Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN rèn kĩ NĂNG làm bài văn NGHỊ LUẬN văn học CHO học SINH lớp 12 TRONG kì THI THPT QUỐC GIA năm học 2018 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.63 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN
HỌC CHO HỌC SINH LỚP 12 TRONG KÌ THI
THPT QUỐC GIA NĂM HỌC 2018- 2019
Người thực hiện: Trần Thị Lan
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn

SKKN môn: Ngữ văn


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU……………………………………………………...………………01
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……...………………………….....…….................01
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ........................................................................ 01
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU……………………………………...............01
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………….01
II. NỘI DUNG ……………………………………...…………………..............01
1. CỞ SỞ LÍ LUẬN……………………………………………..………………01
2. THỰC TRẠNG................................................................................................02
3. GIẢI PHÁP………………………………………………….…….................02
3.1. LÍ THUYẾT………………………………………………………………..02
3.1.1 VỀ BÀI VĂN……………………………………………………………..02
3.1.2. CÁC BƯỚC VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC……………......02
3.1.2.1.BƯỚC 1. ĐỌC KĨ ĐỀ VÀ PHÂN TÍCH ĐỀ…………………………...02
3.1.2.2. BƯỚC 2: LẬP DÀN Ý………………………………………………....02
3.1.2.2.1 VỚI KIỂU ĐÊ PHÂN TÍCH HAI ĐOẠN THƠ………………………02
3.1.2.2.2 VỚI KIỂU ĐỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN, KÝ,


KỊCH…………………………………………………………………………….03
3.2. THỰC HÀNH………………………………………………………………04
3.2.1. THỰC HÀNH TRÊN LỚP.. .……………………………………………04
3.2.1.1. BÀI TẬP 1. …………………………………………………………….04
3. 2.1.2. BÀI TẬP 2……………………………………………………………..07
3.2.1.3. BÀI TẬP 3……………………………………………………………...10
3.2.1.4. BÀI TẬP4………………………………………………………………13
3.2. 3.THỰC HÀNH Ở NHÀ……………………………………………………13
3.2.3.1. BÀI TẬP 1……………………………………………………………...15
3.2.3.2. BÀI TẬP 2……………………………………………………………...15
3.2.3.3. BÀI TẬP 3. …………………………………………………………….16
4. HIỆU QUẢ…………………………………………………………………...17
III. KẾT LUẬN……………………………………………………………….....17


I . MỞ ĐẦU.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Môn Ngữ văn là môn Khoa học xã hội chiếm vị trí quan trọng trong nhà
trường ở mọi cấp học. Môn học được chia làm nhiều phân môn như TiếngViệt,
Đọc văn, Làm văn và tùy từng cấp học mà sắp xếp chương trình từ dễ đến khó.
Với mỗi người Việt được sinh ra, lớn lên và trưởng thành đều không thể phủ
nhận môn Ngữ văn là một chiếc chìa khóa vạn năng để giúp ta đi đến thành công.
Bởi ta đọc được tiếng Việt , viết được tiếng Việt , tạo lập được các văn bản trong
giao tiếp bằng tiếng Việt là nhờ vào bộ môn Ngữ văn. Ngay cả tâm hồn ta trong
sáng, thánh thiện, nhân ái cũng có sự góp phần không nhỏ của chức năng văn học
ở môn Ngữ văn. Môn Ngữ văn còn có mặt trong tất cả các kì thi quan trọng của
đời học sinh mà kì thi quan trọng nhất là kì thi THPT Quốc gia. Năm học 2018 2019, môn Ngữ văn vẫn là môn duy nhất thi tự luận. Tuy không có biến đổi
nhiều về cấu trúc và nội dung nhưng câu nghị luận văn học đã thay đổi cách hỏi
so với đề của năm học 2017 – 2018. Đây là điểm mới đối học sinh, vì thế trong
khi làm bài các em tỏ ra khá lúng túng. Làm như thế nào để bài văn viết đúng yêu

cầu về hình thức, đảm bảo về nội dung và đạt điểm cao quả là không dễ với học
sinh. Trước thực tiễn đó, những giáo viên như chúng tôi rất trăn trở để rồi lại bám
sát đề thi minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo và soạn giảng cách làm bài Nghị
luận văn học theo tinh thần đổi mới cho học sinh lớp 12.Trong phạm vi bài viết
này, tôi cũng xin chia sẻ kinh nghiệm của bản thân đã rèn kĩ năng làm bài văn
viết đoạn văn Nghị luận văn học cho học sinh lớp 12 trong kì thi THPT Quốc
gia năm học 2018 – 2019.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này mục đích của người nghiên cứu là: trên cơ
sở đề minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm học 2018 – 2019 về môn Ngữ
văn để xác định được phạm vi kiến thức sẽ ra cho phần Nghị luận văn học chủ
yếu là chương trình lớp 12; vấn đề cần nghị luận và so sánh, đánh giá là cùng
nằm trong một văn bản. Từ đó, bản thân người dạy sẽ hình thành về kiến thức lý
thuyết như: phân tích đề, lập dàn ý cho học sinh nắm vững. Sau đó, giáo viên sẽ
hướng dẫn học sinh thực hành lập dàn ý theo từng đặc trưng thể loại, viết bài dựa
trên cơ sở của lý thuyết đã học. Sau nhiều lần thực hành để hình thành kĩ năng
làm bài cho học sinh phục vụ thiết thực cho kỳ thi THPT Quốc gia trong cuối
tháng 6 tới.
3.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Thực tế, không có tài liệu chính thống nào cho cách làm bài văn nghị luận về
hai đoạn thơ/ 2 đoạn văn/ 2 chi tiết nghệ thuật/ hai hình ảnh … và so sánh làm
sang tỏ 1 vấn đề nào đó của một văn bản. Giáo viên dạy phải tự bám vào đề thi
minh họa của Bộ giáo dục cùng với kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của
bản thân để đưa ra phương pháp, cách thức hướng dẫn học sinh làm bài. Vì vậy
phần đối tượng nghiên cứu này sẽ có cả lí thuyết chung và hệ thống bài tập rèn kĩ
năng cho học sinh.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phần 1: Giúp HS năm lí thuyết



- Phần 2: Rèn kĩ năng qua hệ thống bài tập thực hành.
II NỘI DUNG .
1. CỞ SỞ LÍ LUẬN.
Môn Ngữ văn là một trong ba bài thi bắt buộc của kì thi trung học phổ thông
Quốc gia. Trong những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo có thay đổi nhiều về
cách thức tổ chức và cách thức ra đề thi. Tất cả các môn thi đều ở hình thức trắc
nghiệm, riêng bộ môn Ngữ văn vẫn giữ hình thức tự luận. Tuy giữ nguyên hình
thức tự luận và cấu trúc đề thi không thay đổi nhiều nhưng ở câu Nghị luận văn
học giữa các năm liên tục có sự thay đổi về cách ra đề. Giáo viên bộ môn Ngữ
văn THPT như chúng tôi vừa mới thích nghi được ở dạng câu hỏi này thì sang
năm sau, Bộ lại đã ra câu hỏi minh họa kiểu khác. Nhiều khi cách ra câu hỏi kiểu
mới làm cho giáo viên lúng túng. Câu hỏi yêu cầu tạo lập văn bản nghị
luận văn học, chiếm 50% trên tổng số điểm bài thi. Kiến thức
lớp 12 nằm toàn bộ trong câu hỏi này. Xét về mức độ, đề nghị
luận văn học là một đề bài tương đối khó. Đề bài này không chỉ
đòi hỏi học sinh vừa nắm chắc kiến thức mà còn cần có những
đánh giá sâu sắc, nhìn nhận tỉ mỉ mới có thể xử lý được đề bài
trên. Với đề minh họa , câu hỏi nghị luận văn học sẽ phân loại rõ
hơn các đối tượng học sinh.
2.THỰC TRẠNG.
Thực tế Bộ giáo dục đổi mới cách ra đề,nhưng sách giáo khoa vẫn là những
bài dạy cũ. Điển hình trong SGK lớp 12 là hai bài : Nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ; Nghị luận về một ý kiến văn học. Vậy nên không có một cơ sở lí thuyết
khoa học nào hướng dẫn cụ thể về kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học theo đề
minh họa của bộ trong kì thi THPT môn Ngữ văn năm 2018- 2019. Đó là một
khó khăn và bất cập lớn đối với giáo viên dạy ôn thi cho HS thi THPT môn Ngữ
văn.
Sau khi có đề minh họa của Bộ giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo
Thanh Hóa có tổ chức tập huấn trong một thời gian ngắn cho cán bộ cốt cán của
các trường. Nhưng thật sự cũng không có một quy chuẩn nào về lý thuyết để giáo

viên chúng tôi thực hiện. Song vì tình yêu nghề, vì trách nhiệm với công việc với
học trò, chúng tôi lại nghiên cứu kĩ đề minh họa của Bộ năm học 2018- 2019 và
tìm những giải pháp tối ưu nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong
giảng dạy và ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn nhất là phần Nghị luận văn học
( 5.0 điểm). Đó là lý do tôi chọn đề tài này.
3. GIẢI PHÁP
3.1. LÍ THUYẾT
3.1.1 VỀ BÀI VĂN:
- Bố cục 3 phần: Mở bài; thân bài; kết bài.
- Diễn đạt trong sáng mạch lạc, dùng từ viết câu đúng quy tắc.
3.1.2. CÁC BƯỚC VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC.
3.1.2.1.BƯỚC 1. ĐỌC KĨ ĐỀ VÀ PHÂN TÍCH ĐỀ.
- Theo như đề thi minh họa – phần nghị luận văn học sẽ lấy 2 đoạn thơ hoặc một
chi tiết nghệ thuật/ hình ảnh/ nhân vật trong văn bản văn xuôi trong cùng một văn


bản. Vậy cần đọc kĩ đề để xem đề yêu cầu phân tích làm sáng tỏ và nhận xét làm
nổi bật vấn nào .
- Phân tích đề:
+ Xác định được vấn đề cần nghị luận. Trả lời được các câu hỏi:
++ Đề yêu cầu làm sáng tỏ điều gì? ( Trọng tâm).
++ Đề yêu cầu nhận xét, đánh giá cái gì.
+ Thao tác lập luận:
++ Phải trả lời được câu hỏi: Sẽ phải sử dụng những thao tác lập luận nào?
+ Nhưng thường là các thao tác chính: Phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
+ Phạm vi kiến thức:
++ Là toàn bộ tác giả, tác phẩm liên quan đến yêu cầu đề ra.
++ Phải xác định được đơn vị kiến thức trọng tâm của văn bản liên quan đến vấn
đề mình cần làm sáng tỏ trong đề. Tránh lan man, xa đề.
- Ví dụ: Đề minh họa có ra như sau:

+ Trong tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã hai lần miêu tả cung cách ăn
uống của người vợ nhặt. Chiều hôm trước, khi được Tràng đãi bánh đúc ngoài
chợ: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì.” Và sáng hôm sau, khi người con dâu nhận bát ‘chè
khoán” từ mẹ chồng : Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con
mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miện” [ 1]
Phân tích hình ảnh của người vợ nhặt qua hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi
bật sự thay đổi của nhân vật này.
+ Vấn đề cần nghị luận: Câu nghị luận văn học yêu cầu làm nổi bật hai vấn đề.
++ Thứ nhất: Phải phân tích làm sáng tỏ về hành động, cung cách ăn uống của
nhân vật thị qua hai lần miêu tả trong tác phẩm Vợ nhặt ( Kim Lân) gắn với hai
chi tiết nghệ thuật tiêu biểu đề yêu cầu. Đây sẽ là phần trọng tâm của bài làm.
++ Thứ hai: Sau khi phân tích xong, học sinh phải có cái nhìn khái quát, tổng hợp
để đánh giá nhận xét về sự thay đổi trong cách hành xử của thị để làm nổi bật vẻ
đẹp của người đàn bà mang đầy tính nhân văn khi được sống trong tình yêu
thương và hạnh phúc.
+ Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
+ Phạm vi kiến thức: Tác phẩm Vợ nhặt ( Kim Lân), nhưng phải bám sát, xoáy
sâu vào hai chi tiết nghệ thuật đề yêu cầu (không được lan man, sa vào các phần
khác của tác phẩm) .
3.1.2.2. BƯỚC 2: LẬP DÀN Ý.
3.1.2.2.1 VỚI KIỂU ĐÊ PHÂN TÍCH HAI ĐOẠN THƠ.
* Mở bài: Khái quát nét chính về tác giả , tác phẩm, yêu cầu của đề.
* Thân bài:
- Giới thiệu về tác phẩm: Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ; vị trí của tác phẩm trong
sự nghiệp sáng tác của tác giả; nội dung tư tưởng chính của tác phẩm.
- Phân tích làm sáng tỏ các yêu cầu của đề.
+ Phân tích, làm sáng tỏ yêu cầu thứ nhất .
+ Phân tích làm sáng tỏ yêu cầu thứ hai .
- Tổng hợp, nhận xét, so sánh, đánh giá: xảy ra các trường hợp như sau:



+ Điểm giống và khác nhau qua việc phân tích hai yêu cầu trên và rút ra tác
dụng, ý nghĩa.
+ Làm nổi bật một phong cách nghệ thuật hoặc một đặc điểm nghệ thuật nào đó
của tác giả, tác phẩm.
+ Đánh giá , nhận xét cả nghệ thuật của tác phẩm.
* Kết thúc vấn đề: Khái quát đánh giá lại vấn đề và bày tỏ suy nghĩ của bản
thân.
3.1.2.2.2 VỚI KIỂU ĐỀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN, KÝ,
KỊCH.
* Mở bài: Khái quát nét chính về tác giả , tác phẩm, yêu cầu của đề.
* Thân bài:
- Giới thiệu về tác phẩm: Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ; vị trí của tác phẩm trong
sự nghiệp sáng tác của tác giả; nội dung tư tưởng chính của tác phẩm.
- Giới thiệu khái quát về nhân vật cần làm sáng tỏ.
- Phân tích làm sáng tỏ yêu cầu của đề về nhân vật.
+ Phân tích, làm sáng tỏ yêu cầu thứ nhất về nhân vật.
++ Hoàn cảnh.
++ Biểu hiện.
++ Ý nghĩa.
- Phân tích làm sáng tỏ yêu cầu của đề về nhân vật.
+ Phân tích, làm sáng tỏ yêu cầu thứ hai về nhân vật.
++ Hoàn cảnh.
++ Biểu hiện.
++ Ý nghĩa.
- Tổng hợp, nhận xét, so sánh, đánh giá: xảy ra các trường hợp như sau:
+ Điểm giống và khác nhau qua việc phân tích hai yêu cầu trên và rút ra tác
dụng, ý nghĩa.
+ Làm nổi bật một phong cách nghệ thuật hoặc một đặc điểm nghệ thuật nào đó

của tác giả, tác phẩm.
+ Đánh giá , nhận xét cả nghệ thuật của tác phẩm.
* Kết thúc vấn đề: Khái quát đánh giá lại vấn đề và bày tỏ suy nghĩ của bản
thân.
3.2. THỰC HÀNH:
3.2.1. THỰC HÀNH TRÊN LỚP.
GV sẽ làm đề ( hoặc sưu tầm ) theo tinh thần của đề thi THPT Quốc gia, photo
phát cho học sinh và hướng dẫn học sinh thực hành sau khi đã nắm vững về lí
thuyết. GV sẽ hướng dẫn HS thực hành 4 bài tập ( Nghị luận văn học) bám sát
theo đề thi minh họa của Bộ giáo dục theo đặc trưng của từng thể loại: Thơ, Ký,
truyện ngắn, kịch.
3.2.1.1. BÀI TẬP 1.
* Câu hỏi: Trong bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã hai lần nhắc đến sự
hi sinh của người lính Tây Tiến:
“ …Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thức xuống


Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !”
Và:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. [ 2]
Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong hai đoạn thơ trên, từ đó
nhận xét ngắn gọn về bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng của Quang Dũng
trong bài thơ Tây Tiến.

* Hướng dẫn học sinh phân tích đề.
- Xác định được vấn đề cần nghị luận.
+ Đề yêu cầu làm sáng tỏ: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong hai
đoạn thơ với vẻ đẹp bi tráng.
+ Đề yêu cầu nhận xét, đánh giá: bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng của
Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến.
- Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
- Phạm vi kiến thức:
+ Là tác giả Quang Dũng, tác phẩm Tây Tiến.
+ Kiến thức trọng tâm của văn bản: Hai đoạn thơ trên và bút pháp của Quang
Dũng.
* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết..
- Mở bài:
+ Tác giả: Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, làm
thơ…nhưng độc giả biết nhiều đến ông với tư cách là thi sĩ của xứ Đoài. Thơ
Quang Dũng hồn hậu, phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa.
+ Tác phẩm và vấn đề cần nghị luận: Tây Tiến là một trong những sáng tác tiêu
biểu, xuất sắc của đời thơ Quang Dũng viết về người lính. Trong đó tác giả đã
khắc họa nên vẻ đẹp bi tráng của người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp và
đặc sắc nhất là ở hai đoạn thơ trên.
- Thân bài:
+ Giới thiệu nét chính về tác phẩm:
++ Hoàn cảnh sáng, xuất xứ:
+++ Năm 1947, Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội
trưởng. Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với
bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc
từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Những
người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy chủ yếu là học sinh, sinh viên ra đi
từ Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh
tật hoành hành nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời và chiến đấu rất dũng cảm.

+++ Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh
nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ ông đã viết bài thơ
này. Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến” in trong tập thơ “Mây đầu ô”.
++ Vị trí: Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng


++ Nội dung tư tưởng: Trên nền thiên nhiên miền Tây Tây Bắc Bộ, Quang
Dũng đã khắc họa nên bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp
hào hùng, hào hoa và bi tráng.
+ Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong hai đoạn thơ.
++ Đoạn 1: Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến thể hiện ở sự kiêu bạc,
ngang tàng.
+++ Người lính Tây Tiến được khắc họa nổi bật khi đặt trong khung cảnh thiên
nhiên hùng vĩ, hoang sơ, khắc nghiệt và cũng là con đường đầy hi sinh, gian khổ
của đời lính:
++++ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Nếu chữ khúc khuỷu vẽ ra một hình
thế quanh co, hiểm trở khi ẩn khi hiện thì dốc thăm thẳm lại gợi sự sâu xa như
đến hết tầm mắt.
++++ Heo hút cồn mây súng ngửi trời Từ láy heo hút vừa gợi cao, gợi xa, gợi
vắng nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng như vô tận của núi rừng miền Tây. Cồn
mây vốn đã gợi độ cao, mây núi như chồng chất dựng lên thành cồn thành dốc.
“Súng ngửi trời” Cách nói tếu táo, hóm hỉnh cho thấy tâm hồn trẻ trung, lạc
quan ngang tàng của người lính
++++Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống:: câu thơ ngoặt gấp một cách đột
ngột, đột ngột vút lên rồi bất ngờ đổ xuống, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu
thăm thẳm.
=> Con đường hành quân khó đi, khó vượt, cướp đi rất nhiều sức lực của người
lính.
+++ Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên:
++++“Súng ngửi trời” :Cách nói tếu táo, hóm hỉnh cho thấy tâm hồn trẻ trung,

lạc quan, ngang tàng của người lính. Họ đang chinh phục đỉnh cao, khám phá sự
bí hiểm của thiên nhiên chứ không phải là hành quan gian lao.
++++ Hiện thực vẫn không tránh khỏi là sự mất mát, hi sinh không bước nữa,
gục lên súng mũ bỏ quên đời. Cách nói giảm nói tránh để thấy cái tráng át cái bi.
Người lính nằm xuống thật nhẹ nhàng thanh thản, đón cái chết thản nhiên, kiêu
bạc, ngang tàng.
+ Đoạn 2 : Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của sự hi
sinh anh dũng, nguyện xả thân vì nước theo lí tưởng Quyết tử cho Tổ quốc,
quyết sinh.
++ Bốn câu thơ viết về cái chết của người lính Tây Tiến nhưng không gợi sự đau
thương. Tác giả đã sử dụng hệ thống từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến
trường, độc hành” nhằm lột tả không khí trang nghiêm, cổ kính. Cái chết của
người lính Tây Tiến được miêu tả thật linh thiêng.
++ Câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh như một lời thề danh dự. Nó cho
thấy lý tưởng dâng hiến tuổi thanh xuân khi Tổ quốc cần và Tổ quốc gọi tên.
+++ Sự ra đi vĩnh viễn của người lính Tây Tiến. Họ nằm lại dưới vùng đất lạ
trong không khí hào hùng mà thiên nhiên dành để tiễn biệt họ. Về đất vừa là cách
nói giảm nói tránh để bớt đau thương vừa là cách nói kỳ vĩ hóa cái chết của anh
bộ đội cụ Hồ, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.


- Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử
sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng
tráng để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng sông Mã ở cuối bài thơ
được phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính_ sự hi sinh
làm lay động đất trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc.
+ Nhận xét về bút pháp tài hoa và tinh thần bi tráng của Quang Dũng trong bài
thơ:
++Bút pháp lãng mạn.
+++ Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi tràn đầy cảm xúc

của Quang Dũng khi nhớ về đoàn binh Tây Tiến với những kỉ niệm về một thời
hoa lửa của tuổi trẻ Việt nam thời chống Pháp.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện ở nét bút tài hoa của
tác giả khi sử dụng những từ láy tượng hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút,
những thủ pháp nghệ thuật như cường điệu, đối lập, nói giảm, nói tránh được sử
dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về
cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên của người lính
Tây Tiên và thiên nhiên miền Tây.
++Tinh thần bi tráng.
+ ++ Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không hề né
tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy
mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng.
Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm
đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành
hồn thiêng của đất nước. Tinh thần của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của
thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả
được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như
một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
=> Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ
nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ
đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm.
- Kết bài: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và
giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Và nó cũng đã góp phần dựng nên một
tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc
muôn đời yêu quý, tự hào.
3. 2.1.2. BÀI TẬP 2.
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân luôn thay đổi góc nhìn khi
tái hiện hình ảnh con Sông Đà:
''Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá

bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có
vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay
ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này
sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy


lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện...''
''Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay
trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước
Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu
xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về...''[ 3]
Phân tích hình tượng con Sông Đà qua hai góc nhìn trên, từ đó làm nổi bật cái
tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân khi viết về dòng sông này.
* Hướng dẫn học sinh phân tích đề.
- Xác định được vấn đề cần nghị luận.
+ Đề yêu cầu làm sáng tỏ: Phân tích hình tượng con Sông Đà qua hai góc nhìn
vừa hung bạo, vừa trữ tình trong hai đoạn văn bản trên.
+ Đề yêu cầu nhận xét, đánh giá: nổi bật cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn
Tuân khi viết về dòng sông này.
- Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
- Phạm vi kiến thức:
+ Là tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò Sông Đà.
+ Kiến thức trọng tâm của văn bản: Hai đoạn văn bản trên và phong cách tài hoa
uyên bác của Nguyễn Tuân.
* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết..

- Mở bài:
+ Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp với phong cách nghệ
thuật tài hoa, uyên bác. Ông có đóng góp lớn cho văn học hiện đại Việt Nam thể
loại tùy bút và bút kí.
+ Tác phẩm Người lái đò Sông Đà là một tùy bút tiêu biểu, xuất sắc làm nên tên
tuổi và sự thành công của Nguyễn Tuân. Trong đó, ông đã khắc họa nên hình
tượng Sông Đà với hai tính cách đối lập nhau: hung bạo – trữ tình. Hai đoạn văn
bản trên cũng đã phần nào thể hiện vẻ đẹp đó và giúp người đọc khắc sâu hơn về
phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.
- Thân bài:
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, nội dung tư tưởng của tác phẩm.
++ Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là một trong những tác phẩm đặc sắc của
Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà (1960). Đây là thành quả nghệ thuật đẹp
đẽ của Nguyễ tuân sau một chuyến đi thực tế lên vùng Tây bắc xa xôi của Tổ
quốc để tìm chất vàng mười của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa
trong tâm hồn người lao động.
++ Ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội cũng như thơ mộng trữ tình của Sông Đà và
vẻ đẹp của người lái đò Sông Đà là tác giả đi ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con


người vùng đất tây Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu tha thiết với quê hương, đất
nước.
+ Nguồn gốc và lai lịch của Sông Đà.
Còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông bắt
nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhập quốc tịch Việt Nam tại Mường Tè Lai Châu chảy theo hướng tây đông sau đó quặt lên hướng bắc để rồi nhập với
sông Hồng ở Phú Thọ. Sông Đà có khoảng lắm thác , nhiều ghềnh và được đánh
giá là hung bạo bậc nhất của những con sông ở Đông Dương.
- Phân tích hình tượng Sông Đà qua hai đoạn văn bản:
+ Vẻ đẹp sông Đà qua đoạn 1: Miêu tả sự hung bạo của dòng Sông Đà qua hình
ảnh những cảnh đá bờ sông hùng vĩ. Qua đó thấy được phần nào hình thù của con

sông Tây Bắc như kẻ thù số một và đời đời, kiếp kiếp làm mình làm mẩy, giận dữ
vô tội vạ với người lái đò sông Đà.
+ + Vị trí: Sông Đà chảy ở thượng nguồn Tây Bắc, trong địa hình đồi núi hiểm
trở.
++ Hình ảnh Sông Đà:
+++ Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng Mặt
sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng
chảy lớn. Đó là vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của Sông Đà.
++ + Lòng Sông Đà hẹp, tối, lạnh : Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có
quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở
hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một Sông Đà haong vu, bí hiểm gợi nhiều cảm
giác thú vị và trí tò mò, khao khát khám phá .
++ Ý nghĩa của hình ảnh Sông Đà hung bạo: Bằng nghệ thuật so sánh, liên
tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông.
Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút,
vững trãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con
thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ
chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
+ Vẻ đẹp sông Đà qua đoạn 2: Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà qua dáng vẻ
và tính cách. Qua đó thấy được hình thù của thiên nhiên Tây Bắc nên thơ mang
vẻ đẹp quyến rũ là say đắm lòng người.
++ Vị trí: Sông Đà được ngắm từ trên cao, khi tác giả nhiều lần đi tàu bay qua
đây để có cái nhìn bao quát từ đầu đến cuối Sông Đà.
++ Hình ảnh:
+++ Dáng vẻ: dài mượt mà, mềm mại, thướt tha, huyền ảo, tươi tắn, đầy chất thơ:
Từ trên cao nhìn xuống, tác giả hình dung con sông Đà quyến rũ như một thiếu
nữ với mái tóc buông dài hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người



Tây Bắc: con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân. Nó như bức tranh thủy mặc vương vấn
lòng người
+++ Tính cách: Thay đổi theo mùa. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích mang vẻ
đẹp tươi mát, tràn trề sinh lực; mùa thu lừ lừ chín đỏ như chở nặng phù sa từ
thượng nguồn đổ về.
++ Ý nghĩa của hình ảnh Sông Đà trữ tình: Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã
cho thấy vẻ đẹp của sông Đà cũng là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc làm say mê
trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó
gần gũi, thân thiết với cuộc sống con người.
- Nhận xét về cái tôi uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân:
+ Tài hoa: ở lối viết uyển chuyển linh hoạt,cánh so sánh, liên tưởng nhiều tầng
bậc ý nghĩa, bất ngờ và độc đáo.
+ Uyên bác:kiến thức sâu rộng về lĩnh vực như địa lý, hội họa… vận dụng đúng
lúc đúng chỗ thể hiện được ý đồ tư tưởng của nhà văn.
+ Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, ông
thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt đích: hoặc phải thơ mộng, trữ tình đến mức
tuyệt mĩ, hoặc hoành tráng đến dữ dội, dữ dằn. Sông Đà không chỉ ở hai đoạn
trên mà còn ở các đoạn còn lại nó hội tụ được cả hai vẻ đẹp ấy.
- Hai đoạn văn cùng nêu bật vẻ đẹp đa sắc của con sông Đà - chất vàng của miền
Tây Bắc của Tổ quốc. Để Sông Đà hiện lên như một sinh thể sống động, có tính
cách, có tâm hồn.
* Kết bài: Người lái đò Sông Đà thể hiện được cái tôi tài hoa uyên bác của
người nghệ sĩ,thể hiện cái nhìn gắn bó tin yêu cuộc đời của tác giả sau cánh mạng
tháng Tám năm 1945. Chất vàng mười của thiên nhiên TB cứ từ từ hiện lên bằng
một trái tim yêu mến mãnh liệt non sông gấm vóc tươi đẹp .
3.2.1.3. BÀI TẬP 3.

* Câu hỏi: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài hai lần miêu tả
thái độ sống của Mị. Khi Mị chấp nhận quay lại làm dâu nhà thống lí Phá Tra ,
tác giả viết: “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng
là con trâu, mình cũng là con ngựa…, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, đi làm mà thôi”.
Vào đêm tình mùa xuân, tác giả lại viết: “ Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại,
trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi” [ 4]
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật
sự thay đổi của nhân vật này.
* Hướng dẫn học sinh phân tích đề.
- Xác định được vấn đề cần nghị luận.
+ Đề yêu cầu làm sáng tỏ: Phân tích hình tượng nhân vật Mị qua hai lần miêu tả:
++ Lần 1: Mị bị vắt kiệt sức lao động, tê liệt về tinh thần và buông xuôi cho số
phận.


++ Lần 2: Mị có sức sống tiềm tàng mãnh liệt với khát vọng sống, tự do, tình
yêu, hạnh phúc cháy bỏng.
+ Đề yêu cầu nhận xét, đánh giá: nổi bật sự thay đổi của Mị : Cam chịu, nhẫn
nhục, tê liệt về tinh thần đến có sức sỗng trỗi dậy mãnh liệt.
- Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
- Phạm vi kiến thức:
+ Là tác giả Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
+ Kiến thức trọng tâm của văn bản: Hai chi tiết nghệ thuật trên gắn với sự xuất
hiện của Mị trong từng lần cụ thể.
* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết.
- Mở bài
+ Tô Hoài là nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Các sáng tác của ông
thiên về diễn tả sự thật đời thường. Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu rộng về phong
tục tập quán của nhiều vùng miền trên khắp cả nước. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

là một trong những tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc làm nên tên tuổi và sự thành
công của nhà văn.
+ Trong đó, nhân vật Mị đã để lại ấn tương sâu đậm trong lòng độc giả với thái
độ sống thay đổi theo chiều hướng tích cực qua hai lần miêu tả trên.
- Thân bài:
+ Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ và nội dung chủ đạo của tác phẩm.
++ Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây
Bắc năm 1952. Truyện in trong tập Truyện Tây Bắc – được tặng giải nhất giải
thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955
++ Nhà văn cảm thông sâu sắc với nỗi khổ vật chất và nỗi đau tinh thần của
người dân lao động nghèo khổ miền núi phía Bắc dưới chế độ thống trị của phong
kiến miền núi phía Bắc và khám phá sức mạnh tiềm ẩn của niềm khát khao hạnh
phúc, tự do khả năng vùng dậy để tự giải phóng ở họ . Mà điển hình là nhân vật
Mị.
+ Giới thiệu khái quát về Mị.
++ Là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, ăm ắp khát vọng hạnh phúc: “Trai đến đứng
nhẵn cả chân vách đầu buông Mị”, “Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên
môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị”
++ Là người con hiếu thảo, tự trọng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con
phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
=> Mị có đầy đủ điều kiện chính đáng để hưởng hạnh phúc song lại bị cuộc đời
chà đạp đến tận đáy. Nhưng với lòng ham sống, khát sống, trong Mị đã trỗi dậy
sức sống mạnh mẽ.
- Phân tích hình tượng nhân vật Mị qua hai lần miêu tả.
+ Lần 1. Phân tích thái độ sống của Mị khi Mị chấp nhận quay lại làm dâu nhà
thống lí Phá Tra : “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình
cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, đi làm mà
thôi”. Đó là thái độ sống cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi cho số phận.
++ Hoàn cảnh:



+++ Vì món nợ truyền kiếp bố mẹ vay gia đình nhà thống lí Pá Tra nên Mị bị bắt
về làm dâu gạt nợ.Mị là con nợ đồng thời cũng là con dâu nên số phận đã trói
buộc Mị đến lúc tàn đời.
+++ Lúc đầu: Mị phản kháng quyết liệt “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị
cũng khóc” Mị tính chuyện ăn lá ngón để tìm sự giait thoát. Vì lòng hiếu thảo nên
phải nén nỗi đau riêng, quay trở lại nhà thống lí làm con ở không công.
++ Thái độ của Mị khi làm dâu:
+++ Mị chấp nhận để nhà thống lí vắt kiệt sức lao động, bị biến thành một thứ
công cụ lao động và chấp nhận nỗi cực nhục : “Tết xong thì lên núi hái thuốc
phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thi đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi
hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành
sợi”, . Quanh năm , suốt tháng, Mị phải làm đi làm lại những việc giống nhau. Mị
vùi vào việc, Mị không bằngc con trâu, con ngựa:“Con ngựa con trâu làm còn có
lúc, đêm nó còn đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào
việc làm cả đêm cả ngày”
+++ Chịu nỗi đau khổ, chà đạp về tinh thần:Bị giam cầm trong căn phòng “kín
mít,có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ
thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ
ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Mị sống với
trạng thái gần như đã chết ở cái địa ngục trần gian này. Bời Mị đã chôn vùi cả
tuổi thanh xuân rực rỡ, tình yêu, hạnh phúc của đời mình ở nhà thống lí Pá Tra.
++ Thái độ của Mị thể hiện:
+ + + Thái độ của Mị: Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần,
buông xuôi theo số phận “Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen rồi.” Và “Bây giờ
Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa (…) ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết
đi làm mà thôi”, “Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa.” Mị mất hết ý niệm sống và chỉ như một cái xác không hồn.
+ + +Nói lên tình cảnh thống khổ của người lao động nghèo miền núi phía Bắc ,

đồng thời tố cáo mạnh mẽ bộ mặt tàn độc của bọn quan bang, chúa đất.
+ Lần 2: Thái độ sống của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Vào đêm
tình mùa xuân : “ Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.
Mị muốn đi chơi”. Thái độ sống tích cực với sức sống tiềm tàng trỗi dậy
mãnh liệt trong tâm hồn của Mị.
++ Hoàn cảnh: Đó là những tác nhân đã tác động vào Mị .
+++Trong đêm tình mùa xuân, khung cảnh thiên nhiên hiện lên với những âm
thanh tiếng sáo, tiếng trẻ chơi quay cười vang,… Mị nghe những âm thanh đó mà
bắt đầu cảm thấy bồi hồi, trái tim Mị cựa quậy sống dậy, hồi sinh.
+ + + Ngày tết, Mị lén uống rượu. Rồi say, hơi rượu nồng nàn cùng với tiến sáo
gọi bạn tình lúc thì lấp ló, văng vẳng, lửng lơ... khiến lòng Mị không yên.
++ Thái độ sống của Mị:
+ + + Mị nhận thức sự tồn tại của bản thân: Mị thấy phới phới trở lại, trong lòng
đột nhiên vui sướng; Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi, với khát


khao tự do., tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Mị muốn tháo cũi sổ lồng, thoát khỏi địa
ngục trần gian nhà thống lý Pá Tra.
+ + + Sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng Mị. Mị quyết định hành
động : Thắp đèn cho sáng, vấn lại tóc, với chiếc váy áo hoa để đi chơi.
+++ Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ, nhưng lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng
sáo, tiếng hát của tình yêu. Lúc vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa
được, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa, cô chợt tỉnh trở về với hiện
thực cay đắng, nhục nhã của kiếp nô lệ.
+ + Thái độ sống thể hiện :
+++ Trong đêm tình mùa xuân, khát khao sống, tự do , tình yêu, hạnh phúc thể
hiện: Tâm hồn chai sạn của Mị đã sống lại, Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt,
sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để
bùng lên mạnh mẽ.

+ + + Dù sự nổi loạn của Mị không thể giải thoát số phận cô nhưng đây là nền
tảng nhóm lên thêm ngọn lửa sức sống trong cô, để sức sống không lụi tắt hẳn,
chuẩn bị cho một sự phản kháng trong tương lai cắt dây trói cho A Phủ.
+ Nhận xét về sự thay đổi của nhân vật Mị.
+ + Thái độ sống cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi cho số phận ở lần thứ nhất
của Mị là do áp chế đầu độc về tinh thần ( cúng trình ma) và chà đạp về thể xác
của giai cấp thống trị miền núi phía Bắc trong chế độ cũ.
+ + Thái độ sống tích cực với khát vọng tự do, tình yêu và hạnh phúc ở lần thứ
hai là nhờ vào sự thức tỉnh với sức sống tiềm tàng trong Mị đã trỗi dậy mãnh liệt.
Đó là sức sống kỳ diệu để khẳng định người lao động nghèo dù bị vùi dập nhưng
vẫn vươn lên để được sống là chính mình.
+ + Nhà văn đã thể hiện giá trị nhâ đạo sâu sắc:  Tô Hoài đồng cảm, cảm thương
sâu sắc với số phận bất hạnh của những người dân lao động nghèo miền núi bị áp
bức bóc lột. Tác giả trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp và vẻ đẹp tâm
hồn của người lao động. Đó là sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, khả năng
vươn lên vượt thoát khỏi những xiềng xích áp bức để đổi đời.
++ Đặc sắc nghệ thuật: Tác phẩm xây dựng được nhân vật điển hình, nghệ
thuật phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, tinh tế.Ngôn ngữ vừa mang phong vị và
màu sắc dân tộc đậm đà, vừa giàu tính tạo hình và đầy chất thơ.
- Kết bài: Khẳng định vị trí, ý nghĩa của tác phẩm và nhân vật Mị trong lòng độc
giả.
3.2.1.4. BÀI TẬP4.
* Câu hỏi: Trong tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt ( Lưu Quang Vũ),
Hồn Trương Ba có hai lời thoại:
- Lần 1: Khi phải sống trong xác hàng thịt, Hồn Trương Ba đã thốt lên: Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải
của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!
- Lần 2: Khi mời Đế Thích xuống, Hồn Trương Ba đã nói : Không thể bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. [ 5]
Phân tích hình tượng nhân vật Hồn Trương Ba qua hai lần miêu tả trên, từ đó làm

nổi bật khát vọng được sống là chính mình của nhân vật này.
* Hướng dẫn học sinh phân tích đề.


- Xác định được vấn đề cần nghị luận.
+ Đề yêu cầu làm sáng tỏ: Phân tích hình tượng nhân vật Hồn Trương Ba qua hai
lần miêu tả:
++ Lần 1: Hồn Trương Ba không muốn sống trong xác anh hàng thịt vì bị dung
tục hóa.
++ Lần 2: Hồn Trương Ba có khát vọng được sống toàn vẹn , hòa hợp giữa xác
và hồn.
+ Đề yêu cầu nhận xét, đánh giá: nổi bật khát vọng được sống là chính mình.
- Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
- Phạm vi kiến thức:
+ Là tác giả Lưu Quang Vũ và tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
+ Kiến thức trọng tâm của văn bản: Hai chi tiết nghệ thuật trên gắn với sự xuất
hiện của Hồn Trương Ba trong từng lần cụ thể.
* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết.
- Mở bài
+ Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong
nhiều thể loại : thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà
soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
+ Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh
dấu sự vượt trội trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.
+ Nhân vật Trương Ba – một nhân vật bi kịch và là hình tượng nhân vật nói lên
khát vọng được sống là chính mình với triết lí nhân sinh sâu sắc.
- Thân bài
+ Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ và nội dung chủ đạo của tác phẩm:
Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ: Ra đời năm 1981, in trong Tuyển tập kịch của Lưu
Quang Vũ. Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân

gian, tuy nhiên chiều sâu của vở kịch chính là phần phát triển sau của tuyện dân
gian.
+ Vở kịch mang triết lý nhân văn sâu sắc khi đề cao vẻ đẹp nhân cách con
người. Để cho nhân vật Hồn Trương Ba khước từ cuộc sống vay mượn thân xác
người khác, Lưu Quang Vũ đã mở hướng cho nhân vật vươn tới một lẽ sống đích
thực, dẫu thân xác có trở về hư vô.
+ Phân tích Hình tượng nhân vật Hồn Trương Ba qua hai lần miêu tả.
++ Lần 1: Bi kịch của Trương Ba khi phải sống trong xác hành thịt và khát vọng
được giải thoát: : Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi
chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!
+ + + Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba: Trương Ba là người làm
vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực, chưa tới số
chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết. Hồn
Trương Ba phải trú nhờ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách
Trương Ba ngày càng thay đổi. Bi kịch của sự ngang trái, oái oăm.
+++ Lời thoại giữa hồn và xác.
+ + + + Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức
nhưng Hồn Trương Ba bị lán lướt và có nguy cơ suy thoái nhân cách khi bị
nhiễm những thói hư, tật xấu, dung tục của xác hàng thịt - một kẻ phàm ăn, tục


uống ; mê rượu , sống bản năng ; cư xử thô bạo…
+ + + + Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là
chính mình : cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại
ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im
đi”
+ + + Ý nghĩa của lời thoại:
+ + + + Con người không thể chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể sống
bằng phần hồn. Nhưng giữa hai phần ấy phải có sự hài hòa, ăn khớp, tạo nên một
con người toàn vẹn.

+ + + + Con người sống phải biết chống lại những thói hư, tật xấu, dung tục tầm
thường để giữ cho mình một tâm hồn cao khiết, trong sạch.
++ Lần 2 : Là khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba: Không
thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
+ + + Hoàn cảnh: Hồn Trương Ba rơi vào bi kịch bị từ chối. Tất cả người thân
trong gia đình đều không chấp nhận sự có mặt của ông. Người vợ vừa hờn ghen
vừa dằn dỗi chồng, quyết bỏ đi. Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu
tư vào sạp thịt. Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông
là ông nội, con dâu tỏ ra thông cảm nhưng không thể chấp nhận sự thay đổi của
bố chồng.
+ + + Lời thoại với Đế Thích:
+ + + + Hồn Hương Ba có khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác. Sống
trong xác hàng thịt ông gặp biết bao sự phiền toái và quan trọng không còn được
là chính mình.
+ + + + Trương Ba tự ý thức được rằng: Con người là sự hòa hợp giữa hồn và
xác. Sống nhờ vào đồ đạc của người khác là điều không nên, huống chi sống nhờ
vào xác người khác và phải chịu sự xui khiến từ họ nên: Không thể bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
+ + ++ Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt để được sống là chính
mình.
+ + + Ý nghĩa của lời thoại:
++++ Lời thoại này thể hiện rõ quan niệm về hạnh phúc của nhà viết kịch. Hồn
Trương Ba đã có một thân xác để tồn tại, để tiếp tục sống, ngỡ đó là hạnh phúc.
Nhưng hóa ra hạnh phúc ở đời không phải là được sống mà sống như thế nào.
++++ Con người phải được sống như chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác
– tâm hồn trong sạch như thân xác được khỏe mạnh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”,
đấy mới là hạnh phúc.
+ Nhận xét về khát vọng sống được là chính mình của Hồn Trương Ba.
++ Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn
vẹn với những giá trị mà mình vốn có càng quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý

nghĩa khi con người được sống theo lẽ tự nhiên ,hài hoà thể xác và tinh thần. Con
người phải biết luôn đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự
dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Đó
là triết lí
nhân sinh sâu sắc của vở kịch.
+ Nghệ thuật: Đối thoại kịch đậm chất triết lí, giàu kịch tính đã góp phần tạo nên


chiều sâu cho vở kịch (đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt, người
thân Trương Ba và Đế Thích…) . Hành động kịch của nhân vật phù hợp với hoàn
cảnh , tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện (thoát xác, đốt hương, bẻ
hương…). Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần
thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.
3.2. 3.THỰC HÀNH Ở NHÀ.
Sau khi hướng dẫn học sinh trên lớp, Giáo viên ra đề về nhà để học sinh thực
hành cho quen dạng. Học sinh làm vào vở bài tập hoặc giấy kiểm tra. Giáo viên
thu bài chấm, sửa cẩn thận để rèn kĩ năng và nâng cao chất lượng qua từng bài
làm.
3.2.3.1. BÀI TẬP 1. Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu có viết về lời của người ở
lại:
“…Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Và:
“…Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” [ 6]
Phân tích lời của người ở lại dành cho người ra đi trong hai đoạn thơ trên, từ

đó làm nổi bật tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc.
3.2.3.2. BÀI TẬP 2.
Trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã 2 lần
miêu tả dòng sông Hương:
Ở thượng nguồn “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm nó đã là một bản
trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có
lúc nó trở nên dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”
Khi về đến thành phố Huế: “ Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bờ
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; “Sông Hương uốn một cánh cung rất
nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một
tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. “Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế”; “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. [ 7]
Hãy phân tích các chi tiết trên để làm nổi bật nét đặc sắc trong hành trình của
sông Hương. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
3.2.3.3. BÀI TẬP 3.
Trong truyện ngắn Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã nhiều lần nhắc đến cây
xà nu. Đoạn văn mở đầu, tác giả viết:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày
hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa
đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con


nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có
những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.Ở chỗ
vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi
dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu
mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên

lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó
phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên
cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây
bay ra thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người, lại bị
đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng,
vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng
cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những
con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết
thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt
lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu
ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Và kết thúc tác phẩm là: “…Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà
nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to.
Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô
số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt
như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài
những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” [ 8]
Cảm nhận vẻ đẹp cây xà nu trong các đoạn trích trên.Từ đó, anh/chị lí giải
nhận định: Cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc tạo nên màu sắc sử thi
và sự lãng mạn bay bổng cho thiên truyện. [ 9]
4. HIỆU QUẢ:
- Bản thân đã đưa cách làm trên vào áp dụng
trong giảng dạy cho HS khối 12 ôn thi THPT Quốc gia. Sau đó tôi cho học sinh
thực hành làm đề trên lớp với sự giám sát chặt chẽ, chấm bài nghiêm túc và kết
quả điểmcủa câu nghị luận văn học rất khả quan. Điểm lần sau luôn cao hơn lần
trước. Qua phổ điểm và % thống kê từng phổ điểm đã cho thấy rõ điều đó.
Tôi dạy các lớp: - 12A1sĩ số là 42 Học sinh.

- 12A4 sĩ số là 43 Học sinh.
- 12A6 sĩ số là 38 Học sinh.
Tổng sĩ số là : 123 học sinh.
Sau 3 lần kiểm tra cho câu nghị luận văn học ( 5.0 điểm) tôi được phổ điểm như
sau:
Phổ điểm bài số 1
Phổ điểm bài số 2
Phổ điểm bài số 3
Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ % Đ %

2


3


4


5


2


3


4



5


2


3


4


5


7
0

5 2 2 1 1 1 3 5 4 4 3 2 1 1 1 2 1 4 3 4 3 2 1
7 8 8 5 2 0
0 1 1 3 0 6 2 0 0 6 3 4 0 3 0 7

Từ hiệu quả trong quá trình giảng dạy của bản thân, sáng kiến của tôi cũng đã
được các đồng nghiệp trong tổ chia sẻ và áp dụng có hiệu quả không chỉ cho học
sinh lớp 12 mà còn cả học sinh khối 10, 11 .
III. KẾT LUẬN:
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi sau quá trình rèn kĩ năng viết
bài văn nghị luận văn học cho học sinh lớp 12 sẽ dự kì thi THPT năm học 2018 –
2019.Tôi hi vọng nó cũng là một đề tài bổ ích để góp phần nào vào công tác ôn

thi cho những giáo viên dạy môn Ngữ văn ở nhà trường THPT.
Tôi xin cam đoan đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi.
Xác nhận của nhà trường

Người thực hiện
Trần Thị Lan


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ 1] Trích Vợ nhặt – Kim Lân Ngữ văn 12, Tập 2, NXBGD, 2009).
[ 2] Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXBGD, 2016).
[ 3] Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân ,Ngữ văn 12 tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2011).
[ 4] Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập 2, NXBGD, 2009).
[ 5] Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ, Ngữ văn 12, Tập
2, NXBGD, 2009).
[ 6] Trích Việt Bắc – Tố Hữu , Ngữ văn 12, Tập một, NXBGD, 2016)
[ 7] Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12,
Tập một, NXBGD, 2016).
[ 8] Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12, Tập 2, NXBGD,
2009) .
[ 9] Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn lớp 12, NXB
Giáo Dục Việt Nam, năm 2010, trang 65.



×