Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

8 bài văn mẫu ôn thi THPT Quốc gia môn Văn: Chữ người tử tù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.22 KB, 26 trang )

Dàn ý chi tiết
1. Mở bài.
– Vang bóng một thời gồm 11 truyện viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang
bóng. Qua tập truyện. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự bất hòa sâu sắc đối với xã hội
buổi giao thời cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX ở nước ta và ca ngợi những nhà
nho tài hoa không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, vẫn giữ thiên
lương cao đẹp.
– Một trong những nhân vật tiêu biểu là Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ
người tử tù.
– Ta hãy phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao, một hình tượng có tính cuốn
hút mãnh liệt về khí phách, tâm hồn và tài hoa.
II. Thân bài
A. CON NGƯỜI MANG NÉT ĐẸP CỦA KHÍ PHÁCH, TƯ THẾ
Bằng một thứ văn xuôi điêu luyện gợi được không khí cổ kính của một thời đã
qua, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công những nét tính cách nhân vật.
1. Một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất.
– Tự trọng, không ham quyền và hám lợi: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
– Hiên ngang bất khuất: “…những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu
người tu, người ta cũng còn chẳng biết ai nữa…”
2. Chí lớn không thành, coi thường gian khổ, kể cả cái chết kề bên,
– Chống lại triều đình, bị bắt giam tử ngục, vẫn coi thường: “Đến cái cảnh chết
chém, ông cũng chẳng sợ nữa …”


– Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng: Ông Huấn Cao vẫn thản
nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục, coi như đó là một việc vẫn làm trong
cái hứng sinh bình, dù đang bị giam cầm.
3. Khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị.
– Dưới mắt ông, chúng chỉ là là tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ
chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc, giữa một dõng cặn bã.


– Thái độ và ngôn ngữ nhân vật cực kì khinh bạc. Sau khi viên quản ngục khép
nép hỏi Huấn Cao có cần gì nữa không, ông đã trả lời như tát nước vào mặt đối
phương: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần có một điều, là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây”.
Khí phách đó, tư thế đó luôn luôn hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt
của ngục tù.
B. CON NGƯỜI MANG NÉT ĐẸP CỦA TÂM HỒN, TÀI HOA
1. Tâm hồn cao quý
Huấn Cao ca ngợi thiên lương, tức là cái bản chất tốt đẹp của con người: “Tôi
bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã (…) Ở đây, khó giữ thiên
lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời
khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của nhân vật
Huấn Cao vậy.

2. Yêu cái đẹp và cảm thông với người yêu quý cái đẹp.
Huấn Cao kiêu bạc là thế, nhưng khi hiểu được tấm lòng chân thành của ngục
quan, ông vui vẻ nhận cho chữ, mà còn tỏ ra cảm động. “Thiếu chút nữa, ta đã
phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
3. Rất mực tài hoa


– Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là một thú cao nhã
của người xưa, bên cạnh cầm, kì, thi, họa. Ông Huấn có tài viết chữ đẹp, “vùng
tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Chữ ông Huấn Cao
đẹp lắm, vuông lắm.
– Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ
tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Và lần này
như một ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì “Ta cảm cái tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các người”.
– Con người ấy đã thực hiện lời hứa với viên quản ngục, thể hiện cái tài hoa

tuyệt thế của mình trong một khung cảnh đầy xúc động. Bằng hiện pháp đối
lập, Nguyễn Tuân đã làm toát lên chủ đề của truyện trong đoạn cuối truyện.
– Cái cao đẹp (viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng, với lụa tràng,
mực thắm, nét chữ vuông tươi tắn) đối lập với cái dơ bẩn (cảnh buồng nhà
ngục tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân
gián).
– Hình ảnh kì vĩ của người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét
chữ đối lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của
viên quan ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ (…), chắp
tay vái người tù một vái.
Tất cả thể hiện ý nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị,
giữa mảnh đất chết (nhà ngục), bởi một con người sắp chết (tử tội Huấn Cao).
Còn lời Huấn Cao khuyên viên quản ngục lại mang ý nghĩa bổ sung: cái đẹp
không thể cũng sống chung với tội ác.
C. HÌNH TƯỢNG CAO ĐẸP CỦA NHÂN VẬT
1. Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù tượng trưng cho cái
đẹp của khí phách, của tài hoa hòa hợp cái đẹp của thiên lương.
2. Nhân vật Huấn Cao, cũng như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang
bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song ở Huấn Cao, bên


cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người có trách nhiệm đối
với thời cuộc và cái đẹp của thiên lương. Đó cũng là nét độc đáo của hình
tượng nhân vật Huấn Cao, so với các nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
III. Kết bài.
Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù” mang tính cổ
kính qua hệ thống ngôn ngữ, lối suy nghĩ, cung cách đối xử… toát lên không
khí của một thời mà nay đã thành vang bóng. Nghệ thuật ấy cũng mang tính
hiện đại với nhưng đoạn phân tích ý nghĩa sâu kín, diễn biến tâm lí nhân vật
một cách tinh tế.

Nhân vật Huấn Cao, con người cỏ trách nhiệm đối với đất nước, hiện lên trong
truyện với một thái độ tôn sùng của Nguyễn Tuân. Đây cũng là sự giãi bày kín
đáo niềm “… khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên
Nguyễn Tuân khi mới bước chân vào đời”. (Trường Chinh).


Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 1.
Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có
những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về
cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa,
chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác
phẩm “Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn
cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống
triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng,
nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một
nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng
trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là
một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn
thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn
đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được
miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn
Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung
hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt
đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để
có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời
thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi
thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun

đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn
Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng
Huấn Cao:


Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu.
Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù
quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây
khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân
ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc
lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị
và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn
Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý.
Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh
giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông
bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém.
Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi
võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ
toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày
chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận”
nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam
cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái
gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm”
không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là
“một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng
nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng
của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng
vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở

trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong
hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi
Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:
“Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào
đây ”.


Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì
Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ
…”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm.
Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của
mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy
vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao
đẹp . Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là
đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những
vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài
của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao
quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn
Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì
vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người
biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang
hàng với mình.
Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng
có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên
vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết
tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài
hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước
mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ
ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó,

Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con
người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu
tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một
người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi
cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.


Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con
người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao
thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng
đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để
lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức
nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ
phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng
Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi
khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có
cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một
con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở
nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân
đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng
trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông
vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 2
Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết
nên những trang văn mà ở đó có một nguồn mỹ cảm dạt dào dành cho tất thảy
những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về những thú chơi đẹp, uống đẹp, nhắm
đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như ngọc sáng trong
nhân cách con người. Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn

vẹn nếu thiếu đi “Vang bóng một thời”, và “Vang bóng một thời” cũng sẽ
khiếm khuyết nếu không có sự góp mặt của thiên truyện “Chữ người tử tù”.
Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp mà Nguyễn Tuân đã
sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân
sinh quan về cái đẹp một cách sâu sắc.


Huấn Cao được nhớ đến trước hết là bởi vẻ đẹp của một tài năng siêu việt, toàn
diện trên cả văn và võ. Bằng một cách rất tinh tế và rất Nguyễn Tuân, nhà văn
đã không để nhân vật của mình xuất hiện trực diện mà qua cuộc trò chuyện của
viên quản ngục và thầy thơ lại. Nhưng dẫu là nhìn qua nhãn quan của những kẻ
đối nghịch, tài năng của Huấn Cao vẫn không thể bóp méo. Như người xưa nói,
“văn kì thanh bất kiến kì hình”, Huấn Cao đã bước vào trang văn Nguyễn Tuân
như một hình tượng tuyệt mỹ.
Cái tài của ông Huấn là tài nghệ thư pháp. Là một người “viết chữ rất nhanh và
rất đẹp”, danh tiếng của ông Huấn đã lan ra khắp một vùng tỉnh Sơn, đến tai cả
những người như quản ngục và thơ lại, khiến họ cũng phải trầm trồ và dè dặt.
Quả thực, tiếng lành đồn xa, tài viết chữ của Huấn Cao vốn đã thành danh bất
hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê là một trong những nhã thú
thanh cao của cổ nhân, là biểu trưng cho văn hóa cổ truyền dân tộc. Những con
chữ tượng hình nói lên nhân cách phẩm giá và chí khí của con người. Chính
quản ngục cũng phải cảm khái: “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được
chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời.” Trong một xã hội mà Đông Tây
bát nháo, ối a bông phèng, cái cũ thì chưa suy hẳn mà cái mới thì chưa kịp thay
thế hết, Nguyễn Tuân là một nhà nho mang tâm thế bất hòa, bất mãn, bất lực
với thực tại, xây dựng nhân vật với một tài năng siêu việt về thú chơi cổ truyền
như một cách để nhà văn bày tỏ những tiếc nuối về một quá khứ vàng son đã
qua nay chỉ còn vang bóng.
Khi Huấn Cao diện kiến trực tiếp với bạn đọc, thì người quân tử ấy còn được
biết đến như một trang anh hùng nghĩa liệt với khí phách hiên ngang. Vốn là

một người song toàn văn võ, bên cạnh tài thư pháp còn có tài “bẻ khóa và vượt
ngục”, Huấn Cao là cái tên khiến những người trong ngục tù phải dè chừng.
Trong mắt triều thần, ông là một người cầm đầu bọn phản nghịch, nhưng thực
chất đó là một anh hùng đứng lên vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình vì
bảo vệ lẽ phải. Ông là hiện thân của một con người kinh bang tế thế, anh hùng
cái thế.


Khi được đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh Huấn Cao càng nổi bật lên với
những vẻ đẹp khí phách hiên ngang lẫm liệt. Điềm nhiên bước vào nhà lao,
hành động đầu tiên của Huấn Cao là dỗ gông, không mảy may đếm xỉa đến
vương quyền trên đầu: “Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh
vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Đó là hình ảnh
của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh
thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm
xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.
Những ngày bị giam thân nơi chốn ngục tù, Huấn Cao không một chút khiếp
sợ. Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở
trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối
căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt như việc vẫn làm
trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Câu nói của Huấn Cao với quản
ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực:
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ
đặt chân vào đây.” Lời tuyên bố dõng dạc đủ để thấy Huấn Cao đã bỏ ngoài hết
thảy những sợ hãi và lo âu, không để tâm người mình đang đối đầu là kẻ đang
nắm quyền, đang nắm giữ sự sống. Trong con người của kẻ tử tù ấy thể hiện
đúng tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Uy quyền trên đầu không thể ràng ép,
bạo lực chực chờ không thể đánh gục. Dẫu ngày mai là ngày bị giải ra pháp
trường và đón nhận lấy cái chết thì khí chất người anh hùng vẫn thế, luôn vững
vàng.

Sáng lên hơn cả trong nhân cách người tử tù là một thiên lương trong sáng,
vững lành, có sức mạnh cứu rỗi những tâm hồn đang dần bị bôi đen. Đó là
nhân cách của bậc đại trí, đại dũng, không bao giờ bị lung chuyển trước uy
quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay
quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”. Một con người ý thức sâu sắc
được thiên chức và phẩm giá của nghệ thuật. Một con người không bao giờ thị
tài.


Đáng quý hơn, Huấn Cao không chỉ trọng thiên lương của mình mà còn trọng
thiên lương của kẻ khác. Điều này được thể hiện trong cách ứng xử chân tình
mà ông dành cho quản ngục. Khi chưa hiểu được tấm lòng quản ngục, ông
khinh bỉ đến điều, coi thường y như coi thường một kẻ cầm tay đao suốt đời chỉ
sống trong nhơ bẩn, sống vì phi nghĩa. Còn khi đã hiểu ra cái “sở nguyện cao
đẹp” của y, ông hết sức cảm mến và trân trọng: “Nào ta có biết, người như thầy
quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm
lòng trong thiên hạ.” Cũng chính sự thấu hiểu này đã đưa hai con người từ đối
đầu thành tri âm tri kỉ.
Nhưng có lẽ tài năng khí phách và nhân cách cao đẹp của ông Huấn thể hiện rõ
nhất, tập trung nhất, hài hòa nhất ở cảnh cho chữ – cảnh mà Nguyễn Tuân gọi
là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đêm đã khuya, chỉ sáng mai thôi là người tử tù phải vào kinh chịu án chém,
nhưng ông Huấn vẫn trút hết tài năng sáng tạo vào ngòi bút và viết ra những
con chữ vuông tươi tắn nói lên cái “chí khí tung hoành của đời một con người”.
Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa
bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân
chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh
tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái
chết kề bên, ông Huấn vẫn “dậm tô nét chữ” trong tư thế của người nghệ sĩ
chân chính đang làm chủ lao tù. Sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi

thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy.
Huấn Cao còn hiện lên thật đẹp ở khoảnh khắc ấy trong vai trò của người
hướng thiện, hướng đạo cho kẻ mê muội. Lời khuyên chân thành dành cho kẻ
tri âm đã làm sáng lên vẻ đẹp ấy: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay
chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ
vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời
khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao
giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ


thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương
thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý, làm cho viên quản ngục cảm
động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ
miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái đẹp của nghệ
thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau
trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Vẫn cái chất Nguyễn Tuân ở đó, uyên bác và tài hoa, trong cả tư tưởng và cách
biểu hiện. Nhà văn đã thật thành công khi xây dựng được một tình huống
truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa
sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại,
khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán
Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường,
lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ
kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên
bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn
Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 3
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nghiệp sáng tác của
ông chia thành hai giai đoạn trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng
tháng Tám. Trước cách mạng, ngòi bút của ông thiên về phương châm “Vang

bóng một thời-trụy lạc-xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm
kiệt xuất trước cách mạng tháng Tám, đã khắc họa thành công hình ảnh Huấn
Cao, một kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng thắn.
Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của
triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn
Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề
phòng. ĐỐi với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với
người quàn ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền


bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong
mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự
thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao
bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một
kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét
lên với bất cứ ai. KHông cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho
mọi người nể phục.
Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời
mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sung bái và ngưỡng mộ
như vậy. CHữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ
của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông
quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ
của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Caop đẹp và vuông lắm. Một con
người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất
trong sáng và ngay thằng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép
mình viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những
người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm
phục nhất.

Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người
ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian
về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.
Huấn Cao còn là một người trân trọng tìn bạn, mến mộ những con người có
“chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm
lòng của viên quản ngục và ngưỡng mợ trước tấm chân tình cũng như sự yêu
mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người
có thú vui thanh tao giữa chốn gong cùm nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng


biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà
lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn
Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết
trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp
“Chân-Thiện-Mỹ”.
Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó
quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh
cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục
tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên
trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên
quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho
chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những
con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao
vương xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh
đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái
lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ánh
khi gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến
cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như
vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là môt đấng

anh hùng như vậy.
Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn
Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao
là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất.
Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.
Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí
óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang
bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.


Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 4.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, giàu cá tính. Ông đã niệm và
theo đuổi suốt đời quan niệm “...mà thầy rằng yêu đẹp có nghĩa là quyết tâm
bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp". Và trong rât nhiều cái đẹp mà
ông cảm khái, theo đuổi ấy ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm
tối, cái đẹp của lụa trắng tinh bay những nét mực, cái đẹp từ sâu thẳm lòng
người. Cái đẹp toát ra từ người tử tù Huân Cao và Chữ người tử tù
Trong tác phẩm, Huân Cao là một con người tự ưọng, sống hiên ngang bất
khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng có thể khuất phục ông. Những
con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng chẳng
còn biết nữa... Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay
tham gì tiền bạc?
Là người chọc trời khuấy nước, riêng một giang sơn không chịu được triều
đình phong kiến ngày càng suy thoái, mục rỗng, Huấn Cao chống lại triều đình
ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề gì.
Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài vẫn coi thường: Đến cái chết cũng
chẳng sợ nữa.... Huân Cao có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng ông
vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong hứng bình
sinh, dù đang bị cầm tù.
Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên

ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống
cặn bã. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả
lời như tát vào đối phương: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần một điều, là
ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đó là cái khí phách, cái tư thế hiên ngang lồng
lộng dù khi đang giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bất cứ
cái gì nhưng Huân Cao lại trọng cái bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần
người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phái giấu kín, việc ông cho
chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của


Huân Cao. Lời ấy là tiếng lòng, là tâm huyết của ông: “Tôi bảo thực đấy, thầy
quản nên tìm về nhà quê mà ở đã... ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững
và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Ông yêu cái đẹp và cảm thông với người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu
được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng cho chữ, bởi ông cảm là cảm cái bản
chất thiên lương.
Huấn Cao là người tài hoa rất mực, bên cạnh cầm kì, thi, họa, ông còn có tài
viết đẹp, chữ của ông nức cả một vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài
hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: Ồng biết cái tài của mình và không vì nó
mà ai ông cũng sẵn sàng cho: “Đời ra cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức
trung đường cho ba người bạn của ta thôi”. Và lần cho chữ cuối cùng của đời
ông là một ngoại lệ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xảy ra bởi vì cảm
với tấm lòng, cho chữ có thể nói là một đoạn rất hay thể hiện tài năng của
Nguyễn Tuân miêu tả, dựng cảnh và thể hiện tài năng của nhân vật Huấn Cao.
Cái cao đẹp đối lập với dơ bẩn. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp
cao, trang trọng thường diễn ra trong cảnh thanh khiết của thiên nhiên và
người. Song ở đây là cả một sự đối lập. Tuy nhiên, đối lập mà không có gì mâu
thuẫn cả. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi
thơm của mực, màu trắng của lụa, đã tỏa sáng lung linh. Tất cả thể hiện nghĩa

sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết bởi
một người cũng sắp chết (một tử tù). Lời khuyên của Huân Cao cho cái đẹp
không thể còng sống với cái ác được.
Nhân vật Huấn Cao như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một
thời nhất thiết là con người tài hoa. Ở Huân Cao, bên cạnh tài hoa, có vẻ khí
phách của một người có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó là nét độc của Huân
Cao so với nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
Ngôn ngữ văn xuôi điêu luyện, nghệ thuật miêu tả tinh nhạy của Nguyễn
Tuân đã toát lên không khí một thời đã qua. Nhân vật Huân Cao, con người khí
phách tài hoa có trách nhiệm cao đốì với đất nước. Nó cũng là sự giải bày nỗi ..


khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi
bước chân vào đời. (Trương Chính)
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 5.
Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau
Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang
bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để
lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ
người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang
bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng
người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt
khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào
những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang
bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú
chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là
những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của
Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu
tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí

phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một
nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người
anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá
Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu
lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng
con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa


(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả
bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm
của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể
không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn.
Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách
tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử
Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức,
muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.
Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu.
Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù
quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa
ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường
đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ
tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao
động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc
trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị
anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không

thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.
Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai,
dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông
vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui.
Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái”
làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng,
bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.
Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong
tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn


trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như
một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là
chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi
“Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta – ngươi",
miệt thị hạ nhục“Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây
nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì
Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ
nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm.
Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của
mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy
vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê,
không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất
tốt đẹp của con người mới là đáng quý.Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử
trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết,
coi thường cái chết.
Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là
vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ
của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một

nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài
viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một
thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát
khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên
đời". Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “
Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao
giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng
lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con
người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà
tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù . Huấn Cao là người sáng tạo cái
đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem


đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội
họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình
huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 6.
Tài hoa uyên bác- là một hình tượng nhân vật thường gắn liền trong các tác
phẩm văn học của nhà văn Nguyễn Tuân- một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp,
luôn khao khát hướng tới những cái chân, thảo, chiện, mỹ lệ. Được đánh giá là
cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Và tác phẩm “ chữ
người tử tù” được xây dựng dựa trên hình tượng đẹp như vậy và tiêu biểu là
nhân vật Huấn Cao xuất hiện trong chuyện với vai trò là một người tài hoa, khí
phách hiên ngang, thiên lương trong sáng.
Truyện kể về nhân vật Huấn Cao- một kẻ cầm đầu bọn phản loạn dám đứng lên
chống lại triều đình.Khi bị bắt giam ở nhà tù tỉnh Sơn, vì cảm mến trước tấm
lòng viên quản ngục ông đã đồng ý cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay
chưa từng có. Tình huống truyện vô cùng độc đáo. Huấn Cao là người cho chữ
nhưng lại là tử tù chờ ngày ra pháp trường, viên quản ngục là người xin chữ
nhưng đồng thời lại là người quản lí trại giam nơi giam giữ Huấn Cao. Cuộc

gặp gỡ đã tạo nên tình thế vô cùng kịch tính, làm nổi bật lên vẻ đẹp rạng ngời
của nhân vật Huấn Cao. Với cây bút tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn
Tuân, đã xây dựng một hình tượng nhân vật vừa mang vẻ đẹp tài hoa, có chứa
khí phách hiên ngang và đặc biệt lại có một thiên lương trong sáng.
Trước hết, nhân vật Huấn Cao bước ra với hình tượng được gắn ngay từ đầu là
một người tử tù, cổ đeo gong từ, nhưng lại mang trong mình một tài hoa đó là
tài viết chữ đẹp nổi tiếng khắc vùng. Với tài bẻ khóa vượt ngục dựa theo lời kể
của viên quản ngục, và lại có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp khiến cho viên
quản ngục hết lần này đến lần khác mong muốn có được chữ của ông.

Nhưng với vị trí là người tử tù, Huấn Cao lại có những hành động thể hiện khí


phách hiên ngang của mình. Trước hết đó là hình tượng văn võ toàn tài, nghĩa
khí. Đặc biệt, ông luôn thể hiện rằng thái đọi khinh thường bọn lính quản ngục,
bằng hành động rỗ gông, rồi tiếp đến là khinh bạc những trò tiểu nhân hèn nhác
của những kẻ tiểu nhân. Thêm vào đó là cái tính cách không chịu khuất phục
trước quyền lực và tiền bạc, khi đối mặt với viên quản ngục ông vẫn ung dung
không thèm để ý đến sự có mặt của viên quản ngục. Với tình cách thản nhiên
vô ưu chờ ngày ra pháp trường kèm theo đó là thản nhiên nhận rượu thịt từ tay
viên quản ngục mà không cần mảnh may suy nghĩ.
Ngoài vẻ đẹp tài hoa uyên bác, một tính cách cũng khiến cho người đọc hiểu và
ngưỡng mộ nhân vật Huấn Cao đó là thiên lương trong sáng, và chính cái thiên
lương trong sáng đó mà đã làm cho rất nhiều người ngưỡng mộ ông. Không ít
người đã xin chữ của ông những không phải ông cũng nhận lời cho chữ, trong
cuộc đời ông chỉ cho chữ có bốn người đó là ba người bạn thân và người cuối
cùng là viên quản ngục. Không vì tiền mà cho chữ, biết cân nhắc cho chữ.
Ngoài ra, nhân cách của ông còn được đánh giá qua cách nhìn nhận và đánh giá
khả năng và tài đức của viên quản ngục. Đặc biệt là một người yêu cái đẹp,
trọng cái đẹp, và biết trân trọng những người yêu thích cái đẹp.

Và một khung cảnh mà làm nổi bật được hình tượng Huấn Cao chính là cảnh
cho chữ, giữa một không gian tối tăm, chật trội, u ám, tường đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột phân gián, nhưng Huấn Cao cổ đep gông từ những tay
vẫn thảo những nét chữ như rồng bay phượng múa. Còn viên quản ngục khúm
lúm mài nghiên mực, không khí lúc đó hoàn toàn rất trang nghiêm và linh
thiêng.
Như vậy, qua hình tượng nhân vật Huấn Cao khiến cho người đọc hiểu thêm
được về sự tài hoa, uyên bác, hiểu được thế nào là cái đẹp và niềm đam mê cái
đẹp. Ngoài ra, nó còn là sự hy sinh cho cái đẹp và cái tâm thế luôn luôn bảo vệ
cái đẹp. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc
khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng
mạn. Có thể nói "Chữ người tử tù" với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng
cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của


Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và
nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù - Bài số 7

Năm 1940, tập truyện “Vang bóng một thời” của nhà văn Nguyễn Tuân ra
đời thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo, giàu màu sắc lãng mạn. Gồm
có 12 truyện, nhân vật chính phần lớn là các nhà nho, những kẻ sĩ một
thời “vang bóng”. “Chữ người tử tù” là một trong những truyện ngắn đặc
sắc trong tập “Vang bóng một thời”.
Truyện chỉ có 3 nhân vật xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ diễn ra
trong nhà giam tử tù. Bên cạnh viên quản ngục, thầy thơ lại là nhân vật
Huấn Cao – một tử tù – có khí phách hiên ngang, rất tài tử, đến chết vẫn
coi trọng thiên lương – đã được nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng và miêu
tả một cách tài hoa, độc đáo, đầy ấn tượng.
Huấn Cao là một kẻ sĩ dám xả thân vì đại nghĩa, dũng cảm đứng về phía

nhân dân để chống lại triều đình phong kiến mục nát đương thời, trở
thành “người đứng đầu bọn phản nghịch”. Trong tâm hồn quản ngục thì
Huấn Cao là một con người “chọc trời quấy nước” coi thường cường
quyền bạo lực, “chẳng biết có ai nữa” trên đầu mình. Với thầy thơ lại thì
Huấn Cao “văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Với bọn lính thì Huấn Cao là
“thủ xướng”, “hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn”. Cách nhìn
nhận ấy của ngục quan, của viên thơ lại, của bọn lính đều cho thấy Huấn
Cao là một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân, tiếng tăm lừng lẫy; khi
trở thành tử tù vẫn được người đời khâm phục hoặc kinh sợ! Nguyễn
Tuân miêu tả chiếc gông bằng gỗ lim dài đến tám thước, nặng đến bảy
tám tạ “đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn”, miêu tả cái “dỗ gông” với
“một trận mưa rệp” trước cửa ngục và trước mũi bọn lính, điều đó cho
thấy Huấn Cao và các đồng chí của mình vô cùng hiên ngang, bất khuất,


coi thường mọi nhục hình, đày đọa, trước cái chết vẫn ngẩng cao đầu!
Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang
tàng trước cường quyền bạo lực: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có
một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Chỉ bằng một vài chi tiết
nghệ thuật rất chọn lọc về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, một vài
lời nhận xét bình phẩm, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công tinh thần
“đại vô úy” của Huấn Cao. Nét vẽ chân dung của Nguyễn Tuân rất độc
đáo và có thần!
Huấn Cao là kẻ sĩ tài tử, tài hoa được nhiều người mến mộ “cái người mà
vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”… Chữ của
ông Huấn là “một báu vật trên đời”, tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý
trong thiên hạ. Quản ngục cũng là một người có học đã “biết đọc vỡ
nghĩa sách thánh hiền”. Đã từ rất lâu, “từ những ngày nào, cái sở nguyện
của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một
câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông

lắm”. Huấn Cao là một khách tài tử, không chỉ tài hoa sáng tạo ra cái đẹp
mà còn có một tâm hồn thanh cao, trong sạch. Ông tự biết “chữ thì quý
thật”, nhưng không bao giờ “vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết
bao giờ”. Điều đó cho thấy, Huấn Cao đi “làm giặc” không phải “mưu bá
đồ vương” mà chính là để “cứu vớt dân đen đang đói khổ”; chữ là một
thứ “vật báu” nhưng ông ta không bán văn bán chữ để được phú quý giàu
sang. Đúng, “tính ông vẫn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”.
Huấn Cao vừa có tài vừa có cái tâm đẹp.
Là một khách tài tử, Huấn Cao coi trọng tình bạn tri âm tri kỉ, mến mộ
những con người có tinh thần biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Ai đã từng
được ông Huấn tặng chữ? “Nhất sinh” ông mới viết có hai bộ tứ bình và
một bức trung đường để tặng ba người bạn thân. Và ai đã được ông Huấn
Cao cho chữ? Khi chưa hiểu “lòng dạ” quản ngục thì ông Huấn nặng lời


“cố ý làm ra khinh bạc đến điều”. Nhưng khi qua lời thỉnh cầu viên thơ
lại, ông Huấn biết quản ngục là một con người rất yêu quý cái đẹp, khao
khát có “chữ” để “treo ở nhà riêng mình” thì ông đã xúc động nói: “Ta
cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một
người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Trước lúc bước
ra pháp trường, Huấn Cao đã cho chữ quản ngục, đó là một nghĩa cử.
Trên bình diện “phép nước”, quản ngục và tử tù là đối địch, nhưng trên
lĩnh vực nghệ thuật thì hai người lại là tri âm. Khách tài tử không thể nào
“phụ một tấm lòng trong thiên hạ” là vậy. Vượt qua được cái đáng sợ của
“phép nước”, phá tan được hàng rào vị thế hiện tại trong xã hội, Huấn
Cao và quản ngục đã trở thành đôi bạn tri âm, giữa tài tử và người liên
tài. Sức mạnh nghệ thuật hay ánh sáng tâm hồn kẻ sĩ đã tạo nên sự kì diệu
ấy?
Cảnh cho chữ là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” đã làm cho bức

chân dung nhân vật Huấn Cao, ngục quan, thầy thơ lại trong cảnh tượng
ấy, vô hình trung đã trở thành tương tri, tương thân, tâm đắc trong việc
sáng tạo cái đẹp. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm,
màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy mãng
nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay
ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ,
uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tử tù vung bút viết “những nét
chữ vuông vắn rõ ràng”. Thật là đĩnh đạc, đàng hoàng, sau khi “đề xong
lạc khoản”, Huấn Cao khen mùi mực thơm, “thở dài” đỡ viên quản ngục
đứng thẳng người dậy, nói: “… Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về
nhà quê mà ở đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên
lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện
đi”. Hình ảnh quản ngục “nước mắt rỉ vào kẽ miệng” vái tử tù một vái,


nghẹn ngào nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã làm cho hình ảnh
Huấn Cao trở nên kì vĩ. Sắp bước lên đoạn đầu đài vẫn quyết giữ vững
thiên lương. Kẻ “làm giặc” không thể có cái tâm thế ấy. Huấn Cao là một
anh hùng!
“Văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”
(Vũ Ngọc Phan). Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao rất đặc sắc.
Hầu như không có chi tiết nghệ thuật nào thừa. Tiếng đồn đại, lai lịch, cử
chỉ, ngôn ngữ, hành động… của nhân vật được tác giả lựa chọn rất “đắt”
làm hiện lên một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng
bằng hữu và trân trọng những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Từ một nhân vật lịch sử trong thế kỉ 19, gắn liền với những giai thoại,
những câu đối: “Một chiếc cùm lim chân có đế – Ba vòng xích sắt bước
thì vương”…, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên một hình tượng văn học
Huấn Cao cho chữ trước lúc ra pháp trường. Văn học lãng mạn Việt Nam
thời tiền chiến chỉ có một hình tượng Huấn Cao đẹp bi tráng như vậy.

Xây dựng nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn
Tuân vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc biệt, vừa thể hiện
một bút pháp tài hoa, độc đáo tuyệt vời. Ngoài việc ca ngợi một con
người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện “Chữ người tử tù” còn hàm chứa
một ý tưởng sâu sắc: thương tiếc những tài năng bị hãm hại, khẳng định
cái đẹp có một sức mạnh kì diệu không một thế lực tàn bạo nào có thể
hủy diệt được. Cái đẹp của tài hoa, cái đẹp của thiên lương đã làm lung
linh nhân cách kẻ sĩ Huấn Cao, để chúng ta ngưỡng mộ. Thấm thía biết
bao bài học thiên lương ở đời. Sống vì thiên lương. Và chết cũng giữ trọn
thiên lương. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn kiệt tác lung linh vẻ
đẹp thiên lương.


×