bật của đoạn: câu văn, ngôn từ đầy chất họa, chất
12


nhạc, nhiều liên tưởng, giàu cảm xúc; thủ pháp nhân hóa, so sánh được sử dụng
để khắc họa một dòng sông thơ mộng trữ tình, vừa quen vừa lạ, vừa rất Huế, vừa
rất riêng của HPNT.
- SH giữa lòng thành phố:
+ “ Như tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long…”, nơi cuối con đường tây nam- đông
bắc, sông Hương nhìn thấy của chiếc cầu trắng của thành phố, nhỏ nhắn như một
vầng trăng non; giáp mặt thành phố, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ,
đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi giống như tiếng “vâng” không nói
ra của tình yêu”; trong lòng thành phố, Sông Hương tỏa đi khắp phố thi giữa
những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm
xít”.
+ Trong lòng thành phố lưu tốc của dòng nước trôi đi thật chậm. Tác giả
kiến giải do những chi lưu cùng với hai hòn đảo trên sông đã làm giảm hẳn lưu
tốc của dòng nước. Vì vậy , sông Hương chính là điệu nhạc slow dành riêng cho
Huế. Mặt nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh bởi nó trôi đi
chậm, thực chậm.( Có thể liên tưởng thêm câu thơ của Thu Bồn: “Con sông dùng
dằng, con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên nước rất sâu”).
+ Sông Hương còn được liên tưởng như người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên đất Huế , với một phiến trăng sầu.
Để từ đó phím đàn đi suốt cuốc đời cô Kiều…
Như vậy, sôn Hương được lí giải ở nhiều góc độ: địa lí ( kiên giải lưu tốc của
dòng nước), âm nhạc ( Sông Hương là điệu slow dành riêng cho Huế), văn
học( sông Hương giống như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya). Có thể thấy, ở
lòng thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp duyên dáng, trữ tình của giai nhân yêu
kiều, vừa mang dáng vẻ cổ kính, trầm mặc của xứ Huế.

- Sông Hương ở ngoại vi thành phố: Rời khỏi kinh thành, sông Hương
chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy chân đảo Cồn Hến, để rồi lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Sau đó,
nó đột ngột rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố ở góc thị trấn Bao
13


Vinh xưa cổ.
Từ đặc điểm địa lí của dòng sông, nhà văn kiến giải thật tài hoa: Dòng sông
ngập ngừng vì chất chứa bao nỗi vấn vương, thậm chí có chút “ lẳng lơ kín đáo”
của người tình chung thủy và chí tình. Sông Hương giống như nàng Kiều quay trở
lại tìm Kim Trọng để nói lời thề trước lúc đi xa.
Như vậy với cách so sánh thật đẹp và độc đáo, sông Hương giống như người
tình dịu dàng, kín đáo, sâu sắc, lẳng lơ và rất mực chung thủy.
b. SH nhìn từ góc độ lịch sử
- Trong lịch sử, SH mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến
công oanh liệt của dân tộc. Nó gắn liền với thế kỉ quang vinh của đất nước từ thuở
còn là dòng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng. Trong sách địa dư của
Nguyễn Trãi, sông H là dòng Linh Giang đã ghi dấu bao chiến công oanh liệt, bảo
vệ biên giới tây nam của Tổ Quốc. Thế kỉ 18, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú
Xuân của người anh hùng Nguyến Huệ. Thế kỉ 19, nó sống với lịch sử bi tráng,
thấm máu của các cuộc khởi nghĩa. Thế kỉ XX, sông H “đi vào thời đại cách mạng
tháng tám bằng những chiến công rung chuyển. Rồi sau đó nó có mặt trong những
năm tháng lịch sử của đất nước với cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt.
- Trong đời thường, sông Hương mang vẻ đẹp của một người con gái dịu
dàng. Khi nghe Tổ quốc kêu gọi “nó biết cách tự hiến đời mình làm những chiến
công”, nhưng khi trở về cuộc sống bình thường, SH tự nguyện làm người con gái
dịu dàng của đất nước.
c. Sông Hương nhìn từ góc độ thi ca
- Vẻ đẹp độc đáo đa dạng của dòng sông còn thể hiện ở góc độ thi ca. Sông

Hương không bao giờ lăp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
- Sông Hương hiện lên với nhiều màu sắc và cảm xúc khác nhau trong thơ
của cá nghệ sĩ. Trong thơ Tản Đà là dòng sông trắng, lá xanh; trong thơ Cao Bá
Quát là dòng sông hùng tráng như kiếm dựng trời xanh; trong thơ Bà huyện
Thanh Quan là nỗi quan hoài vạn cổ, trong thơ Tố Hữu mang sức mạnh của sự
phục sinh tâm hồn.
Như vậy, sông Hương đã làm nên điều kì diệu trong mỗi trang thơ, mãi mãi
14


tuôn chảy trong mạch nguồn thi ca dân tộc.
Kết luân:
Mở đầu bài kí là câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, kết thúc bài kí là
cách lí giải bằng một câu chuyện huyền thoại: vì yêu quí con sông, nhân dân hai
bên bờ đã nấu nước hàng trăm loài hoa đổ xuống dòng sông. Sông Hương vì thế
là dòng sông thơm. Điều này bộc lộ tình yêu say đắm của tác giả với con sông quê
hương, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp và danh thơm muôn thủa của sông Hượng.
2.3.4 Phân tích cái tôi người nghệ sĩ biểu hiện trong tác phẩm.
1. Cái tôi nghệ sĩ nguyễn Tuân
- Một cái tôi tài hoa, uyên bác.
Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học và nghệ thuật
như lịch sử, địa lí, quân sự, giao thông, hội họa, âm nhạc, kiến trúc, điện ảnh. ..để
soi ngắm đối tượng.
Nguyễn Tuân cũng thể hiện sự cầu kì, kĩ lưỡng công phu trong việc quan
sát đối tượng ở nhiều điểm nhìn, nhiều không gian và thời gian khác nhau.
- Một cái tôi gắn bó với quê hương đất nước.
- Một cái tôi tự hào, trân trọng, tin tưởng vào cuộc sống mới, con người
mới.
2. Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường
a. Một cái tôi mê đắm và tài hoa

- Mê đắm: tác giả dành hết tâm sức và tình cảm, khiến mỗi câu văn như
được viết ra từ máu huyết của một người nghệ sĩ nặng lòng với quê hương .
- Tài hoa: + thể hiện ở cách nhìn nhận và phát hiện với trí tưởng tượng phong phú,
liên tưởng độc đáo của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông với nhiều vẻ đẹp khác
nhau và hết sức phong phú. Sông Hương được ví như người con gái vơi nhứng nét
quyến rũ ( 5 lần so sánh như vẻ đẹp của người thiếu nữ): giống vẻ đẹp của cô gái
Di gan phóng khoáng và man dại, giống người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng
giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại, giống người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya, giống nàng Kiều trong đêm tình tự , là người con gái đẹp dịu dàng của đất
nước..
15


Dòng chảy của con sông cũng rất gợi cảm, quyến rũ. Khi thì giống đường
cong trên thân thể người con gái: sông Hương chuyển dòng liên tục, vòng giữa
khúc quanh đột ngột, uốn mình theo đường cong thật mềm; khi thì như tấm lụa
mềm mại; có lúc lại giống như cái vẻ yêu kiều và tiếng nói dễ thương của người
con gái đẹp: giống như tiếng vâng không nói ra của tình yêu.
+ Ngôn ngữ tài hoa: giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, chất thơ, chất nhạc và chất
họa. Ví dụ: Sông Hương rầm rộ giũa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua ghềnh
thác, cuộn xoáy như cơn lốc, dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi giữa
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sắc nước xanh thẳm trôi đi giữa sừng sửng hai
đồi thành quách….
+ Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liên tưởng độc đáo
khiến con sông trở nên có diện mạo, có tâm hồn.
b. Một cái tôi uyên bác, giàu tri thức lịch sử, địa lí, văn hóa Huế.
Nhà văn bộc lộ sự am hiểu tường tận, vốn kiến thức sâu rộng vế con sông ở
những góc độ địa lí, văn hóa, lịch sử, thơ ca.
c. Một cái tôi yêu quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế: thấy
được cảm xúc chân thành, sâu đậm, yêu và hiểu sâu sắc dòng sông của quê

hương.
2.3.5 . Bồi dưỡng năng lực cảm xúc cho người đọc thông qua vẻ đẹp
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Dạy học các tác phẩm thuộc thể loại kí là một thách thức không nhỏ đối với
giáo viên và học sinh. Vì thế ôn các tập tác phẩm này là điều không dễ với người
học . Bởi lẽ, tác phẩm được chắt lọc ra từ những tâm hồn tài hoa, uyên bác, những
liên tưởng mạnh mẽ, nhiều suy tư đa chiều được diễn đạt qua lối văn cầu kì,
thường là những câu văn dài, nhiều vế, ngôn ngữ giàu hình ảnh độc đáo, mới lạ.
Muốn tiếp cận được tác phẩm, người học phải chuẩn bị một tâm thế thật thoải mái,
một trái tim nhạy cảm, giàu cảm xúc mới có thể đủ bản lĩnh để vượt qua hàng rào
ngôn từ cầu kì, lắt léo để hòa vào nhịp rung động với tác giả. Với hai tác phẩm kí
này, giáo viên sẽ giúp học sinh lần lượt đi qua các cấp độ từ thông hiểu đến rung
động. Phải làm sao trong tâm trí học sinh hiện ra hình ảnh các đối tượng phản ánh
16


một cách chân thực thì người học mới có thể nhập sâu vào cảm xúc của tác giả. Sau
đó, giáo viên sẽ giúp học sinh thẩm bình suy ngẫm về lớp ngôn từ độc đáo, tài hoa
của tác phẩm. Khi hòa nhập với từ ngữ của tác giả, học sinh sẽ gọi ra được cảm
xúc, nhất là cảm xúc tự hào, yêu mến dòng sông quê hương đất nước của hai nhà
văn.
2.3.6 Hệ thống câu hỏi bài tập vận dụng, mở rộng.
Giáo viên lưu ý học sinh các dạng đề thường xuất hiện trong các kì thi
THPT Quốc gia trong những năm gần đây :
- Dạng 1 : Phân tích, cảm nhận hình tượng để khái quát, bình giá một ý
kiến, hoặc nhận định.
- Dạng 2 : Phân tích, cảm nhận hình tượng. Từ đó liên hệ đánh giá với
vấn đề có liên quan.
- Dạng 3 : Cảm nhận đoạn trích.
- Dạng 4 : Bình luận các ý kiến .

- Dạng 5 : Đề so sánh
Sau khi giúp học sinh nhận dạng các đề ôn luyện. Giáo viên sẽ giới thiệu
đề và định hướng cách làm bài cho học sinh một số đề theo cấu trúc ra đề của Bộ
năm 2018.
Đề 1 : Cảm nhận của anh chị về người lái đò trong cảnh vượt thác ( Người
lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân). Từ đó liện hệ với Huấn cao trong cảnh cho chữ
(Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân) để nhận xét quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp
con người.
Đề 2: Có ý kiến cho rằng: “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó
đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng,
mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”. Hãy làm sáng tỏ điều đó qua nét tính
cách trữ tình, thơ mộng của sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân.
Đề 3: Anh/chị hãy trình bày về nét tính cách hung bạo, dữ dằn của sông Đà.
Từ đó làm sáng tỏ nhận xét “Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác”.

17


Đề 4: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên của con
sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Từ đó liên hệ với bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để đánh giá
về vẻ đẹp cái tôi trữ tình của hai nghệ sĩ.
Ngoài việc giúp học sinh xử lí, vận dụng kiến thức một cách hợp lí, cũng
cần giúp các em có kĩ năng làm bài được tốt. Các kĩ năng đó là:
+ Đọc kĩ văn bản.
+ Nắm vững kiến thức tác phẩm.
+ Xử lí thông tin đề bài và cách trình bày kiến thức trong bài làm vừa đầy
đủ vừa sáng tạo.
2.3.7. HIỆU QUẢ CỦA SKKN

2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục
Trong qua trình dạy học, tôi đã thực hiện việc áp dụng cách làm này trong
nhiều năm với những mức độ khác nhau giữa các lớp trong cùng một khoá học
hoặc giữa các lớp ở các khoá học khác nhau.
- Lớp áp dụng: Học sinh nắm kiến thức về tác phẩm khá toàn diện, biết
cách soi chiếu tác phẩm ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau. Bài kiểm tra
nghị luận cảm nhận về hình tượng nhân vật, về cái tôi người nghệ sĩ đã được học
sinh khai thác khá sâu các chi tiết, ngôn ngữ. Đặc biệt là học sinh nắm chắc các
dạng bài tập, các bước làm bài, cách xử lí kiến thức, biết rung động với tác phẩm
để phát huy cá tính sáng tạo.
- Lớp không áp dụng: học sinh cơ bản nắm được nội dung tác phẩm song
chưa cảm nhận được cụ thể những đặc sắc nghệ thuật, phân tích, cảm nhận về các
vấn đề trong tác phẩm còn khá mơ hồ.
Bảng so sánh cụ thể: Khảo sát trên mức độ ôn tập của các đề kiểm tra đã
cho ở trên
Lớp
12 C7
12C6

Sĩ số
35
41

Kết quả bài kiểm tra
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm
3
0

20
9


12
24

yếu, kém
0
8

Ghi chú
Áp dụng
Không áp dụng
18


Qua những so sánh trên, ta có thể thấy rằng phương pháp ôn tập các tác
phẩm kí theo đặc trưng thể đã góp phần rõ rệt nâng cao chất lượng dạy học tác
phẩm. Điều này đã giúp các em tự tin, vững vàng hơn trong kì thi THPT Quốc
gia.
2.4.2. Đối với đồng nghiệp, nhà trường.
Chúng tôi đã đưa đề tài này ra tổ để trao đổi, thảo luận và rút kinh nghiệm.
Đa số các đồng nghiệp trong tổ đã đánh giá cao và vận dụng có hiệu quả, tạo được
hứng thú cho học sinh và giúp các em hiểu sâu, nắm vững hơn về hai tác phẩm
Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? Và cho đến nay, những
kinh nghiệm của tôi đã được tổ chuyên môn thừa nhận là có tính thực tiễn và tính
khả thi. Hiện nay, tôi đã vận dụng để hướng dẫn học sinh ôn tập cho kì thi THPT
Quốc gia năm học 2017 – 2018 một cách hiệu quả nhất.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy học các tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một trong
những yêu cầu cơ bản trong nhà trường phổ thông hiện nay. Đây là một trong

những kĩ năng cần thiết trên con đường tự học và chủ động chiếm lĩnh tri thức.
Trên cơ sở hiểu rõ được đặc trưng của thể loại văn học, giáo viên sẽ định hướng
cho học sinh tìm ra những rung động thẩm mĩ trong mỗi giờ học văn. Khi được
bòi đắp tình cảm thẩm mĩ, học sinh sẽ có tâm lí tốt hơn trong việc xử lí các đề ôn
tập, các bài kiểm tra.
Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi không khẳng định đây là
cách làm riêng, độc đáo mang tính đột phá mà chỉ đơn thuần là một kinh nghiệm
của bản thân đã được vận dụng và kiểm chứng trong thực tế dạy học. Chúng tôi
rất mong nhận được và xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp để chúng ta cùng trao đổi, học hỏi nhằm tích lũy được ngày càng nhiều
những kinh nghiệm cần thiết trong việc dạy học môn Ngữ văn trong trường phổ
thông, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng, cải thiện tình trạng học văn của
học sinh hiện nay.

19


3.2. Kiến nghị
- Đối với trường THPT Hoằng Hóa 2: cần định hướng cho học sinh lựa
chọn khối thi Đại học theo đúng năng lực, sở trường. Nhà trường cũng cần đầu tư
nhiều hơn nữa trang thiết bị, tài liệu tham khảo cho môn học, tổ chức đa dạng các
hoạt động ngoại khóa dưới dạng câu lạc bộ để giáo viên, học sinh có diễn đàn trao
đổi sâu hơn các vấn đề nghệ thuật tác phẩm.
- Đối với Sở Giáo dục: Cần phổ biến rộng rãi hơn những SKKN có chất
lượng phục vụ trực tiếp cho hoạt động dạy học, mở nhiều hơn những lớp tập huấn
về chuyên môn nhằm trao đổi sâu hơn những nội dung khó của chương trình./.
Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến kinh nghiệm của riêng mình, không sao chép của bất
kì ai khác.

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


Người thực hiện

Lê Thị Thanh

20



×