Tải bản đầy đủ (.pdf) (250 trang)

Văn hóa bắc mỹ trong toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.89 MB, 250 trang )



LƯƠNG VĂN KẾ
(Chủ biên)

VĂN HOÁ BẮC MỸ
TRONG TOÀN CẦU HOÁ

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM


Chủ biên:
TSKH. LƯƠNG VĂN KẾ

Tham gia biên soạn:
TS. TRẦN VĂN LA
PGS. TS. ĐINH CÔNG TUAN
TS. LÊ THẾ QUÊ'
ThS. NGUYỄN THỊ NGA
ThS. NGUYỄN NGỌC MẠNH

Công ty c ổ phần Sách Đại học - Dạy nghề, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
giữ quyến công bô' tác phẩm

120-2011/CXB/13-83/GD

Mã số: 7X499Y1 - DAI


LỜI NÓI ĐẦU
Khi nói đến Bắc Mỹ, người ta nghĩ ngay đến nước Mỹ mà quên


m ất rằng ở Bắc Mỹ vẫn còn nước Canada nửa. Bắc Mỹ cùng với khu vực
Tây Âu (các nước thuộc Liên minh châu Âu EU ngày nay) lảm thành
m ột khu vực văn minh gọi lả văn minh phương Tây. Nhưng dù thế nào
thì việc dồng nhất Bắc Mỹ với nước Mỹ cũng có thể hiểu được bởi vị trí
địa chính trị chủ chốt của nước Mỹ và những tương đồng về lịch sử và
văn hoá giữa hai quốc gia Mỹ và Canada. Còn khi nói đến nước Mỹ,
những người không phải người Mỹ thường nảy sinh hai thứ tình cảm
trái ngược nhau: nó vừa quen nhưng lại vừa lạ, vừa đáng kính, đáng yêu
lại vừa đáng sợ, đáng ghét. Điều đó thật đúng với khái niệm
A m bivalence mà nhà phân tâm học vĩ đại s. Freud đã dùng để diễn tả
trạng thái xung đột nội tâm của con người trước những biểu tượng cấm
kỵ h o n g văn hoá1. Hình ảnh nước Mỹ là hiện thân của một nền văn
minh vật chất phát triển nhanh nhất và đạt những thành tựu rực rỡ nhất
ử thời đại ngày nay.
N hưng có điều đặc biệt là, nếu ĩủỉư trên lĩnh vực chính trị và kinh
tê, người ta dễ nhất trí với nhau về sức mạnh và vị trí cườrig quốc dẫn
đ ầu của nước Mỹ, thì về mặt văn hoá lại vẫn còn tồn tại nhiều tranh cãi,
bât đồng, nhất là về bản sắc của văn hoá Mỹ. Thậm chí có người còn cho
răng nước Mỹ không có văn hoá riêng. Vì vậy có rất ít sách chuyên khảo
luận về văn hoá Mỹ, mà nếu có thì vẫn mang tên dưới dạng hồ sơ văn
hoá hay kể chuyện nước Mỹ v.v... Thế nhưng càng gần đây, giới nghiên
cứu đã có nhửng bước tiến nhất định khi thừa nhận sự tồn tại của một
nền văn hoá mang tên Văn hoá Mỹ. Theo đó, nước Mỹ không còn được
hiểu là một tập hợp “hồ lốn” các dòng dân di cư “tứ chiếng giang hồ” từ
1 Freud, Siegm und, Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo (Vật tô và Câ'm kỵ). Lương Văn
Kế dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

3



khắp các châu lục nữa, mà đó là một quốc gia thống nhất, có bản sắc
riêng. Hơn nửa, trong bôi cảnh nhiều quô»c gia đang lần tìm con đường
phát triển và hiện đại hoá cho riêng mình, thì hình ảnh nước Mv dù
muốn hay không vẫn hiện lên như một biểu tượng về sự phát triên và
sức mạnh quốc gia. Tiến thêm bước nữa, người ta thây rằng sự phát triển
thần kỳ của nước Mỹ gần 250 năm qua không đơn giản lả nhờ vào điều
kiện địa lý thuận lợi (vì có những nước đất rộng, người đồng, giàu tài
nguyên mà vẫn lạc hậu hoặc khổng thật phát triển!), cho nên cần phải
tìm ra cái nguyên nhân sâu xa và mạnh mẽ từ bên trong xã hội Mỹ đã
làm động lưc cho sự phát triển nảy. Nhân tô' bên trong đó, cái động lực
bên trong đó chính là nền tảng văn hoá, hệ giá trị mà nhân dân Mỹ theo
đuổi. Một nhà nghiên cứu thuộc Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc gần đây
đã phát biểu rằng: “N hìn từ góc độ văn m inh của c h ế độ chính trị, trước
tiên chúng ta cần thừa nhận không do d ư m ộ t s ự thật rằng: H iêh p h á p
M Ỹ và các th ẻ c h ế h ợ p hiến m à I1Ó thiết lập nên là m ộ t dấu m ốc trọng
đại trong lịch s ử văn inhĩh nhân lo ạ i1.
Vậy nên có thể nói, giống như văn minh châu Âu, cái chủ nghĩa
nhân văn mà nhân dân Mỹ sáng tạo ra là bất hủ và vẫn là lý tưởng phân
đâu của nhiều xã hội. Đó là các đặc trưng: giá trị dân chủ, cá nhân tự do
sống, lao động và sáng tạo, sự phồn vinh về vật chất. Những điều đó
không phải bỗng nhiên có được, mà tất thảy đều là kết quả của hàng
trăm năm lao động, tranh đâu và suy tư, thấm đẫm máu và nước mắt
của nhân dân lao động và giới tinh hoa nước Mỹ.
Nền văn hoá rực rỡ ấy, bằng cách nảy hay cách khác - tuyên
truyền, lôi kéo, dụ dỗ, mồi nhử kinh tế và nhiều khi bằng cả chiến hạrn
và đại bác - đã chiếu rọi khắp hoàn cầu, đem đến cho các nền ván hoa
khu vực và quốc gia những đặc tính mới: túih hiện đại. Nước Mỹ vả
phương Tây đã từng có một lịch sử quan hệ phức tạp với Việt Nam,
trong đó Việt Nam là nạn nhân. Điều đó đã khiến chúng ta từng có cái
nhìn chưa đầy đủ về nước Mỹ, văn hoá Mỹ, từ đó phủ nhận cả những

mặt'tích CƯC, quan trọng của nó. Từ khi tiến hành Đổi mới, mở cửa và
2 Viên M inh (Chủ biên), Mười ỉăm bải giảng về văn hoá và xã hội Mỹ. Đ ại học Bắc
Kinh, 2008, tr. 62.

4


trong bôi cảnh quốc tế có những biến chuyển mau lẹ, hết sức phức tạp,
cách nhìn của chúng ta cùng có nhiều thay đổi lớn. Nước Mỹ trở thành
đôi tác quan trọng của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Hình ảnh về văn hoá Mỹ và con người Mỹ do đó cũng có những
thay đổi về căn bản. Đe hội nhập tôt hơn vào một thế giới toàn cầu hoá
cũng như lìỢp tác có hiệu quả với nước Mỹ, chúng ta cần nghiên cứu,
tìm hiểu để có nhừng hiểu biết đúng đắn và đầy đủ nhất về văn hoá,
văn minh Mỹ, từ đó rú t ra được kinh nghiệm nên học gì, tránh gì từ
nước Mỹ, văn hoá Mỹ và nôn “tiếp biến" chúng như thế nào.
Cuốn sách này là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học
trọng điểm cấp Nhà nước “A nh hưởng của văn hoá Tây  u, Bắc M ỹ đối
với thê g iớ i và Việt N am trong quá trình toàn câu ho ẩ , mã sô
KX03.09/06-10. Cuốn sách hướng đến độc giả là giảng viên và sinh viên
các ngành Quôc tê học, Châu Au học, Châu Mỹ học, Văn hoá học, các
khoa văn hoá và ngồn ngừ Âu - Mỹ; các nhà nghiên cứu về văn hoá,
chính trị và quan hệ quốc tế; các nhà nghiên cứu khu vực, nhất là các
nhả nghiên cứu về Mỹ và phương Tây; các cơ quan nghiên cứu và hoạch
định chính sách. Sách cũng là tài liệu bổ ích cho tất cả những ai quan
tâm đến nước Mỹ và phương Tây.
Do khuôn khổ hạn chê của cuốn sách, tác giả chủ yếu hướng sự
phân tích vào các khía cạnh chủ yếu của văn hoá Mỹ lả: (1) Các cội
nguồn của văn hoá Mỹ, trong đó chủ yếu là cội nguồn châu Âu; (2) Các
thành tựu lớn của văn hoá Mỹ; (3) Hệ giá trị đặc sắc của nền văn hoá Mỹ;

(4) Toàn cầu hoá và các phương thức truyền bá văn hoá Mỹ ra thế giới.
Nhìn một cách khái quát, đây là một công trình được xây đựng
theo quan điểm “lịch sử tri thức”. Sách tạm thời không đề cập đến các
vân đề khác n h ư ảnh hưởng hay tác động cùa văn hoá Mỳ đôi với từng
khu vực trên thê giới, mà chỉ đề cập một phần đến sự tiếp xúc giữa văn
hoá Mỹ và văn hoá châu Âu, bởi vì ở đó hàm chứa môi quan hệ cội
nguồn giữa hai khu vực của văn hoá phương Tây. v ấ n đề ảnh hưởng
của văn hoá Mỹ đồi với các khu vực khác trên thế giới sẽ được đề cập
đên trong một chuyên khảo khác, tổng hợp hơn của tác giả về văn hoá
phương Tây.
5


Tập thể tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đến các cơ quan
hữu quan của Bộ Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, cảm ơn Đại sứ Lê Công
Phụng, Phó Đại sứ Nguyễn Tiến Minh và toàn thể cán bộ Đại sứ quán
Việt Nam tại Washington,

gia

đình

ông



Lê Roãn

Trung


(California), các đồng nghiệp và cộng sự tích cực của các tác giả trong
suốt mấy năm. Tập thê tác giả cũng bày tỏ lòng tri ân với gia đình và bè
bạn đã cổ vũ, động viên và chăm sóc tận tình cho các tác giả trong quá
trình biên soạn cuốn sách này.
Tập thể tác giả trân trọng cảm ơn Nhà xuất bản Giáo due Việt Nam
đã gợi ý, góp ý kiến, biên tập công phu vả giúp tác giả xuất bản cuốn sách.
Dù đã rất cô" gắng, nhưng chắc chắn cuốn sách chưa đáp ứng được
nhu cầu tìm hiểu của tất cả độc giả quan tâm, do đó tập thể tác giả mong
nhận được ý kiến phê bình và bố khuyết của toàn thể bạn đọc, nhất là
của các chuyên gia nghiên cứu, giảng viên đại học và sinh viên. Mọi ý
kiến đóng góp xin gửi về Công ty c ổ phần Sách Đại học - Dạy nghề,
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam - 25 Hàn Thuyên, Hà Nội.

Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội
Mùa Thu 2010
LƯƠNG V À N K Ế

6


1

CỘI NGUÓN c ủ a

văn h o á b ắ c m ỹ

I. CỘI N G U ổN CỦA VĂN HOÁ MỸ VÀ BAC m ỹ
1.1. Nhửng hình dung khác nhau vể nguồn gôc nước Mỹ
Bắc Mỹ không phải tất cả chí có nước Mỹ. Nhung dù thế nào thì nói

đến Bắc Mỹ là chủ yếu nói đến nước Mỹ hay Hoa Kỳ theo cách gọi chính
thống. Cái gọi là văn hoá Bắc Mỹ trên thực chất cũng là văn hoá Mỹ vì sự
tương đổng cao giữa vãn hoá Mỹ và văn hoá Canada - quốc gia Bắc Mỹ
còn lại - bới những ràng buộc địa lý và lịch sử của Canada với nước Mỹ,
cho dù “màu sắc châu Âu” ớ Canada có phần “đậm đặc” hơn ứ Mv.
Cách dây vài năm, một phóng viên của BBC tại Washington là
Malt Frei đã viết một bài báo về nguyên nhân ra đời của nước MỸ với
một phong cách hài hước nhưng chứa đựng nhiều sự thật3. Ông đặt câu
hỏi: Giả như trên th ể giới của chúng ta nước M ỹ chưa từng được sáng lập
thì cuộc sống của con người sẽ khác th ế nào? Ông bảo, vậy thì chúng ta
sẽ không được nghe giọng Texas của Tổng thống George Bush, sẽ không
dược nghe những bình luận “cắc cớ” của ông Bộ trướng Quốc phòng
Donald Rumsfeld, hay ăn thức ăn nhanh McDonald. Nhưng rất có thể sẽ
không có âm nhạc nào trong máy iPod hay thậm chí cũng chẳng có máy
iPod mà nghe. Vì đúng iPod là do một người Anh tên là Jonathan Ive
thiết kế. Nhưng thiết kế của ỏng không thay đổi thế giới nếu khồng có
công ty Apple của Mỹ ớ Cupertino, California.
Nước Mỹ là kết quả hiện thực hoá của một ý tưởng và đã trở thành
một nơi tự do dê mơ tướng. Vì thế mới có câu chuyện “giấc mơ Mỹ” khi
người ta quan sát xã hội Mỹ. Nhà nghiên cứu M. Frei nhận định xác đáng
rằng: Hoa Kỳ không phải tự nhiên mà có. Đó là đứa con cua châu Âu,

'T h eo : bbc.vietnamese.uk.com, ngày 14-6-2007.

7


con glìẻ của một hệ thống hậu phong kiến thối nát. Nhà chính trị học
Samuel Huntington nói: “Hoa Kỳ không phái là sự dối trá, đó là sự thất
vọng. Nước Mỹ nắm bắt các nguyên tắc của kỷ nguyên Ánh sáng châu

Âu - Tự do, Bình đẳng, Bác ái, và mang chúng để đi tìm hạnh phúc, củng
cố thêm bằng một quyền bất khả xám phạm, “biến một ý tướng thành một
Đất nước”.
Thế giới sẽ khác biệt thế nào nếu không có Tuyên ngôn Nhản quyền
(Bill of Rights)? Lại còn ông Thomas Jefferson - cha đẻ cúa Tuyên nsịôn
Độc lập Mỹ và sau trở thành Tổng thống Mỹ nữa? Tuyên ngôn Độc lập là
một luận thuyết không thể thiếu về quyền tự quyết. Nếu Hoa Kỳ không
được thành lập, nó sẽ không được viết ra.
Danh sách các ý tướng lớn của nhân loại ra đời từ nước Mỹ còn rất
dài, chẳng hạn như: Thomas Edison, Henry Ford, anh em nhà Wright,
Bill Gates, hãng Boeing, phim dài tập Desperate Housewives; The Sopranos
và SpongeBob SquarePants; hay như truyền hình được chế tạo bới
người Đức, người Anh và người Nga, nhưng ý tướng của họ lại được đơm
hoa kết quả tại Mỹ. Hoa Kỳ đã tạo nên một môi trường để các dầu óc
sáng tạo dễ dàng có tiền, có thị trường và tự do đế mơ mộng và sáng tạo
mà không sợ bị đàn áp hay phân biệt.
Tác giả M. Frei bình luận rằng, từ lâu đã có những người luôn ghét
bỏ sự ra đời của Hoa Kỳ. Vào cuối thế kỷ XVIII. nhà khoa học Hà Lan
Cornelius De Pauvv nói rằng mọi thứ từ Mỹ đểu “suy đồi hoặc quái dị”,
mặc dù ông chưa từng đến đó. Tư tưởng bài xích Mỹ đã xưa như bản thân
lịch sử nước Mỹ vậy. Người châu Âu đã tạo ra nước Mỹ, và nếu hối hận
vì chuyện này thì đó chẳng khác nào hành động tự chối bỏ mình. Người
ta có thể chí trích lãnh đạo của Mỹ mà không cần phải hối hận vì sư tồn
tại của nước này.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa cái gì nước Mỹ cũng hoàn
hảo cả, vì đã có những sai lầm kinh khủng diễn ra ớ Mỹ: sự đạo đức giả
của chế độ nô lệ, phân biệt sắc tộc, chủ nghĩa chống cộng McCarthy v.v...
Nhưng nước Mỹ đã và vẫn tiếp tục tìm ra giải pháp khắc phục các sai
lầm. “Hoa Kỳ là một thí nghiệm x ã hội khổng lổ luôn đi tìm sự tự sửa
chữa". Như Tổng thống Bill Clinton từng nói: “Không có điều dớ nào của

Hoa Kỳ mà lại không thể được sửa bằng những điều hay của Hoa Kỳ”.

8


Nhưng đê tìm hiểu bản sắc văn hoá Mỹ, chúng ta cần bắt đầu băng
nhữns dữ kiện địa lý và lịch sứ làm cơ sở cho sự ra đời của quốc gia vĩ
đại này.

1.2. Vân đề ranh giới Bắc Mỹ
Mỗi nền vãn hoá đều có nguồn cội riêng, xuất phát từ đặc trưng lập
quốc của mỗi dân tộc. Bắc Mỹ không chỉ có duy nhất nước Mỹ, mà còn
có Canada ớ phía bắc với diện tích lãnh thổ còn lớn hơn cả nước Mỹ.
Thậm chí có người còn quy cả Mexico nằm ở phía nam nước Mỹ vào khu
vực Bắc Mỹ. Xét thuần luý trên khía cạnh địa lý thì quan niệm đó hoàn
toàn có cơ sò. Tuy nhiên việc gọi tên Bắc Mỹ, Nam Mỹ, cũntỉ giống như
việc đặt tên phương Tây hay là Đông Âu và Tây Âu vậy, còn phải dựa
trên các đặc trưng văn hoá và bản sắc chính trị của khu vực nữa. Nếu lấy
tiêu chí văn hoá và chính trị để soi xét, người ta thấy Mexico thuộc vãn
hoá Latinh nói tiếng Tây Ban Nha, mang những đặc điểm gần với Nam
Mỹ và Caribbean hưn là với nước Mỹ. Hơn nữa, quả là về mặt địa lý thì
Mexico nằm ớ phía nam nước Mỹ. Trên phương diện lịch sứ, Mcxico
hình thành sớm hơn với cuộc xâm lược của Tây Ban Nha và các dân tộc
nói tiếng Tây Ban Nha xuất xứ từ bán đảo Ibería, nó ít dính dáng đến
lịch sử nước Mỹ vốn hình thành từ dòng di cư của các nước Bắc Âu và
Trung Âu như: Anh, Ireland, Iceland, Đức v.v...
Vấn đề còn lại là Canada chúng tôi sẽ phân tích trong một mục
riêng của cuốn sách.

1.3. Di dân từ châu Âu và ưu thê của người Anh

Đặc trưng của nước Mỹ là được hình thành lừ những người nhập cư.
Ngay từ buổi đầu và suốt những thế kỷ tiếp theo, đất nước này liên tục
dược bổ sung và phát triển bới những làn sóng nhập cư, xứng đáng với tên
gọi "Một quốc gia của các quốc gia”. Tuy nhiên, từ buổi đầu lập quốc,
trong sô nhiều nhóm dàn tộc và bộ tộc hoà nhập với nhau đê tạo nên nước
Mỹ thời thuộc địa, di dân Anh đã dóng vai irò đặc biệt quan trọng về
nhiều mặt, trong đó có vãn hoá.
Thật ra, khi chào đón những người châu Âu đầu tiên, lãnh thổ nước
Mỹ bày giờ khống phải là một chốn hoang vắng. Nơi đây đã có mặt
những cư dân bản địa là người da dó, mà sách vở thường gọi là người

9


Anh điêng. Sự xuất hiện của người châu Âu trên lãnh thổ nước MỸ ngày
nay đã làm cho vị trí và vai trò của cư dân bản địa dần dần thay đổi. Từ
chỗ là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, phạm vi cư trú của họ từng bước
bị thu hẹp. Họ ngày càng bị đẩy lùi đến những vùng đất xa xôi héo lánh,
đổng thời khí hậu và bệnh tật đã làm cho dân số của bộ phận cư dân này
dần dần suy giảm.
Quá trình xâm thực của thực dân châu Âu bắt đầu từ thế kỷ XVI sau
cuộc thám hiểm của Christopher Columbus. Người Tây Ban Nha là những
người đầu tiên đổ bộ lên bờ biển Florida và đến giữa thế kỷ XVI, họ đã di
sâu vào lục địa Bắc Mỹ. Đầu thế kỷ XVI, người Pháp cũng bắt đầu chú ý
xâm thực vùng đất này. Họ xây dựng cơ sở ở Canada, năm 1540, đặt
thương điếm đầu tiên của Pháp bên bờ sông Hudson. Sau đó người Pháp
tiến vào vùng đất hồ George (bang New York hiện nay), thành lập vùng
Louisiana thuộc Pháp vào thế kỷ XVII. Bắc Mỹ khi đó dược coi gần
như là vùng đất vô chủ nên các nước thực dân châu Âu đều tìm cách xâm
chiếm. Hà Lan cũng là một nước thực dân có tiềm lực. Vì vậy, ngay từ

đẩu thế kỷ XVI, Hà Lan cũng tiến vào Bắc Mỹ để buôn bán và xây dựng
nên đất New Amsterdam.
Tuy nhiên công cuộc xâm thực của Anh được coi là mạnh mẽ và có
hiệu quả hơn cả. Những dân nhập cư người Anh đầu tiên tới miền đất
ngày nay là Hoa Kỳ khá lâu sau khi các thuộc địa Tây Ban Nha thịnh
vượng đã được lập ra ớ Mexico, ớ vùng West Indies (ở biển Ca-ri-bê) và
Nam Mỹ. Cuộc khai khẩn thực dân của Anh bắt đầu phát triển vào đầu
thế kỷ XVII. Các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt ớ nước Anh trước cuộc
Cách mạng 1640 là nguyên nhân tạo ra một làn sóng di cư ra nước ngoài
tìm đất sống. Họ ra đi vì lý do kinh tế, hoặc vì lư tưởng bất đồng giữa tín
đồ Thanh giáo và Anh giáo, hoặc muốn tìm một cuộc sông mới nhằm
thoá mãn niềm khao khát về một miền đất lạ.
Nãm 1607, người Anh chính thức đặt chân lên vùng đất Virginia,
thành lập thuộc địa đầu tiên - Jamestown. Đến năm 1640. người Anh đã
có những thuộc địa vững vàng dược thiết lập dọc bờ biến New England và
vịnh Chesapeake. Những cuộc di thực của Anh đến Bắc Mỹ lại trứ nên
mạnh mẽ vào đầu những nãm 20 cúa thế kỷ XVIII, khi quá trình tước
đoạt ruộng đất ớ Anh của giai cấp quý tộc lên đến đỉnh điểm. Trong quá

10


trình đó, nhiều thực dân từ các nước châu Âu khác cũng đổ đến lãnh thổ
mới này, nhưng người Anh vẫn chiếm một vị thế vững vàng hưn cả. Đến
năm 1733, những người lập nghiệp Anh đã xây dựng được 13 thuộc địa
dọc bờ biển Đại Tây Dương, với bang Georgia là thuộc địa được thành lập
cuối cùng'.
Về kinh tế, ở nước Mỹ đã dần hình thành và phát triển một thị
trường dán tộc ihống nhất trong 13 bang thuộc địa. v ể cơ bản, đó là một
nền kinh tế phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Những quan hệ sản

xuất này là do những người dân di cư từ Anh và châu Âu mang theo, cho
dù những quan hệ đó chỉ mới xuất hiện ớ Anh. Biểu hiện rõ nhất là sự phổ
biến của hiện tượng mua, bán và đầu CƯ đất đai, sự gia tăng giá trị xuất
khẩu, tổng sản phẩm quốc dân và mức sống của những người dân tự do.
Dân cư thuộc địa Bắc Mỹ đã chuẩn bị sẵn sàng về kinh tế để trở thành
một bộ phận trong phong trào đòi quyền tự trị dã và đang chi phối phần
lớn hoạt động chính trị cua nước Anh trong suốt thế kỷ XVII và XVIII.
Nguyên nhân chính làm cho người Anh thắng lợi trong công cuộc
xàm thực là ưu th ế về kinh tế và xã hội của nước Anh lúc bấy giờ. Vào thế
kỷ XV - XVIII, nước Anh đã vượt qua các nước khác về phát triển kinh
tế, dó là cơ sở để họ chiếm ưu thế trong công cuộc bành trướng ớ Bắc Mỹ.
Hạm đội của Anh có địa vị vững mạnh trên đại dương, có thể phục vụ cho
sự phát triển của tư sản thương nghiệp Anh. Nền chính trị ớ Anh vào thế
kỷ XVII cũng đã mang đến Tân thế giới một số nhà lư sản, quý tộc chống
đối có tri thức và trình độ hiểu biết cao. Mặt khác, sự thay đổi trong chế
dộ ruộng đất ở Anh khiến nông dân bị mất đất ồ ạt di cư sang Mỹ vào thế
kỷ thứ XVIII. Công cuộc canh tác nông nghiệp của những con người đó
đã tạo thêm thế vững chắc cho công nghiệp phát triển ớ vùng Bắc Mỹ sau
này. Tất cá các yếu tố này làm cho cơ sớ của Anh ở Bắc Mỹ mạnh hơn và
có xu hướng phát triển thành một xã hội hoàn chỉnh, trước khi nền độc
lập của Mỹ được thừa nhận vào năm 1783.

II. S ự HÌNH THÀNH NEN v ă n HOÁ c h ủ đ ạ o
Phẩn lớn dân định cư tới Mỹ vào thế kỷ XVII là người Anh. Đến
năm 1754, trên vùng đất của thực dân Anh ứ Bắc Mỹ đã có tới 1,3 triệu
người. Tiếng Anh trớ thành ngôn ngữ được phổ biến rộng rãi ớ Bắc Mỹ.

11



Theo kết quả điều tra dân số đầu tiên cứa Mỹ được tiến hành vào
nãm 1790, nước Mỹ lúc đó có khoáng 4 triệu người, phần lớn là người da
trắng. Trong số các công dân da trắng đó, hơn 8/10 là có gốc gác ở Anh.
Người Mỹ gốc Phi bấy giờ chiếm khoảng 20% dân số, một con số cao
hơn hết thảy mọi thời đại, với gần 700.000 nô lệ và khoảng 60.000 là
“người nô lệ được tự do”, v ề số lượng những người bản địa, bảng điểu tra
chỉ đưa ra con số ít ỏi.
So với cộng đồng người Mỹ gốc Phi và người bản địa, cộng dồng
người da trắng có dân số đông nhất, có tiền, có quyền lực trong đất nước
mới thành lập này. Vì vậy, họ trớ thành chủ nhân của vùng đất mới,
nhanh chóng chi phối nền văn hoá ở nước Mỹ và tác động đến các cộng
đồng dân cư khác. Lúc xảy ra cuộc Cách mạng Mỹ4, người da trắng phần
lớn vẫn là dân gốc Anh, theo đạo Tin Lành và thuộc tầng lớp irung lưu.
Những người Mỹ này đôi khi được nhắc đến dưới cái tên “WASP”5. Là
công dân “chính quốc”, lại có ưu thế trội hơn về dân số, nên không có gì
đáng ngạc nhiên khi những đặc điểm của họ đã trở thành chuẩn mực đánh
giá những nhóm người khác. Những người có tôn giáo khác (như người
Đức, người Hà Lan, và người Thuỵ Điển) đểu là những nhóm thiểu số và
sẽ bị bất lợi nếu không đồng hoá. Vào cuối thế kỷ XVIII, quá trình đồng
hoá này xảy ra khá thuận lợi. Theo các nhà sử học Allan Nevins và Henry
Steele Commanger, “người Anh, người Ai-len, người Đức... người Hà
Lan, người Thuỵ Điển - hoà lẫn nhau và kết hôn với nhau mà không suy
nghĩ về sự khác biệt”6.
Như vậy, thứ văn hoá có ảnh hướng lớn ở Mỹ bắt nguồn từ lịch sử
ban đầu của đất nước này mang dặc tính của tầng lớp trung lưu Tây Âu
theo đạo Tin Lành và nói tiếng Anh. Chính thứ vãn hoá này đã hình thành
nên những gì mà về sau trở thành những giá trị truyền thòng đã
dược A. Tocqueville miêu tả vào những năm 1830: tự do, sự bình đẳng về
cư hội, và nguyện vọng lao động cật lực để có mức sống vật chất cao hơn.


4 Tức Cuộc chiến tranh giành độc lập (1775 - 1783), nhờ đó 13 thuộc địa của những dân
nhập cư gốc Anh giành được độc lập từ Đ ế quốc Anh.
5 Viết tắt của các chữ “white A nglo-Saxon protestants” , nghĩa là người da trắng, gốc
Anh. theo đạo Tin Lành.
6 Allan Nevins and Henry Steele Commanger, America: The Story of a Free People.
Boston: Little. Brown. 1942.

12


Mặc dù hiện nay, “người Mỹ nói chung” không còn là một WASP
thấm nhuần các giá trị cúa Thanh giáo, nhưng cũng không thể phú nhận
“những di sản Anh” trên nước Mỹ. Rời bỏ cô quốc, những người nhập cư
gốc Anh dã đem đến vùng đất mới những phong tục, tập quán và niềm tin
của quê hương, những học thuyết về xã hội, chính trị, tôn giáo, những
truyền thống về giáo dục, lễ hội, thể thao, nghệ thuật, ẩm thực, sở
thích v.v... góp phần tạo lập nên nền văn hoá Mỹ. Với quyết tâm định cư
lâu dài, họ đã đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tạo lập nên những cơ
sở kinh tế, chính trị và nhiều giá trị văn hoá mà nước Mỹ sau này kế thừa.
Alden T. V aughan7 đã nói, ngay từ khi hình thành nước Mỹ
“hầu như mọi cái về cơ bản đều là của Anh: các hình thức sớ hữu và canh
tác đấl đai, hệ Ihỏng chính quyền và thế thức cơ bản của luật pháp
cũng như các thủ tục pháp luật, các cách chọn lựa hình thức giải trí và
tiêu khiển, và vô số những mặt khác của cuộc sống ớ các thuộc địa”.
Arthur Schlesinger, JrH, cũng viết: “ngôn ngữ của quốc gia mới, luật lệ,
thể chế của nó, các tư tướng chính trị, văn học, phong tục, những câu
châm ngôn, cách cầu nguyện, trước hết xuất phát từ nước Anh”.
Nền văn hoá Mỹ trong buổi đầu đã kết hựp các thể chế chính trị, xã
hội với các tập tục kế thừa từ nước Anh (đặc biệt là tiếng Anh), với những
quan niệm và giá trị của đạo Tin Lành không chính thống vốn có địa vị

mờ nhạt ớ nước Anh nhưng khi được dân nhập cư mang đến đất Mỹ, nó đã
khoác lên một sức sống mới trên mánh đất này. Như vậy, nền văn hoá Mỹ
bao gồm những yếu lố của văn hoá Anh nói chung, những yếu tố đặc thù
của các nhánh vãn hoá của xã hội Anh mà những người định cư là đại diện.
Cội nguồn vãn hoá này đã trải qua những thay đổi suốt gần 300 năm
qua, nhưng một số yếu tố của nền văn hoá đó trong buổi đầu vẫn còn tồn
tại. John Jay9 đã xác định 6 yếu tố quan trọng mà người Mỹ cùng chia sẻ
vào năm 1789, đó là: tổ tiên, ngôn ngữ, tôn giáo, nguyên tắc tổ chức
7 Alden T. Vaughan, Seventeenth Origins of American Culture (Cội nguồn vãn hoá Mỹ ở
th ế kỷ XVII), trong cuốn The Development of an American Culture (Sự phát triển của
vãn hoá Mỹ) của Stanley Coben và Lorman Ratner (New York: St. Martin, 1983), tr. 32.
8 A rthur M. Schlesinger, Jr., The Disuniting of America (Sự mất đoàn kết của nước Mỹ)
(New York: Norton, 1998), tr. 34.
9 John Jay (1745 - 1829), một chính khách kỳ cựu, nhà ngoại giao, nhà tư pháp, người
đã viết và nghiên cứu nhiều về con người và các sư kiện trong những năm đẩu của
nước Mỹ.

13


chính quyền, phong tục tập quán, kinh nghiệm chiến tranh. Thật ra,
200 năm sau đó, yếu tố tổ tiên chung rõ ràng không tồn tại nữa. Ngày
nay, người ta dễ dàng tìm thấy ớ Mỹ một gia đình mà ông là người Anh,
bà là người Hà Lan, con trai lấy vợ Pháp và mấy đứa cháu, mỗi cháu lấy
vợ thuộc một dân tộc khác nhau. Một vài yếu tố khác cũng trải qua những
thay đổi hoặc phai mờ. Chẳng hạn, đạo Tin Lành ngày càng được phân
chia thành nhiều giáo phái khác nhau. Tuy nhiên, trong những nét cơ bản
của người Mỹ, những thành tố mà Jay cho là tạo nên bản sắc của người
Mỹ, dù trải qua nhiều thách thức, vẫn là những nét quan trọng của văn
hoá Mỹ trong thế kỷ XX. Những giá trị cơ bản của đạo Tin Lành, hay cụ

thể hơn là Thanh giáo, vẫn rất quan trọng và được tiếp tục coi trọng.
Trong phần lớn lịch sử của nước Mỹ, có thể thấy người dân Mỹ vẫn đi
theo một hình thức nào đó của đạo Tin Lành.
Về mặt ngôn ngữ, vào thế kỷ XVIII, những người định cư gốc Đức
ớ Pennsylvania đã cố gắng làm cho tiếng Đức có một vị trí tương dương
tiếng Anh nhưng không ihành công. Đến thế kỷ XIX, dân nhập cư gốc
Đức vẫn muốn duy trì những vùng đất nói tiếng Đức ớ Wisconsin và đã
sử dụng tiếng Đức ở các trường học nhưng vẫn không thực hiện được mục
đích đó do những áp lực của quá trình đồng hoá. Năm 1889, cơ quan lập
pháp Wisconsin yêu cầu các trường phải sử dụng tiếng Anh trong công
tác giảng dạy10. Trước khi xuất hiện những cộng đồng đông đảo dân nhập
cư nói tiếng Tây Ban Nha ở Miami và vùng Tây Nam, nước Mỹ vẫn là
một ví dụ độc đáo về một đất nước vô cùng rộng lớn, với hơn 200 triệu
dàn, nhưng gần như phần lớn đều nói cùng một thứ tiếng.
Một trong những giá trị văn hoá được người Mỹ luôn tự hào từ thời
lập quốc đến nay đó chính là các thiết ch ế chính trị dân chủ và cách thức
xây dựng các thiết c h ế dó. Nhưng xét về cội nguồn lịch sử, các ^uan niệm
này được hình thành trên cơ sớ truyền thống và khát vọng tự do dược
những người dân di cư, chủ yếu từ nước Anh, mang đến. Các tư tưởng về
chế độ cai trị, về quyền tối cao của luật pháp, về cái tôi, về quyền sớ hữu,
về truyền thống tự do cũng như các tập quán sinh hoạt khác của người
Anh đã xâm nhập và bám rễ vào nền vãn hoá Mỹ.

IU James A. Morone, The Struggle for American Culture, trong tâp san PS: Political
Sciences and Politics, số 29 (September 1996), tr. 428 - 429.

14


Do ưu thế về dân số, lại có trình độ phát triển cao hơn nên trong quá

trình lập quốc ớ Bắc Mỹ đã xảy ra quá trình đồng hoá của người nhập cư
với cư dân bán địa. Trong cộng đồng người nhập cư, người Anh chiếm đa
số, hơn nữa lại là người cai trị 13 thuộc địa, nên quá trình đồng hoá diễn
ra trước hết giữa những người Anh với các cộng đồng dân cư khác từ các
nước châu Âu, châu Phi, thể hiện rõ nhất trên phương diện ngôn ngữ, tôn
giáo. Tất nhiên, quá trình đồng hoá này khống thế xác lập một cách tuyệt
đối vãn hoá Anh trong các cộng đồng dân cư khác. Ớ mỗi cộng đồng dân
cư vẫn bảo lưu những giá trị văn hoá truyền thống của mình, cho phép sự
đa dạng tồn tại trên đất Mỹ.
Cho đến thế kỷ XIX và thậm chí thế kỷ XX, những người nhập cư
đã bị thôi thúc và thuyết phục tôn trọng những yếu tố quan trọng của nền
văn hoá Anh - Tin Lành theo nhiều cách. Những người chủ trương đa
nguyên văn hoá, những người theo quan điểm đa vãn hoá, và những
người phát ngôn cho các nhóm dàn tộc thiểu số trong thế kỷ XX đã phải
đấu tranh chật vật trước xu hướng dổng hoá đó. Vì vậy, năm 1977,
Michael Novak đã chỉ trích một cách gay gắt là những người dân nhập cư
đến từ Đông và Nam Âu bị sức ép trứ thành “Mỹ” bằng cách thích nghi
với nền vãn hoá Anglo-American, mà theo ông, sự Mỹ hoá đó là “một
quá trình đàn áp rất to lớn về tinh thần”". Nãm 1995, Will Kymlicka
cũng cho rằng, trước những năm 1960, “người ta trông đợi những người
nhập cư rời bó di sản riêng của mình và đồng hoá hoàn toàn với các
chuẩn mực vãn hoá hiện hành” mà ông gọi là “mô hình tuân theo Anh” 12.
Nếu họ bị cho là không thê đồng hoá, họ sẽ bị loại trừ. Năm 1967, Harold
Cruse phát biểu rằng “nước Mỹ là một quốc gia tự dối mình về việc mình
lấ ai và là cái gì. Đấy là một quốc gia của các thiếu số, do một nhóm
thiểu số cai trị - nó cứ nghĩ và hành động như thể nó là một quốc gia của
người Anh Tin Lành” ' \
Từ sau khi nước Mỹ ra đời, cùng với sự đa dạng của dòng người
nhập cư đến từ các quốc gia, châu lục khác nhau, văn hoá lôn giáo cúa
11 M icheál Novak, Unmeatabỉe Ethnics: Politics and Culture in American Life. London:

Transaction Publishers, 1996, tr. 405.
12 W ill Kymlicka, Finding Our Way: Rethinking Ethnocultural Relations in Canada.
Toronto: Oxford University Press, 1998, tr. 44.
" Harold Cruise, The Criis of the Negro Intellectual. New York: Morrow, 1967, tr. 256.

15


Mỹ lại thêm đa dạng với sự xuất hiện của đạo Do Thái, các tôn giáo
phương Đông... Vị trí của tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng thay đổi
theo. Tôn giáo không còn là vấn đề của cộng đồng mà đã trở thành việc
của cá nhân. Cho dù có sự thay đổi như vậy nhưng vẫn không thế phú
nhận được ưu thế của đạo Tin Lành và Cơ đốc giáo với số lượng tín đồ
đông nhất trong số các tôn giáo tồn tại ớ Mỹ hiện nayx.
Suốt trong lịch sử nước Mỹ, những người không phải là tín đồ
Tin Lành gốc Anglo-Saxon đều trở thành người Mỹ bằng cách tiếp nhận
văn hoá và các giá trị chính trị của những người Tin Lành gốc Anh trên
đất Mỹ. Nước Mỹ được sáng lập như một xã hội Tin Lành. Học thuyết
Thanh giáo đã thấm vào xã hội Mỹ, vì các Đức Cha hành hương là những
người Anh đầu tiên đến lập nghiệp ớ Tân thế giới, với hy vọng xây dưng
một chế độ xã hội và tôn giáo phù hợp với khát vọng của mình. Bắt nguồn
từ đạo Tin Lành, học thuyết đó chứa trong mình mọi mầm mống của chủ
nghĩa tư bản, và cũng có thể tìm thấy trong đó nguồn gốc đẩu tiên của
tính cách Mỹ.
Dù ảnh hưởng của Thanh giáo không toả đều trên toàn lãnh thổ,
nhưng trong suốt 200 năm, phần lớn người Mỹ đều theo đạo Tin Lành.
Với các đợt nhập cư khá lớn của các tín đồ Thiên Chúa giáo, trước hết là
từ Đức và Ireland, và tiếp sau đó là Ý và Ba Lan, tỷ lệ tín đồ Tin Lành
giảm dần. Vào năm 2000, nước Mỹ còn khoảng 60% dân số là tín đồ
Tin Lành. Tuy nhiên, những niềm tin, giá trị và quan niệm của đạo

Tin Lành vẫn nằm trong số các yếu tố cốt lõi của nền văn hoá của những
người định cư trên đất Mỹ, và nền văn hoá đó vẫn tiếp tục thâm nhập và
định hướng cuộc sống cho cuộc sống, xã hội, lư tướng của người Mỹ, dù
tỷ lệ tín đồ Tin Lành suy giảm. Do là trọng râm của nền văn hoá Mỹ nên
các giá trị của đạo Tin Lành có anh hướng sâu sắc đến đạo Thiên Chúa và
các tôn giáo khác ở Mỹ. Những yếu tố đó đã làm hình thành nên thái độ
của người Mỹ đối với lĩnh vực đạo đức riêng và chung, đối với hoạt động
kinh tế, Chính phủ và chính sách công cộng.
Đầu thế kỷ XVII, như Adrian Hastings đã nói, đạo Cơ đốc là “cái
định hướng cúa các dân tộc, thậm chí cả chú nghĩa dân tộc”, và các nhà
nước và các quốc gia đã xác định rõ họ thuộc đạo Tin Lành hay dạo
Thiên Chúa. Ở châu Âu, các xã hội thời bấy giờ hoặc chấp nhận hoặc bác

16


bỏ “Sự cải cách của Đạo Tin Lành” (Protestant Reformation). Ớ Mỹ, Sự
. cải cách đó đã tạo ra một xã hội mới. Không giống với bất cứ quốc gia
nào trong số đó, nước Mỹ được coi là người con của Sự cải cách. Vì vậy,
một hoc giả khác đã nói rằng, các cội nguồn của nước Mỹ "được tìm thấy
trong cuộc Cách mạng Thanh giáo của Anh. Quả thực, cuộc cách mạng này
là một sự kiện duy nhất mang tính hình thành quan trọng nhất trong lịch
sử chírh trị của nước Mỹ”. Vị khách châu Âu ở thế kỷ XIX là Phillip Schaff
nhận xét rằng, ớ Mỹ “mọi thứ đều có một khởi đầu Tin Lành” 14. Nước Mỹ
được coi là đã được tạo ra như một xã hội Lin Lành, cũng như Pakistan
được tao thành như một xã hội Hồi giáò, và Israel như một xã hội Do Thái
giáo ở thế kỷ XX vậy.
Cội nguồn Tin Lành này đã làm cho nước Mỹ khác với nhiều quốc
gia, và ớ thế kỷ XX, tôn giáo vẫn rất quan trọng trong bản sắc của người
Mỹ. T ong phần lớn thế kỷ XIX, người Mỹ đã nghĩ về quốc gia họ như là

một da nước của đạo Tin Lành, nước Mỹ được nhiều quốc gia khác xem
là đất iước Tin Lành, và thực tế nước Mỹ được nhìn nhận là đất nước
Tin Lành trong các sách giáo khoa, bản dồ và văn học.
£'ạo Tin Lành ứ Mỹ khác với đạo Tin Lành ở châu Âu. Edmund Burke
đã đối ;hiốu nỗi sợ hãi, sự kính nể, bổn phận và lòng sùng kính mà người
Anil can thấy đối với các quyền lực chính trị và tôn giáo với “tinh thần tự
do mạih mẽ” ò người Mỹ. Ông cho rằng, tinh thần tự do đó ăn sâu vào
đạo Til Lành của người Mỹ.*Dưới ảnh hướng của tinh thần tự do đó, khi
đến nư?c Mỹ, đạo Tin Lành càng phân chia thành nhiều phái vợi những
quan đêm khác nhau. Tuy nhiên, nói chung, chúng đều tận tuỵ đề cao
mối qian hệ trực tiếp của cá nhân với Chúa, đề cao kinh Phúc âm như là
nguồn iuy nhất truyền lời răn dạy của Chúa và sự cứu rỗi linh hồn thông
qua lòig thành. Giữa người và Chúa-không có ai trung gian, không có
giới th;y tu chuyên nghiệp, không có tôn ti trật tự nào khác ngoài tài cán,
công ho. Hầu hết các giáo phái của Tin Lành đểu nhấn mạnh vai trò của
cá nhâi trong thụ đắc sự hiểu biết về Chúa từ Kinh thánh, mà không cần
sự trun> gian của hệ thống tôn ti của giới tăng lữ. Nhiều giáo phái cũng
nhấn nạnh rằng cá nhân đạt được sự cứu rỗi hay được “tái sinh” là kết
14 Philip Schaff, America: A Sketch of its political, Social and Religions Character.
Cambricge: Harvard University Press, 1961, tr. 72.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TẰM THỎNG TIN THƯ VIỆN

0 3 0S Ỡ ÕV

4 )5?

17



quá của ân khải từ Chúa, mà không cần sự trung gian của tầng lớp tăng
lữ. Chính nhu cầu vể sự thành công trên thế giới khiến cá nhân phải có
trách nhiệm làm điều tốt trên thế giới.
Đạo Tin Lành đã góp phần làm cho người Mỹ trớ thành những con
người cá nhân chủ nghĩa. Niềm tin của người Tin Lành Mỹ về trách
nhiệm cá nhân đã kiến tạo niềm tin về sự thành công và con người tự lập
(self-made). Rất nhiểu cuộc khảo sát ý kiến đã chứng tỏ rằng, người Mỹ
tin là việc một người thành hay bại trong đời phụ thuộc rất nhiều vào tài
năng và tính cách riêng của mình. Yếu tố trọng tâm này của giấc mơ Mỹ
được diễn đạt hoàn chỉnh bởi Tổng thống B. Clinton: “Giấc mơ M ỹ mà
chúng ta được nuôi dưỡng đến lớn là một giấc mơ đơn giản nhưng dầy sức
mạnh - nếu bạn làm việc cật lực và chơi theo luật thì bạn s ẽ có dược một
cơ hội đi và đi xa như là khả năng mà Chúa ban cho bạn
Người Mỹ tin rằng, khi không có những tôn ti xã hội cứng nhắc, con
người chính là những gì họ đạt được. Các chân trời đều mở rộng, các cơ
hội là vô số, việc biến chúng thành hiện thực phụ thuộc vào năng lực, sự
kiên trì, hay nói tóm lại là năng lực và ước muốn làm việc của mỗi người.
Đạo lý lao động là đặc trưng trọng tâm của vãn hoá Tin Lành, và
ngay từ đầu, tôn giáo của người Mỹ đã là thứ tôn giáo của sự lao động.
Trong nhiều xã hội, sự cha truyền con nối, giai tầng, vị trí xã hội, sắc tộc
và gia dinh là những con đường chính dẫn đến vị trí xã hội. Đạo Tin Lành
dạy rằng vị trí xã hội phải là kết quả của sự lao dộng.
Quyền lao động và được hướng thành quả của lao động trớ thành
một phần của những lập luận chống lại chế độ nô lệ ớ thế kỷ XIX... Khái
niệm “con người tự lập” được coi là một sản phẩm dặc biệt của môi
trường và văn hoá nước Mỹ.
%Trong những năm 1990, người Mỹ vẫn là dân tộc làm việc. Họ đã
làm việc nhiều giờ dài và nghỉ ngơi ít hơn những người ớ các nền dân chủ
công nghiệp hoá khác. Số giờ làm việc trong các xã hội công nghiệp hoá

đang giảm bớt. Ở Mỹ, nếu có sự thay đổi, chắc chỉ có tăng giờ. Theo

15 Bill Clinton, nhận xét về Hội đồng Lanh đạo Đáng Dãn chủ, được trích dẫn trong
Facing lip lo the American Dream của Jennifer L. Hochschild, tr. 18.

18


thống kê, tại các nước công nghiệp hoá, số giờ làm việc bình quân của
một công nhân trong năm 1977 là: Mỹ - 1.966 giờ, Nhật - 1.889 giờ,
Úc - 1.867 giờ, New Zealand - 1.838 giờ, Anh - 1.731 giờ, Pháp - 1.656 giờ,
Thuy Điển - 1.582 giờ, Đức - 1.560 giờ, Na Uy - 1.399 giờ. Như vậy,
bình quân, người Mỹ làm việc nhiều hơn 350 giờ/năm so với người châu Âu.
Năm 1999, 60% thanh niên trẻ của Mỹ làm việc, gấp ba lần mức trung
bình của các quốc gia công nghiệp hoá. v ề mặt lịch sử, người Mỹ có một
thái độ, tình cảm lẫn lộn đối với thời gian rỗi. Họ thường có cảm giác có
lỗi về sự rảnh rỗi và cố gắng dung hoà nó với đạo đức lao động của họ.
Như Cindy Aron đã lập luận trong tác phẩm Working at Play (Làm việc
trong khi chơi) của bà, người Mỹ ớ thế kỷ XX vẫn là những tù nhân của
“lòng ngờ vực thường trực của Mỹ về thời gian tiêu phí bên ngoài sự làm
việc” 16. Người Mỹ thường có xu hướng cảm thấy họ nên dành các kỳ nghỉ
không chi để nghỉ ngơi mà còn đế làm điểu thiện và tự hoàn thiện mình.
Neười Mỹ khống những làm việc nhiều hơn những dân tộc khác, mà
họ còn cảm thấy thoả mãn trong công việc và trong việc được nhìn nhận
là làm việc nhiều hơn những dân tộc khác. Trong khảo sát Các giá trị
quốc tế của 10 nước, 87% người Mỹ được ghi nhận là rất tự hào trong
công việc, và cũng chỉ có người Anh mới bộc lộ một tỷ lệ tương đương
như vậy, còn ở phần lớn những nước khác, chưa tới 30% công nhân bộc
lộ cùng một thái độ đó17. Như vậy, suốt lịch sử nước Mỹ, người nhập cư
đã đối mặt với thách thức phải thích nghi với dạo lý lao động.

Như vậy, trong gần 4 thế kỷ, nền văn hoá của những người định cư
lập quốc vẫn còn một số yếu tố chủ đạo và tồn tại lâu dài trong bản sắc
của người Mỹ. Ảnh hướng chính của văn hoá Anh từ buổi ban đầu do mối
quan hệ của các thuộc địa với nước Anh dã làm cho tiếng Anh, hệ thống
luật pháp, những di sản Anh lan rộng. Đồng thời, những giá trị cúa đạo
Tin Lành cũng cắm rễ sâu vào nền văn hoá Mỹ. Tất nhiên, nền văn hoá
đó đã trải qua nhiều thay đổi, chịu tác động của những luồng nhập cư
khác đến từ châu Âu và sau này là từ châu Á và Mỹ Latinh. Tuy nhiên,

16 Xem International Values Study 1990.
17 Xem International Values Study 1990.

19


không thể phủ nhận cội nguồn Anglo của nó. Và nhu Braudel nhận xét:
“Nếu nền văn minh đầu tiên này khác biệt từ sớm với nguồn gốc Anh của
nó thì nó vẫn không kém, vẫn là mang tính chất Anglo-Saxon còn hơn là
tính chất châu Âu thực thụ. Châu Âu lục địa luôn luôn xen lẫn những
truyền thống Địa Trung Hải và những truyền thống phương Bắc. Sự biếu
hiện của hai nền văn minh đó không có ở Hoa Kỳ, bới vì sức hấp dẫn
mang tính chất Anglo-Saxon đã thu hút tất cả. Và dĩ nhiên, phải cháng có
phần đáng tiếc là cái ngẫu nhiên của lịch sử đã làm cho phần còn lại của
lục địa Mỹ (trừ Canada nói tiếng Anh) thành một thế giới hoàn toàn là
Latinh, trước hết là Tây Ban Nha - Bồ Đào Nha, rồi được đánh dấu mạnh
mẽ bởi sự nhập cư của người Italia. Đó là một sự kiện làm cho hai châu
Mỹ không hiểu nhau: Họ đã được tạo ra để không hiểu nhau18.

Ferdinand Braudel, Tìm hiểu các nền văn minh trên thế giới (Sách dịch). NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội 2004, tr. 682.



ỡ u t á m j /2

NHŨNG th à n h tụ u nổi b ậ t
CỦA VĂN HOÁ BẮC MỸ
I. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỂN DÂN CHỦ
Nền văn hoá Mỹ tuy mới có lịch sử phát triển trên 200 năm nhưng
đã sáng tạo ra những thành tựu vĩ đại, dưa nước Mỹ trớ thành siêu cường
số một thế giới về tất cả các phương diện. Đó là vì người Mỹ đã biết
“đứng trên vai những người khổng lồ” ớ Cựu lục địa châu Âu của họ. Khó
có thể kể đầy đủ các thành tựu đa dạng và đéu ở đỉnh cao của văn hoá Mỹ
như khoa học công nghệ, giáo dục, các học thuyết chính trị, các lý thuyết
triết học, lý thuyết kinh tế, nghệ thuật giải trí, v.v... Cho nên trong phạm
vi cuốn sách này, chúng tôi chỉ dc cập đến hai khía cạnh nổi bật trong vô
vàn các thành lựu của nền văn hoá Mỹ là: (1) xây dựng vãn hoá chính trị
của một nhà nước pháp quyền dân chủ; (2) thành công của nền văn hoá
đại chúng - văn hoá bình dân.
Hiến pháp nước Mỹ, xét cả về khởi nguyên và cơ sớ, đều gắn bó
máu thịt với ba phương diện tôn giáo, văn hoá và triết học. Nhìn từ khía
cạnh văn minh chính trị, người ta thấy nước Mỹ tuy có những khúc quanh
và sai lầm cũng như nhược điểm nhất định, nhưng nhìn chung những
thành tựu của nó là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử văn minh nhân loại,
đóng £Óp lo lớn vào nền vãn minh nói riêng và lịch sử nhân loại nói
chur.g. Điều này không phải ngẫu nhiên, mà như chúng ta đã phân tích,
dó là kết tinh của những truyền thống châu Âu được phát huy trên một
vùng đất mới mẻ và tươi tốt, với vị trí địa lý vô cùng thuận lợi.
Thành tựu vĩ đại trước hết và là nền tảng của mọi thànli tựu khác
chính là ở chỗ, nhân dân Mỹ đã xây dựng thành công cho xã hội của
mình một nhà nước dân chủ pháp quyền vừa đậm chất châu Âu vừa có

những nét sáng tạo mới, tích cực. Ngay từ thế kỷ XVII, dưới sự chỉ đạo
21


của vua nước Anh, tại thuộc địa đầu tiên thiết lập ở Bắc Mỹ là Virginia,
Thống đốc - đại diện của nhà vua, đã họp dân cư và đề nghị tiến hành
bầu cứ cơ quan lập pháp tại thuộc địa. Thể chế chính trị và luật pháp mà
những người định cư xây dựng ớ Mỹ vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII thê
hiện phần lớn các thể chế và thủ tục của “Hiến pháp Tudor" của nước
Anh vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII. Các thế chế dó bao gồm: ý
niệm về một thứ luật cơ bản cao hơn, mạnh hơn chính quyền và hạn chế
quyển lực của chính quyền; sự kết hợp các chức nãng hành pháp, lập pháp
và tư pháp; sự phân quyền giữa các cơ quan khác nhau và các chính
quyền riêng rẽ; quyền lực tương đối của ngành lập pháp và người dứng
đầu ngành hành pháp; sự kết hợp giữa “phẩm cách” và “hiệu quả” của
người đứng đầu ngành lập pháp; cơ quan lập pháp gồm hai viện; trách
nhiệm của các nhà lập pháp đối với các khư vực bầu cử của họ; hệ thống
các uỷ ban trong ngành lập pháp v.v... Sau này, những mô hình cai trị của
thời Tudor đã thay đổi về cơ bản ở vương quốc Anh, nhưng những yếu tố
quan trọng của nó vẫn tiếp tục tổn tại ở Hoa Kỳ sang tận thế kỷ XX19.
Trên cơ sở đó, cơ quan lập pháp đầu tiên của Bắc Mỹ là Viện Lập pháp
Virginia đã tổ chức cuộc họp đầu tiên vào ngày 9-8-1619. Cơ quan này
được tổ chức theo hình thức bầu cử phổ thông theo khu dân cư, mỗi khu
dân cư được bầu hai đại biểu. Trong một thời gian dài, chính quyền thuộc
địa Virginia nằm trong tay Hội đồng bao gồm các đại địa chủ, quý tộc
giàu có, uy tín nhất ở đây do vua Anh bổ nhiệm và Thống đốc - đại diện
cho nhà vua, đến từ chính quốc.
Điều đáng nói ớ đày là, xét dưới góc độ vãn hoá, nền chính trị mới
được thành lập ớ thuộc địa đã thể hiện ý thức chính trị của các cư dân
thông qua việc họ tham gia bầu cử ra cơ quan lập pháp mà sự tán dồng

hoặc phán đối của cơ quan này có ý nghĩa quan trọng, cẩn thiết cho
Thống đốc và Hội đồng đưa ra mức đánh thuế và các đạo luật mới. Đặc
biệt chế độ bầu cử cho tất cả mọi công dân đã dược duy trì ớ Virginia cho
tới tận năm 1670. Rõ ràng, so sánh giữa hệ thống chính trị ớ thuộc địa với
chính qưốc và các nước châu Âu đương thời, đó là sự biến thể à mức độ
cao hơn. Trong thời điểm ớ thuộc địa xuất hiện chế dộ bầu cứ phổ thông
thì ớ chính quốc chưa xuất hiện bao giờ. Cuộc Cách mạng tư sản Anh
19 Theo Samuel p. Huntington, Political Order in Changing Societies. New Haven: Yale
University Press, 1968, tr. 93.

22


bùng nổ. đã góp phần củng cố uy tín, niềm tin vào sức mạnh của cơ quan
lập pháp ớ thuộc địa. Với việc tiếp thu truyền thống của chế độ nghị viện
Anh và tư tưởng về nhà nước dân quyền của nhà tư tưởng imười Anh
J. Locke (1632 - 1704). những người dân di cư ớ thuộc địa cho rằng cuộc
đấu tranh chống lại vua Anh là hình thức chính đáng để bảo vệ các quyền
của mình. Và chính cuộc cách mạng giành độc lập đã góp phần phát
triển đáng kế ý thức chính trị của cư dân và dân chủ hoá thể chế chính
trị. Hơn nữa, trong bối cảnh sự đối lập của thuộc địa với chính quốc, cư
dân 13 thuộc địa đã lựa chọn thể chế cộng hoà liên bang. Thể chế này
đã được hợp pháp hoá bằng Hiến pháp 1787 của Nhà nước cộng hoà
liên bang đầu tiên trên thế giới, thể hiện rất rõ việc áp dụng một cách
triệt để nguyên tắc phân quyền theo thuyết “tam quyền phân lập” của
S. Montesquieu và J. J. Rousseau trong việc tổ chức bộ máy nhà nước.
Liệu Hiến pháp của nước M ỹ cũng như của các nước khác có thể
nhìn nhận dưới góc độ văn hoá hay không? Theo quan điểm giá trị luận,
thì nội dung hiến pháp của một chế dộ ờ một quốc gia không phải là sự
không tưởng, mà nó phản ánh những quan niệm, chuẩn mực và hệ giá trị

được thê chế hoá của xã hội đó; là kết tinh và sự phản chiếu những kinh
nghiệm lịch sử mà một cộng đồng xã hội đã trải qua; nghĩa là nó là sản
phẩm của vãn hoá. Thậm chí có thể xem hiến pháp là kết tinh cao nhất, vì
hiến pháp là luật cơ bản, thể hiện nguyên tắc cấu trúc chính trị - xã hội,
các quan hệ và nguyên tắc ứng xử cơ bản giữa người với người, giữa công
dân và bộ máy quyền lực nhà nước, giữa con nguời và các thiết chế xã hội
muôn vẻ của nó. Trái lại, hiến pháp và những thiết chế mà nó tạo ra lại
là cơ sở để một nền văn hoá phát triển, sản sinh ra nhiều kết quả mới,
thành tựu mới và giá trị mới, làm phong phú, rực rỡ thêm cho nền văn
hoá đặc sắc ấy. Chính cái tinh thần tự do cá nhân đã tạo ra năng lực
sáng tạo mạnh mẽ không hạn chế của người Mỹ, vì thế nước Mỹ đã và
vẫn luôn dẫn đầu thế giới về thành quả sáng tạo khoa học công nghệ,
nghệ thuật đại chúng và đương nhiên cả về nền kinh tế hùng mạnh nhất
thế giới. Do đó sự lan toả của các quan niệm, giá trị chính trị đã phản
ánh sức ảnh hướng của nền văn hoá quốc gia sớ hữu bản Hiến pháp chứa
đung giá trị nhân văn dó đối với các quốc gia khác và cũng là các nền
vãn hoá khác.

23


×