Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật việt nam từ thực tiễn huyện vân đồn, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.2 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH CƯỜNG

ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC HỘ KINH DOANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH CƯỜNG

ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC HỘ KINH DOANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Minh Cường, cam đoan rằng đề tài nghiên cứu khoa
học: “Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh” của luận văn là kết quả nghiên
cứu riêng của bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Nguyễn Như Phát. Tôi xin cam đoan, những kết quả nghiên cứu của các tác
giả khác và các số liệu được sử dụng trong luận văn đều có trích dẫn đầy đủ.
Tác giả

Nguyễn Minh Cường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC HỘ
KINH DOANH................................................................................................7
1.1. Quá trình phát triển của hộ kinh doanh...................................................7
1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh.............................. 10
1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh........................22
1.4. Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh so với các loại hình doanh
nghiệp khác.................................................................................................. 25
1.5. Vai trò của hộ kinh doanh trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam hiện nay............................................................................................... 26
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CỦA CÁC HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH........................35
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về đăng ký kinh doanh của các
hộ kinh doanh...............................................................................................35
2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh

doanh từ thực tiễn thực hiện tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh............40
Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CỦA CÁC HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH.........49
3.1. Một số kiến nghị chung về cơ chế, thủ tục........................................... 49
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh....................................................................................................50
KẾT LUẬN....................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................65


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

FTA

Hiệp định thương mại tự do

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Uỷ ban nhân dân

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: So sánh các tiêu chí hộ kinh doanh với các loại hình doanh
nghiệp khác..................................................................................................... 26
Sơ đồ 3.1: Luồng xử lý đăng ký hộ kinh doanh theo mô hình một cửa liên
thông................................................................................................................55
Sơ đồ 3.2: Mô hình hệ thống đăng ký hộ kinh doanh mới..............................56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, bên cạnh hệ thống các doanh nghiệp thành lập theo
Luật Doanh nghiệp, loại hình hộ kinh doanh là một mô hình pháp lý phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hộ kinh doanh đã gắn
liền với quá trình phát triển kinh tế đa thành phần của Việt nam, với các tên
gọi: Hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp, hộ kinh doanh. Cùng với sự tăng trưởng,
phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn qua khu vực kinh tế tư
nhân trong đó các hộ kinh doanh ngày càng tăng trưởng về số lượng cũng như
ngành nghề kinh doanh. Hộ kinh doanh giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế
nước ta, đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể: Sử dụng nguồn lực

lao động xã hội một cách tối ưu, góp phần giải quyết việc làm, an sinh xã hội,
xóa đói giảm nghèo. Sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh đa dạng đủ mọi
ngành nghề, nhiều mặt hàng sản phẩm truyền thống của nước ta đang được hộ
kinh doanh giữ gìn và phát triển. Do hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, gọn
mang tính chất gia đình, hoặc liên kết nhóm nên không phát sinh nhiều thủ
tục hành chính trong quá trình khởi nghiệp, áp dụng hình thức nộp thuế theo tỉ
lệ trên doanh thu nên đơn giản và thuận tiện. Khuôn khổ pháp luật hiện hành
đã cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định của Hiến
pháp năm 2013. Pháp luật về đăng ký kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu
đơn giản hóa tối đa về trình tự, thủ tục, giảm bớt về thủ tục hành chính cho
các chủ thể kinh doanh. Do đó, sớm nhận thức rõ vai trò của hộ kinh doanh
trong quá trình đổi mới phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những
chủ trương, chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế ở khu vực hộ kinh
doanh.

1


Tuy nhiên từ thực tiễn hiện nay cho thấy từ khái niệm cho tới địa vị, trách
nhiệm pháp lý của hộ kinh doanh đều không rõ ràng. Mặt khác, các hộ kinh
doanh chịu nhiều hạn chế như chỉ được kinh doanh ở một địa điểm, không
được mở chi nhánh, văn phòng đại diện, không có quy định về thủ tục giải
thể, phá sản và không được hỗ trợ theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa… Pháp luật hiện hành đã có các quy định khuyến khích, tạo thuận lợi cho
các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Nhưng thực tế khi áp dụng
những quy định trên còn gặp nhiều lúng túng và khó khăn, chưa thực sự tạo
điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh. Trước
những khó khăn, bất cấp hiện nay, cần hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh
để minh bạch, rõ ràng, đảm bảo về mặt pháp lý; khi đó nhà nước sẽ bảo hộ
các hộ kinh doanh, giúp tối đa hóa các nguồn lực, xóa bỏ các hạn chế với các

hộ kinh doanh để hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh đơn
giản và thuận lợi nhất.
Vì các lý do trên học viên lựa chọn đề tài: "Đăng ký kinh doanh của các
hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh" để thực hiện luận văn thạc sĩ luật kinh tế. Qua đó, luận văn cũng
hướng đến việc tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh và phân tích những luận điểm,
luận cứ khoa học và thực tiễn quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh
của các hộ kinh doanh để đưa ra những kiến nghị, hướng hoàn thiện phù hợp
thực tiễn của pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, sự điều
chỉnh pháp luật trong hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong chương trình đào tạo đào tạo cử nhân luật ở các trường Đại học
trong nước, vấn đề về hộ kinh doanh là một phần chương trình giảng dạy
2


về Luật Thương mại, ví dụ như Tài liệu học tập Luật Thương mại tập 1 và 2,
của Trường Đại học Huế, Nxb. Đại học Huế, 2011; Giáo trình Luật Thương
mại phần chung và thương nhân, của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Giáo trình Luật Thương mại tập 1 và 2, của
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2015. Nghiên
cứu các vấn đề pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện nay gồm có
Luận án Tiến sĩ luật học chuyên ngành Luật Kinh tế năm 2016 của tác giả
Nguyễn Thị Thu Thủy; Nghiên cứu vấn đề pháp luật về thuế đối với hộ kinh
doanh từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi là Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật
kinh tế năm 2017 của tác giả Phạm Thị Minh Phương. Các công trình nghiên
cứu khoa học nêu trên đã đi sâu phân tích khái niệm đăng ký kinh doanh, đặc
điểm, bản chất và vai trò của hộ kinh doanh trong nền kinh tế - xã hội ở Việt
Nam. Nghiên cứu vấn đề về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, luận
văn mong muốn tìm ra các vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật

hiện hành, đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp
luật và nâng cao vị trí pháp lý của hộ kinh doanh so với các loại hình đăng ký
kinh doanh khác.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứuàl đề xuất một sốến kinghịvà giải pháp sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật hỗ trợ hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh và góp phần hoàn thiện pháp luật. Luận văn có những nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất: Phân tích các vấn đề lý luận của pháp luật về đăng ký kinh
doanh của các hộ kinh doanh theo hướng việc đăng ký kinh doanh là quyền
của các hộ kinh doanh và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các quy
định của pháp luật, cụ thể như sau: Khái niệm, đặc điểm và ý
3


nghĩa, giá trị pháp lý của hộ kinh doanh, những điều kiện để thực hiện việc
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh
của các hộ kinh doanh qua thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Thứ ba: Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng của pháp luật về
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, luận văn tập trung đưa ra những
phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của
các hộ kinh doanh ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay từ thực
tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giải pháp hoàn thiện công tác đăng
ký kinh doanh của các hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh .
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng
ký kinh doanh của các hộ kinh doanh tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ
năm 2015-2018.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và áp dụng các phương pháp nghiên
cứu của khoa học xã hội và luật học. Đó là các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ
thống, thống kê, lịch sử; phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp xã hội pháp
luật… Theo đó có phương pháp điều tra, phỏng vấn:iềuĐ tra, phỏng vấn bằng phiếu hỏi
đã được thực hiện đối với 200 hộ kinh doanh và 10 doanh nghiệp; phỏng vấn chuyên
sâu đối với 20 chủ hộ kinh doanh tạiệnhuyVân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

4


Bên cạnh đó, Luận văn sử dụng các kết quả khi tham gia các hội thảo, ghi chép các
ý kiến của các chuyên gia để thu thập những đánh giá cũng như đề xuất giải pháp
khuyến khích hộ kinh doanh đăng ký thành doanh nghiệptheo quy định tại Luật Doanh
nghiệp.
Chương 1. Luận văn sử dụng phương pháp chủ đạo là phân tích và tổng
hợp để nêu lên những lập luận của pháp luật về đăng ký kinh doanh của các
hộ kinh doanh, qua đó làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, đăng ký kinh doanh
và pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
Chương 2. Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp thống

kê, phương pháp phân tích tổng hợp để chỉ ra thực trạng thực hiện pháp luật
trong hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh từ thực tiễn tại
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3. Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp luật học so sánh, phương pháp hệ thống để đề ra các giải pháp hoàn
thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của
các hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về ý nghĩa khoa học, luận văn đóng góp về phương diện lý luận cho việc
nghiên cứu pháp luật, quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, tìm kiếm mô hình đăng ký kinh
doanh nào cho phù hợp. Luận văn cũng làm rõ vai trò, chức năng của pháp
luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, sự tác động của hệ thống
pháp luật về hộ kinh doanh tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

5


Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo
có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật về
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Với cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu trên, luận văn này gồm ba phần
chính sau:
Chương 1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh .

6


Chương 1
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC
HỘ KINH DOANH
1.1. Quá trình phát triển của hộ kinh doanh
Thuật ngữ“hộ kinh doanh” chính thức được sử dụng tại các văn bản quy phạm
pháp luật Việt Nam từ năm 2006. Trong những năm trước đây, hộ kinh doanh được
gọi bằng các tên khác nhau như tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa; hộ cá thể, hộ tiểu
công nghiệp;kinhhộ doanh cá thể;… và thay
đổi theo từng thời kỳ. TrướcổiĐ mới (trước năm 1986), hộ kinh doanh tồn tại dưới
hình thức tổ chức tiểu sản xuất hàng hoá (gồm các thợ thủ công, nông dân cá thể,
người làm dịch vụ nhỏ) được kinh doanh sauhik
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấpgiấy môn bài. Tuy nhiên, do việc
thực hiện cải cách xã hội chủ nghĩa và vận động cho một chính sách kinh tế
xã hội chủ nghĩa đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế, khu vực kinh tế của
sản xuất trong giai đoạn này chỉ có tỷ lệ khá khiêm tốn. Năm 1975 (năm
thống nhất), khu vực tư nhân và sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ


miền Bắc chỉ chiếm 8,3% tổng sản lượng xã hội [27] cho đến khi bắt

đầu thời kỳ Đổi mới (năm 1986) các nghề thủ công và các tổ chức tư nhân sử
dụng 23,2% tổng lực lượng lao động và tạo ra 15,3% giá trị của tổng sản xuất

công nghiệp [28].
Trong giai đoạn từnăm 1986 đến nay cùng với chủ trương, chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, hộ kinh doanh đã phát triển mạnh mẽ, thể hiện:
Thứ nhất, trước khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (năm
1990), hộ kinh doanh tồn tại dưới hình thức hộ cá.H ộthểcá thể do Uỷ ban nhân
dân phường, xã xét cấp đăng ký kinh doanh và hộ tiểu công
7


nghiệp. Hộ tiểu công nghiệp (xưởng, cửa hàng,...) có tư liệu sản xuất và các vốn
khác thuộc sở hữu của chủ hộ; được thuê mướn lao động theo hợp đồng thoả
thuận giữa chủ và người làm thuê; chủ hộ là người lao động trực tiếp hoặc đóng
vai trò chính về kỹ thuật sản xuất và tự điều hành sản xuất kinh doanh; thu nhập
sau khi đóng thuế và trả công cho người làm thuê thuộc sở hữu của chủ hộ [37].
Hộ tiểu thủ công nghiệp do Uỷ ban nhân dân quận, huyện xét cấp đăng ký kinh
doanh và được chính thức công nhận bằng Nghị định số 27-HĐBT của Hộiđồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ) .
Trong giai đoạn này, do điều kiện lịch sử và bối cảnh kinh -tếxã hội cùng với
danh mục cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp
luật rất rộng nên sự phát triển của các hộthể, hộ tiểu công nghiệp còn chậm .
Thứ hai, trong giai đoạn từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật
Công ty (năm 1990) đến trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp 1999, hộ kinh
doanh tồn tại dưới hình thức người kinh doanh (gồmcác cá nhân, nhóm người
kinh doanh dưới vốn pháp định) theo quy định tại Nghị định số 66/HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).Nghị định này quy định về quyền, nghĩa vụ
của người kinh doanh; về nội dung, trình tự, thủ tục đăng ký, thay đổi, tạm ngừng,
chấm dứt kinh doanh của loại hình này. Điểm đáng chú ý là, Nghị định này quy
định người kinh doanh không bị giới hạn trong việc thuê mướn số lượng lao động
[37].
Thứ ba, trong giai đoạn từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp năm 1999 đến trước

khi ban hành Luật Doanh nghiệp 2005, hộ kinh doanh tồn tại dưới hình thức hộ kinh
doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ theo quy định tại Nghị định số
02/2000/NĐ-CP của Chính phủ.Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
có nguyên nhân quy
8


định không cho phép hộ kinh doanh được thường xuyên thuê lao động
không phù hợp với thực tiễn hoạt động của hộ kinh doanh. Vì vậy, để tạo điều kiện cho
hộ kinh doanh cá thể phát triển, ngày 02 tháng04năm 2004
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2004/ NĐ-CP về đăng ký kinh doanh;
trong đó đã bãi bỏ quy định hộ kinh doanh không được thường xuyên thuê lao
động[37]. Điều 24 Nghị định số 109/2004/NĐ-CP quy định“hộ kinh doanh cá thể
được thuê không quá mười lao động. Hộ kinh doanh cá thể có sử dụng trên mười
lao động hoặc có hơn một địa điểm kinh doanh phải chuyển đổi thành doanh
nghiệp” .
Thứ tư, trong giai đoạn từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 đến nay, với các
nghị định hướng dẫn Luật Doanh nghiệp 2005.Nghị định số 88/2006/NĐ-CP năm
2006, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP năm 2010, Luật Doanh nghiệp 2014, Nghị định
số 78/2015/NĐ-CP năm 2015, hộ kinh doanh cá thể được đổi tên thành hộ kinh
doanh, bổ sung đối tượng một nhóm người làm chủ hộ kinh doanh và sửa đổi quy
định việc yêu cầu các hộ kinh doanh sử dụng từ mười lao động phải chuyển đổi sang
hoạt động theo hình thức doanh nghiệp. Bên cạnh việc đổi tên hộ kinh doanh theo
từng thời kỳ, nhiều cơ chế,chính sách đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc hình
thành và phát triển của hộ kinh doanhNờ. đó, thị trường đã chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ của hộ kinh doanh. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1999 cả nước có hơn 1,5
triệu hộ kinh doanh sử dụng hơn
3 triệu lao động, đến năm 2017, số hộ kinh doanh đã tăng lên trên 5,14 triệu,
sử dụng khoảng 8,58 triệu lao động [37].
Như vậy, hộ kinh doanh là giải pháp cần thiết và tất yếu thay thế cho

thành phần kinh tế tư bản tư nhân, vì trong rất nhiều năm trước đó, pháp luật
không khuyến khích. Từ năm 2000, đặc biệt là từ năm 2006 và 2014 trở đi,
mọi điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp nói chung, doanh
9


nghiệp tư nhân nói riêng đã được xoá bỏ (Các Luật Doanh nghiệp năm 1999,
2005 và 2014). Điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân và công ty gần như
bằng không và không khác gì với việc thành lập hộ kinh doanh. Đặc biệt là
việc Luật Doanh nghiệp năm 2005 và 2014 cho phép thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân. Do đó, hộ kinh doanh đã thật sự hết
lý do, vai trò lịch sử. Còn sự tồn tại và phát triển như là doanh nghiệp mà
không được thừa nhận là doanh nghiệp chỉ là do sự khiếm khuyết của pháp
luật. Tuy nhiên, vì các Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014 và các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan khác vẫn tiếp tục quy định về hộ kinh
doanh một cách quá đơn giản, nên đương nhiên đã trở thành sự lựa chọn chủ
yếu trên thực tế. Việc một người có nhiều công ty là chuyện bình thường,
nhưng một người đồng thời duy trì hai loại hình kinh doanh là công ty và hộ
kinh doanh là điều pháp luật cần phải nghiên cứu điều chỉnh.
1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh
1.2.1. Khái niệm hộ kinh doanh


một số quốc gia phát triển trên thế giới chỉ có quy định về hộ kinh

doanh do cá nhân làm chủ với nhiều khái niệm khác nhau như doanh nghiệp
một chủ (one-man business), thương nhân cá thể (sole trader) hoặc doanh
nghiệp cá thể (sole proprietorship).
Để hiểu rõ hơn về khái niệm “hộ kinh doanh”ở Việt Nam, trước hết cần tìm
hiểu thêm về thuật ngữ “hộ gia đình”. Hộ gia đình đã được để cập đến trong các

văn bản quy phạm pháp luật từ năm 1964 ví dụ như tại khoản 6, Điều 29, Luật
Nghĩa vụ quân sự năm 1981 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1990). Hộ gia đình
được nhắc đến với tư cách thểlàchủa quan hệ dân sự bắt đầutừ Luật Đất đai năm
1993khi quy định hộ gia đình là một trong những chủ thể sử dụng đất ạbênnh các
tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã
hội và cá nhân. Và tiếp tục tại
10


Điều 116 Bộ luật dân sự năm 1995đã ghi nhận hộ gia đình là một chủ thể của quan hệ
dân sự. Chủ thể hộ gia đình được ghi nhận tại Điều 106 Bộ luật d sự năm 2005 như
sau:“Hộ gia đình mà các thành viêntàicósản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt
động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy đị là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc
lĩnhcnày”vự. Ngoài ra, Luật
Đất đai sửa đổi bổ sung năm 2013 cũng ghi nhận“tưcách” chủ thể của hộ gia đình trong
các quan hệ về quyền sử dụng đất hay sản xuất nông nghiệp. Điê này có nghĩa rằng Bộ
luật Dân sự và mộtnbảnsố khácvă đã ghi nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ gia
đình với tư cách là đơn vị kinh tế tự ch trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và một số ngành nghề khác. Trong giai đoạn phát triển của nước ta hiện
nay, hộ gia đình đang
được coi là đối tượng đầu tư chủ của các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Số
lượng giao dịch tài chính, tín dụng giữa các hộ gia đình và ngân hàng, các tổ
chức tín dụng ngày càng gia tăng. Do vậy, khi xác định chủ thể thành viên hộ
gia đình, Bộ luật dân sự trước kia và một số quy định pháp luật có liên quan
luôn coi hộ gia đình là chủ thể đặc biệt, bởi vì, hộ gia đình được hiểu là các
thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế
chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh khác do pháp luật quy định. Kinh tế hộ gia đình nhìn chung là sản
xuất, buôn bán nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc hoặc sản xuất hàng hóa với năng

suất lao động thấp nhưng lại có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam đã xuất hiện
và tồn tại hàng nghìn năm và vẫn sẽ là đơn vị cơ bản trong xã hội và trong
phát triển sản xuất nông nghiệp.

11


Các hoạt động kinh tế hộ gia đình ngày càng đa dạng và phát triển. Để
tăng năng suất lao động và mở rộng phạm vi sản xuất ra ngoài hộ gia đình,
các hộ gia đình khi đó sẽ thực hiện các thủ tục tham gia vào thị trường kinh
doanh. Từ bản chất ban đầu là kinh tế hộ gia đình, khi có đủ điều kiện, hộ gia
đình sẽ được nhà nước cho phép đăng ký ngành nghề kinh doanh và đi vào
hoạt động kinh doanh với tên gọi là hộ kinh doanh như các loại hình doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, hiện nay Luật Doanh nghiệp chưa thừa nhận hộ kinh
doanh là một hình thức doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là chủ thể có hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là các hoạt
động sản xuất, mua bán và trao đổi hàng hóa nhằm mục đích sinh ra lợi nhuận
trên thị trường. Các hoạt động kinh doanh luôn có sự đa dạng về hình thức và
cách thức thực hiện và được điều chỉnh bởi pháp luật kinh tế. Theo đó, dù là
cá nhân hoặc nhóm cá nhân, hay pháp nhân (công ty) đều có thể là nội hàm
của khái niệm doanh nghiệp. Lúc này khái niệm doanh nghiệp là khái niệm
kinh tế, chưa phải là khái niệm pháp lý.
Từ cách phân tích định nghĩa này, có quan điểm cho rằng việc đưa cá nhân
- hộ kinh doanh vào Luật doanh nghiệp để thừa nhận họ là doanh nghiệp là
vấn đề rất bình thường. Nhưng khi có quan điểm như vậy, đồng nghĩa đang có
sự nhầm lẫn giữa khái niệm pháp lý và khái niệm kinh tế.
Khoản 1 điều 66 nghị định 78/2015/NĐ-CP định nghĩa về hộ kinh doanh
như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá

nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Đồng thời, điều 101 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp hộ gia
đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ
12


dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự”.
Theo đó, hộ kinh doanh không phải là một chủ thể pháp lý. Các thành viên
là cá nhân tham gia hộ kinh doanh đó mới là chủ thể pháp lý. Hộ kinh doanh
chỉ là cách gọi chung cho những nhóm cá nhân kinh doanh với trách nhiệm vô
hạn (“chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh”).
Vì tất cả những điều đó, cá nhân kinh doanh là một chủ thể khác với công
ty kinh doanh, dù trong khái niệm kinh tế thì hai chủ thể đều là doanh nghiệp,
nhưng trong khái niệm pháp lý, những cơ chế và yêu cầu pháp lý đối với hai
chủ thể này là khác hẳn.
Như vậy, hộ kinh doanh như một chủ thể doanh nghiệp không tồn tại
trong Luật doanh nghiệp hiện hành, nhưng hộ kinh doanh thực chất đã có tư
cách pháp lý trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nổi bật là trong Bộ
luật dân sự. Cũng cần tính đến thực tế hộ kinh doanh là khái niệm sinh ra từ
thực tiễn mang tính truyền thống và văn hóa của Việt Nam, bắt đầu từ “hộ gia
đình”.
Các bộ luật dân sự năm 1995, 2005 đều có quy định về hộ gia đình và tổ
hợp tác, tức mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của “hộ” có chức năng kinh

doanh. Tuy từ “hộ” không còn giá trị trong mối quan hệ hiện đại và khái niệm
hộ đã bị loại bỏ khỏi Bộ luật dân sự 2015 nêu trên (coi “hộ” chỉ là nhóm
những cá nhân), chúng ta nên thẳng thắn nhìn nhận rằng, “hộ” kinh doanh đã
tồn tại rất lâu trong thế giới pháp luật chúng ta và là một thực tiễn sống động
không thể phủ nhận.

13


Trước đây, Nghị định của Chính phủ về đăng ký kinh doanh là Nghị định
số 02/2000/NĐ- CP ngày 03/02/2000 và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày
02/4/2004 đều có quy định về tên gọi “hộ kinh doanh cá thể”. Sau đó, Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 về đăng lý kinh doanh với tên gọi là “hộ
kinh doanh” [10].
Nghị định số 109/2004/NĐ-CP định nghĩa: Hộ kinh doanh cá thể do một
cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh [6]. Nghị
định số 88/2006 NĐ- CP định nghĩa: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công
dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được
kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con
dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh [7]. Điều 66, khoản 1 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 định
nghĩa: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá
nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được chia
thành ba loại căn cứ vào chủ tạo lập ra nó: (1) Hộ kinh doanh do một cá nhân

làm chủ; (2) hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ; và (3) Hộ kinh
doanh do hộ gia đình làm chủ. “Hộ gia đình” được kinh doanh dưới hình thức
hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh như trên vừa nói có lẽ xuất phát từ
việc Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 20 15 qui định “hộ gia đình” là
chủ thể của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.
14


Thứ nhất, “hộ gia đình” không phải là cá nhân và cũng không phải là
pháp nhân, mà là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam. Do đó hộ kinh
doanh cá thể hay hộ kinh doanh là thương nhân thể nhân. Trước đây, hộ cá
thể và hộ tiểu công nghiệp (hình thức đầu tiên của hộ hộ kinh doanh cá thể
hay hộ kinh doanh), theo Nghị định số 27- HĐBT ngày 9/3/1988, là thương
nhân thể nhân [12].
Thứ hai, tập hợp các cá nhân hay các thành viên của “hộ gia đình” không
dễ xác định. Dấu hiệu của một “gia đình” được thể hiện qua quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng. Song “hộ gia đình”
không bao gồm tất cả các thành viên có các mối quan hệ đó với nhau. Được
xem là thành viên của hộ gia đình cần phải có hai điều kiện:
(1) Điều kiện quan hệ (điều kiện cần), thể hiện qua việc hoặc có quan hệ hôn
nhân, hoặc có quan hệ huyết thống, hoặc có quan hệ nuôi dưỡng; và
(2) điều kiện chung sống (điều kiện đủ), có nghĩa là cùng trú ngụ ở một nơi
hoặc cùng kiếm sống dựa vào cùng một sản nghiệp. Tuy nhiên số lượng các
thành viên thuộc hộ gia đình có thể biến động, vì vậy gây khó khăn không ít
cho việc giải quyết tranh chấp có liên quan. Trong thực tiễn tư pháp và trong
thực tiễn thi hành pháp luật ở các cơ quan hành pháp, người ta thường xác
định tập hợp thành viên hộ gia đình thông qua sổ hộ khẩu. Đây có lẽ không
phải là một việc làm hợp lý bởi sự tồn tại của sổ hộ khẩu không có cơ sở để
đứng vững trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa sổ hộ khẩu không nói lên vấn
đề rằng các thành viên có cùng trú ngụ hay cùng kiếm sống hay không. Có lẽ

cần đưa vào nội dung đăng ký kinh doanh việc xác định các thành viên của hộ
gia đình khi đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, bởi vấn đề
xác định các thành viên như vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ lợi
ích của các chủ nợ của hộ kinh doanh.

15


Nghị định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 cho phép “một nhóm người”,
không phải là hộ gia đình, được kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh.
Việc cho phép này có tác dụng thúc đẩy kinh doanh, nhưng gây khó khăn về
mặt pháp lý, nhất là về chế độ trách nhiệm của toàn thể và từng thành viên của
nhóm, và về chế độ quản trị hộ kinh doanh. Bản thân thuật ngữ nhóm người
rất khó xác định về nhiều khía cạnh như: Số lượng thành viên trong “một
nhóm người” có hạn định không? Các thành viên trong nhóm cần có đặc điểm
gì đặc biệt về nhân thân không, hay có quan hệ gần gũi không?
Pháp luật Việt Nam hiện nay phân biệt hộ kinh doanh với doanh nghiệp
thông qua việc sử dụng lao động. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một
nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh
doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Hộ kinh doanh
có sử dụng từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp
theo quy định (Khoản 3, Điều6 6 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015).
Do đó, có thể hiểu, pháp luật Việt Nam hiện nay quan niệm hộ kinh doanh và
các hình thức công t y không khác gì nhau về hình thức kết cấu mà chỉ khác
nhau về quy mô kinh doanh.
Như vậy, hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam, hoặc một
nhóm người, một hộ gia đình làm chủ. Đối với hộ kinh doanh do một cá nhân
làm chủ, cá nhân có toàn quyền quyết định về mọi hoạt động kinh doanh của

hộ (như chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân). Đối với hộ
kinh doanh do một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, mọi hoạt động
kinh doanh của hộ do các thành viên trong nhóm hoặc trong hộ quyết định.
Nhóm người hoặc hộ gia đình cử một người đủ
16


điều kiện là đại diện cho nhóm hoặc cho hộ để tham gia giao dịch với bên
ngoài. Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã không còn quy định về hộ kinh doanh và
không còn ghi nhận loại hình này là một chủ thể trong giao dịch dân sự. Các
luật khác như Luật Sở hữu trí tuệ cũng không khẳng định một cách rõ ràng về
việc hộ kinh doanh cá thể có thể là một chủ thể được quyền sở hữu tài sản sản
trí tuệ.
1.2.2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh
1.2.2.1. Hộ kinh doanh không phải là pháp nhân
Các hộ kinh doanh được thành lập bởi một cá nhân vì vậy họ không thể là
pháp nhân. Hộ kinh doanh gắn liền với cá nhân thành lập ra hộ kinh doanh.
Tất cả tài sản của hộ kinh doanh thuộc quyền sở hữu của cá nhân làm chủ
kinh doanh đó.
Cá nhân tạo lập hộ kinh doanh hưởng toàn bộ lợi nhuận (sau khi đã thực
hiện các nghĩa vụ tài chính và thanh toán theo qui định của pháp luật) và trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình (không tách bạch). Trong
hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án kinh tế, chủ hộ kinh doanh (cá nhân) có
thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trước tòa.
Cũng như một cá nhân làm chủ hộ kinh doanh, hộ kinh doanh gồm nhóm
các cá nhân làm chủ cũng không có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên có vấn đề
rắc rối cần lưu ý rằng: Người đứng ra đăng ký kinh doanh có được xem là
người đại diện đương nhiên cho nhóm tạo lập ra hộ kinh doanh hay không,
hay chỉ là người đại diện cho nhóm để đăng ký kinh doanh? Câu trả lời có ý
nghĩa quan trọng đối với chế độ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của hộ

kinh doanh, vấn đề tư cách tham gia tố tụng và vấn đề quản trị hộ kinh doanh.
Câu trả lời phụ thuộc phần nào vào việc giải thích các qui định về thành lập
và đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh mà sẽ được nghiên cứu sau.

17


Trường hợp hộ kinh doanh được tạo lập bởi hộ gia đình, thì hộ kinh doanh
có bản chất là hộ gia đình kinh doanh. Do đó hộ kinh doanh cũng không phải
là pháp nhân.
Như vậy, hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp, cá nhân, nhóm
người, hộ gia đình nhân danh mình tham gia vào các hoạt động kinh doanh.
Trở thành hộ kinh doanh hoạt động độc lập và có tư cách pháp lý riêng, như
một doanh nghiệp nhưng hộ kinh doanh không không được thực hiện các
quyền mà doanh nghiệp có như trong Luật Doanh nghiệp đã quy đinh. Khi
tham gia thỏa thuận kinh doanh, đại diện hộ kinh doanh nhân danh mình để
thực hiện hoạt động giao dịch đó.
1.2.2.2. Hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh quy mô rất nhỏ
Đặc điểm này không xuất phát từ bản chất bên trong của hình thức kinh
doanh này mà xuất phát từ các qui định của pháp luật Việt Nam căn cứ vào số
lượng lao động được sử dụng trong hộ kinh doanh. Điều này gây tốn kém
không thật cần thiết cho người kinh doanh, và có thể trái với
ý chí và khả năng kinh doanh của họ. Việc buộc hộ kinh doanh sử dụng
thường xuyên hơn mười lao động phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức
doanh nghiệp có lẽ chưa tính đến đặc trưng của từng ngành nghề kinh doanh.
Với một cửa hàng cơm bình dân con số người phục vụ có thể lên tới hàng
chục với các công việc như nấu ăn, chạy chợ, phục vụ bàn, vệ sinh, trông
xe…[39]
Hộ kinh doanh theo Nghị định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 chỉ được tiến
hành kinh doanh tại “một địa điểm”. Bản thân cụm từ “một địa điểm” ở đây

cũng cần được giải thích. Nếu “một địa điểm” không phải là một địa phương
như xã (phường), huyện (quận) hoặc tỉnh (thành phố), thì nó có nghĩa là mỗi
hộ kinh doanh chỉ có thể sản xuất kinh doanh tại một địa phương theo nội
dung đã đăng ký kinh doanh.
18


Như vậy, quyền tự do kinh doanh của các hộ kinh doanh bị hạn chế hơn
so với các loại hình doanh nghiệp khác.
1.2.2.3. Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ
của hộ kinh doanh
Khi phát sinh các khoản nợ, cá nhân hoặc các thành viên phải chịu trách
nhiệm trả hết nợ, không phụ thuộc vào số tài sản kinh doanh hay dân sự mà
họ đang có; không phụ thuộc vào việc họ đang thực hiện hay đã chấm dứt
thực hiện hoạt động kinh doanh.
Hộ kinh doanh không phải là một thực thể độc lập, tách biệt với chủ nhân
của nó. Nên về nguyên tắc chủ nhân của hộ kinh doanh phải chịu trách nhiệm
vô hạn đối với khoản nợ của hộ kinh doanh, có nghĩa là chủ nhân của hộ kinh
doanh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình kể cả tài sản
không đưa vào kinh doanh. Tuy nhiên theo qui định của pháp luật Việt Nam
hiện nay về trách nhiệm của chủ hộ kinh doanh đối với các khoản nợ phát
sinh trong quá trình kinh doanh của hộ kinh doanh thì còn rất nhiều vấn đề
phải bàn. Trước hết phải nhắc lại định nghĩa về hộ kinh doanh trong Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 để xác định chế độ trách nhiệm của chủ hộ
kinh doanh. Định nghĩa này có nội dung chính xác như sau: Hộ kinh doanh do
một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ
18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ
được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Hộ kinh doanh có sử dụng từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập

doanh nghiệp theo quy định [10]. Các qui định này quả thật rất khó xác định
chế độ trách nhiệm của chủ hộ kinh doanh bởi cách viết. Theo định nghĩa này,
người ta có thể hiểu có năm yếu tố để xác định hộ kinh doanh

19


×