Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh Thảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.96 KB, 7 trang )

Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh Thảo
Lại Nguyên Ân ( 3/16/2009 11:07:23 AM )
Khi Thanh Thảo bước vào thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ thì những người lính cùng thế hệ với
anh − ngày nay đã gần như có thể gọi một cách xác định là "thế hệ thứ ba" − đã bước vào khoảng
giữa cuộc đọ sức. Cứ xem những biểu hiện trong thơ của lớp trẻ cùng thế hệ ấy cũng rõ. Đã qua trước
anh, những ngày mới vào cuộc với rất nhiều dự cảm − hào hứng, háo hức và ít nhiều băn khoăn − mà
chỉ một Cuộc chia ly màu đỏ thôi, cũng đủ cho ta hình dung. Khi các tập thơ Sức mới ra đời và gây
nhiều chấn động trong giới viết trẻ và giới đọc trẻ (tất nhiên không chỉ giới trẻ) thì Thanh Thảo mới
bước vào trường Đại học, sâu tít trên non ngàn hậu phương. Khi giải thưởng thơ của tuần báo Văn
nghệ được trao cho tác giả những bài Lửa đèn, Hương thầm, v.v… thì Thanh Thảo mới ra trường,
đang lúc sửa soạn ba-lô vào cuộc. Kể vài điều trên, tôi muốn nói những thành công tính theo thời gian
của các bạn thơ cùng lứa tuổi trước anh như Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Vũ
Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Thanh Nhàn, v.v… không thể không in dấu vào anh cũng như nhiều
bạn thơ trẻ khác nữa khi các anh lúc này mới chuẩn bị nhập cuộc. Nói điều này chủ yếu để nói sự tiếp
tục trong cùng một lớp nhà thơ trên một mối quan tâm chạy suốt trong sáng tác của họ: ấy là cố gắng
phác họa chân dung tinh thần của lớp người cùng thế hệ mình đang mang trên vai cái trọng trách mà
lịch sử và dân tộc dành cho. Nếu Thanh Thảo được thừa nhận là có những thành công nào đó thì
thành công ấy, đến lượt nó, lại là sự nối tiếp của các bạn thơ trước anh.
Tôi hình dung gương mặt tinh thần − được soi vào thơ − của "thế hệ thứ ba" (đã có một cách gọi ước
lệ như vậy) trưởng thành với cuộc chống Mỹ cứu nước như sau:
Ở thời điểm mở đầu, với những dự cảm vào cuộc. Chia tay gần như một mô-típ thơ điển hình, không
chỉ với cuộc Cuộc chia ly màu đỏ mà đến tận Hương thầm. Sau hơn một chút, đã vào cuộc rồi, sự
cảm nhận thử thách vẫn còn có vẻ mới mẻ nên nó thiên về nói cái thanh tao, đường hoàng. Sự sống
giữa bom đạn, sự sống át đạn bom − gần như là một mô-típ thơ nữa, khá tiêu biểu, nó là một tứ thơ
lớn của cả một thời đại và của nhiều lứa tuổi nhà thơ. Không đọc đúng lúc của nó, không dễ hiểu
đúng sự đồng cảm khá nhất quán khi ấy với những Tình yêu và báo động, Trở lại trái tim mình, Âm
thanhim lặng, Tiếng gà trưa. Thiên nhấn vào cái yên trong cái động − đó gần như một đặc trưng cấu
tứ − (Sau thời điểm những bài thơ này, dầu muốn nói "tất cả như là trong báo yên" thì cái động vẫn
nổi lên hơn, chẳng qua là lấy động làm yên). Sau hơn một chút nữa, xa thêm một chút nữa về thời
gian, khi những con đường Trường Sơn trở nên quen thuộc nhiều hơn với bàn chân tuổi trẻ, thì cái
gương mặt của họ soi vào thơ dường như đã có biến đổi. Cái dáng dấp học sinh mảnh mai và hơi e dè


từ lúc nào không rõ đã thành cái vóc dạc người lính dạn dĩ hơn, từng trải hơn để có thể khá ngạo nghễ
"không có kính, ừ thì có bụi". Phù hợp với lúc trước thì chỉ nhìn ra thơ ở những chỗ vốn là nên thơ,
phù hợp với lúc này, bắt đầu thấy thơ ở những chỗ có vẻ như không "thơ" lắm, không "thơ" mấy.
Từ chân dung học trò sang chân dung người lính, thật ra vẫn là một đối tượng ấy, vẫn một lớp người
ấy. Họ đi tiếp thì thơ cũng phải tiếp tục đi. Những khoảng trời và vùng đất trong thơ trẻ được mở ra
gần như là thuận chiều với sự mở ra, đi tới của bước chân những người lính trẻ cùng thế hệ họ.
Trở lại Thanh Thảo, anh là một trong số rất nhiều người làm thơ viết văn đi vào chiến trường cuối
những năm 60, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu chân người lính trẻ, đến tận những con đường qua
sình lầy của đồng bằng Nam Bộ. Cũng một thực tế chiến đấu bao trùm cả nước, nhưng đã ở vào một
thời điểm khác, một không gian khác, một môi trường cụ thể khác, và tâm trạng người lính, đời sống
chiến đấu của người lính, đời sống nhân dân trong vùng sát nách giặc đã dội vào thơ các anh với
những âm điệu và màu sắc có khác. Thấm thía hơn với thực tế chiến tranh, có thời gian hơn để suy
cảm về chặng đường chiến đấu, về trách nhiệm và số phận thế hệ mình, về đất nước và nhân dân −
những điều này đem lại những nét mới mẻ hơn của thơ lớp trẻ mà chúng ta có thể thấy qua thơ của
những Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly, Nguyễn Duy, Ngô Thế Oanh, Trần Mạnh Hảo, Văn
Lê, Diệp Minh Tuyền… Thanh Thảo là thuộc vào số này.
Có thể quan sát theo đề tài để nói thơ Thanh thảo viết về cuộc chiến đấu ở dọc Trường Sơn và đồng
bằng Nam Bộ, viết về con người và vùng đất ở đây… Đó là một cách nói, cũng đúng thôi. Nhưng tôi
muốn nói đến một quan tâm xuyên suốt, một ý tứ chủ đạo, một điểm "ngời sáng" trong thơ anh: ấy là
cố gắng phác họa chân dung tinh thần của những người trẻ tuổi − người lính − cùng thế hệ anh. Nó
1
như một nhiệt hứng sáng tác đã xâu chuỗi các bài thơ ngắn của tập Dấu chân qua trảng cỏ làm một,
xâu chuỗi tập thơ này với trường ca Những người đi tới biển là một.
Nét thứ nhất mà anh vẽ ra về họ là nét bình thường. Bình thường, gần như tầm thường nữa là khác.
Đây cũng là tứ thơ chung của cả thời đại − những anh hùng vô danh, càng vô danh càng anh hùng. Có
khi Thanh Thảo đem soi vào một cái gì khác − những ngôi sao xa xôi (Những ngôi sao bám chặt
mảnh đất này, vùi trong đất và lấm đầy bùn đất), những hạt gạo gần gũi (…những hạt gạo trên
sàng,, sàng qua lửa qua bom, qua đắng cay còn nguyên chất gạo) cũng như đem ví với đám đế −
những cây sậy mỏng manh − với những ngọn cỏ, những hạt cát bình thường mà có lẽ cả đến con mắt
người yêu cũng không dễ tìm ra. Cái nét bình thường, vô danh này ở người lính trẻ được nhấn vào

đến là nhiều lần trong thơ Thanh Thảo.
Anh thành kính trước những chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại giữa Trường Sơn.
Những người ra đi không để lại tuổi tên
lúc ngã xuống tôi chỉ kịp nhìn nấm đất
Anh đưa vào thơ bức tranh chỉ có những dấu chân − dấu chân những chiến sĩ đã đi qua trên đường
chiến trận.
Ai đi gần ai đi xa
những gì gởi lại chỉ là dấu chân
vùi trong trảng cỏ thời gian…
Anh rất già dặn để có thể vẽ chân dung đối tượng trong trạng thái không có đối tượng, ở trường hợp
vừa nêu trên cũng như ở trường hợp khác, khi chỉ gặp những xác tăng giặc rỉ nát bên đường mà lại
hình dung về những người chiến thắng − những bông "hoa đâu mất", màu áo xanh mất hút cuối rừng.
Có thể nói, Thanh Thảo đã tìm được khá nhiều cung bực, nhiều sắc thái để tô đậm nét vô danh, bình
thường ở những người lính cùng thế hệ. Nhưng nét vô danh, bình thường này được nhấn đi nhấn lại
nhiều lần đến thế thì quả không phải là sự vô tình: nó như báo trước một thầm thì gì nữa, một xác
nhận về đặc điểm thế hệ, hơn nữa, một thứ "tuyên ngôn". Quả là qua thơ Thanh Thảo, những người
lính chống Mỹ cùng thế hệ anh đã tuyên ngôn khá nhiều, "tự bạch" khá nhiều.
Ta đọc được cái tự ý thức về thế hệ này ngay trong những lời nói với các bà mẹ:
Đêm nay con nằm nhẩm tên từng đứa
mai này đây sẽ tràn xuống đồng bằng
chúng con đi như dòng sông chảy xiết
chúng con đi rung từng trận gió rừng
cả thế hệ xoay trần đánh giặc
mặc quần đùi khiêng pháo lội qua bưng
vì mẹ sinh chúng con
vì chúng con là con mẹ
hoặc trong những lời nói với người thuộc tầng lớp đàn anh đang cùng mình trong trận:
Chúng tôi những thằng lính trẻ
lớn lên khắp trăm vùng gọi nhau là đồng đội
đi chiến đấu ngủ bụi nằm bờ đầu nguồn cuối bãi

nhiều đứa cùng tuổi với bài hát của anh
lòng vô tư đã hát một lần
và như anh ngã xuống.
Họ tự nhận về họ khá nhiều, ưu điểm và nhược điểm, tính cách và quan niệm.
Những thằng con trai 18 tuổi
nhiều khi bực quá khóc òa
nhiều lúc tức mình chửi bâng quơ
phanh ngực áo và mở trần bản chất
mỉm cười trước những lời lẽ quá to
nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc
Và như vậy, họ có ý thức, rất ý thức, càng ngày càng ý thức, nhất là trên vấn đề nóng bỏng trước mắt:
trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử, thái độ trước cuộc đụng đầu quyết liệt sống còn với kẻ thù, chỗ
đứng và lối sống của mình.
2
Người ta không thể chọn để được sinh ra
nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy.
Cũng như Hữu Thỉnh khi nói về người lính giữa trận, thời điểm mà hình dung về Tổ quốc trở nên cụ
thể, nó là cái gốc sim phải giữ lấy, "một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn" không có cách nào khác,
trong thơ Thanh Thảo, người lính trẻ rất có ý thức về Tổ quốc, qua những gì gắn bó nhất, cụ thể nhất.
Với những thằng con trai 18 tuổi
Tổ quốc là một nhịp tim có thể khác thường
là một làn mây mỏng đến bâng khuâng
là mùi mồ hôi thật thà của lính
đôi khi là một giọng nữ cao nghe từ Hà Nội
hay một bát canh rau rừng
và lên tiếng tuyên thệ:
chúng tôi không muốn chết vì hư danh
không thể chết vì tiền bạc
chúng tôi lạ xa với những tin tưởng điên cuồng
những liều thân vô ích

đất nước đẹp mênh mang
đất nước thấm sâu đến tận cùng xương thịt
chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết
Người ta thường nói chất trẻ là ở cái tươi mát, tươi tắn, non trẻ, xanh non… thơ Thanh Thảo không
phải không tươi mát, nhưng nó cũng rất nhiều đăm chiêu, suy tư. Nó thiếu "chất trẻ" chăng? Quả là
có lúc có thể trách thơ anh đôi chỗ hơi "già" − ví như trước cái tên rất ngộ "Hoa đâu mất" mà chỉ
cánh lính rất trẻ mới có thể nghĩ ra, tứ thơ Thanh Thảo đặt lại quá đăm chiêu, tưởng như lẽ ra phải đặt
theo lối "không có kính, ừ thì ướt áo" như Phạm Tiến Duật mới là hợp cảnh. Nhưng có lẽ nói chung,
phải nên nhìn nhận "chất trẻ" ở một cái gì đó sâu hơn, "bên trong" hơn. Tuổi trẻ vào đời mà khiến
người ta thừa nhận thì có lẽ là do người ta bắt đầu để ý đến cánh tay nó hăng hái giơ cao xung phong,
do nó mạnh về tính khuynh hướng, mạnh ở những dự định, đề nghị, quyết tâm mà nó muốn làm −
làm tốt, làm đẹp cho cuộc đời này, đất nước này. Trong thơ Thanh Thảo, có lẽ cái cốt của chất trẻ là ở
sự tự khẳng định mạnh mẽ của thế hệ mình, một thế hệ do cách mạng đẻ ra và đào luyện từ trong
lòng nôi một chế độ mới và đem cống hiến cho chế độ toàn bộ khát vọng, nhiệt tình, ý thức cho đến
cả chính xương máu, số phận, sinh mạng mình.
Những tráng ca thuở trước
còn hát trong sách thôi
những thanh gươm yên ngựa
giờ đã cũ mèm rồi
bài ca của chúng tôi
là bài ca ống cóng
hành trang quân giải phóng
đơn giản nhất trên đời
… tháng năm sẽ dần phai
bao bài ca duyên dáng
nhưng tôi biết từ đây
như khắc vào đá tảng
như vạch vào thân cây
bài ca của hôm nay
thô sơ và hực sáng…

Ở những dòng thơ vừa trích, nhà thơ đàn anh Tế Hanh đã nhận ngay ra chất tuyên ngôn của nó (xem
Văn nghệ số 52 - 1979). Tuyên ngôn về lẽ sống, trước tiên, và có lẽ tuyên ngôn cả vê nghệ thuật.
Nét bình thường, vô danh và sự tự khẳng định, tự ý thức, sự "tuyên ngôn" của những người lính trẻ ở
thơ Thanh Thảo không có sự đối chọi, ngược lại, đó là những nét hòa hợp, thống nhất. Nó làm nên
một mô-típ cấu tứ khá tiêu biểu cho các bài thơ Thanh Thảo.
Chiếc bòng con đựng những gì
3
mà đi cuối đất mà đi cùng trời
mang bao khát vọng con người
dấu chân nho nhỏ không lời không tên
thời gian như cỏ vượt lên
lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua…
Có thể nói thơ Thanh Thảo đã cố gắng nhận chân đúng cái tầm cỡ thực của đối tượng mình miêu tả,
cố gắng này đem lại cho thơ anh cái khoảng khoát, dài rộng của không gian và thời gian trong những
cảm nghĩ và liên tưởng. Thơ anh không thiếu cái cụ thể. Hơn nữa, có thể lấy ra vô số những chi tiết
cụ thể ấy, giống như từ các bút ký và ký sự về sinh hoạt người lính và đời sống nhân dân, không khí
những chiến trường, bề sâu của địa hình, cho đến cả mùi lá mục của những cánh rừng già, mùi trống
không những hố bom, màu bông bèo và mùi bùn đất của đồng đưng sông nước Nam Bộ… Thế nhưng
nó vẫn rất giàu khái quát. Có thể đoán rằng trong tâm niệm sáng tác của anh, đưa thật nhiều cái cụ thể
vào thơ và thường xuyên nâng lên khái quát là hai nguyên tắc song phương thường trực chỉ đạo người
viết. Càng ngày, theo mạch sáng tác, anh sẽ làm cho sự liên hệ giữa hai cái đó trở nên khó nhận ra
hơn, khó nhận ra nhưng rồi vẫn phải thấy. Cụ thể và khái quát đan dệt nhuần nhị trong thơ anh, một
thứ thơ rất mực tâm trạng.
Những cây đế mong manh
mọc ken thành đám đế
nơi có rắn và chuột đồng làm ổ
màng nhện giăng những đường tơ hoang vu
lũ giặc không ngờ nơi đó có chúng tôi
những cây đế biết nghĩ suy
và cầm súng

Như ta thấy trong đoạn thơ vừa trích, sự tự ý thức − đây là tự ý thức trước kẻ thù − đã vượt lên, nâng
tầm cho sự việc, mở đường cho sự việc đi vào thơ. Sự tự ý thức ấy đã định hướng cho những lựa
chọn gay gắt: trong giây phút quyết liệt trước kẻ thù, người chiến sĩ trẻ sẽ chia đôi tiếng nổ quả thủ
pháo cuối cùng cho mình và chúng nó mỗi bên một nửa chăng? Và đây là câu trả lời:
Quả thủ pháo hãy giành cho chúng nó
còn trái tim − phải giữ cho mình
Trên ý hướng tự ý thức mạnh mẽ này, thơ anh đã nói và nói thành công về cái chết, về sự mất mát hy
sinh, nói trong giọng trầm xuống, trong giọng nén lại.
Tin người bạn vừa nằm xuống
đến với tôi từ một giọng bình thường
một người chưa quen
gió vần vụ trên nóc rừng buổi sớm
Thảng hoặc đâu đó có ý nghĩ cho rằng văn học viết về chiến tranh ở ta về sau này do có nói về mất
mát hy sinh nên có phần chân thật hơn. Không hẳn là như vậy. Chiến thắng, thành công cũng chân
thật như hy sinh mất mát, có khi còn chân thật hơn là đằng khác, vì nó đã được xác nhận bằng sự thực
bao quát, sự thực cuối cùng. Chân thật là ở thái độ nhiều hơn là ở chỗ đưa ra loại sự việc nào. Cái
nhìn thừa nhận thực tế, thừa nhận sự thực trong tất cả mọi loại biểu hiện của nó bao giờ cũng dễ
thuyết phục hơn là cái nhìn muốn đơn giản hóa, muốn vỗ về làm yên lòng những người đang giẫm
chân trên mảnh đất thực của một cuộc đấu tranh sống còn. Thanh Thảo chính đã thành công ở phần
chân thật trong cảm quan về thực tại chiến đấu, một thực tại đa dạng như ta vẫn thường nói, − có hy
sinh mất mát, có chiến thắng, lac quan; thơ anh đậm sắc thái bi hùng, trữ tình ở thơ anh không tách
biệt mà hòa hợp ở mức khá cao với tính sử thi, điều này đem lại thành công cho anh trong cả những
bài thơ ngắn lẫn trong trường ca trữ tình sử thi Những người đi tới biển, một trường ca vào loại thành
công nhất trong hướng phát triển của thể loại này những năm gần đây.
"Ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc" − lý lẽ này đã dẫn đến sự trình bày thẳng thắn những
hy sinh mất mát một cách tự nhiên, giản dị, bằng giọng nói thường, bằng giọng nói trầm.
Những gì vỡ ra giờ rắn lại rồi
bạn ngã xuống nơi cần ngã xuống
một đời ấy cho yêu thương và ước vọng
4

phút cuối cùng trần trụi thế thôi
Cái đau xót trầm xuống này cũng là tự nhiên, nó là cái tình giữa những người đồng đội gắn bó −
chúng tôi uống nước suối ăn lương khô, / miếng đường nhỏ chia ba trên đỉnh dốc − chia nhau từng
ngụm nước đến cái sống cái chết. Cảm giác sinh ly tử biệt này không hàm một sự sợ hãi. Nó là sự
cứng cỏi chấp nhận. Chỉ có xuất phát từ một chủ nghĩa cá nhân cực đoan mới có sự sợ hãi; may thay,
nhờ vũ trang bằng lý tưởng của Đảng, nhờ ý thức được chính nghĩa của cuộc chiến đấu, văn học ta đã
không sa vào thứ sợ hãi bảo mạng.
Sự hy sinh này được ý thức bởi tính chất ác liệt thực tế.
Trên bờ ruộng nhà mình
anh lặng lẽ gài bãi chết
(*)
phía sau bãi chết − các con anh
phía sau bãi chết − vợ anh
phía sau bãi chết − nhà anh
phía trước − là chúng nó
Không có cách nào khác, phải bám đất.
Sống cồn đất, chết chôn trên cồn đất
Ôi làm sao bỏ được nơi này
Hy sinh là điều không tránh được. Cho nên, cái đáng nói hơn cả trong cuộc chiến đấu lâu dài này vẫn
là niềm tin, nó cho phép ta chấp nhận thử thách, hy sinh, cũng như dân gian xưa chấp nhận mọi sự
cay đắng đời thường, qua ý tứ gởi vào câu ca dao về ngọn rau răm. "Rau răm ở lại chịu đời đắng cay"
mặc ai kia như "cây cải theo gió về trời".
Dẫu rằng thêm nữa đắng cay
Niềm tin nuôi lớn đất này bao năm
Từ sự hy sinh, thơ Thanh Thảo thường dẫn ý nghĩ chúng ta tới sự bất tử. Anh hình dung những người
đã vĩnh viễn nằm lại giữa Trường Sơn vẫn dõi theo bước chân đồng đội. Và cũng như Dương Hương
Ly (Bùi Minh Quốc) trong Bài thơ về hạnh phúc, anh nói về tâm niệm cua những người còn sống
nguyện đi tiếp con đường lớn mà những người đã khuất phải dừng lại. Ý nghĩ về phần xương máu
của đồng đội làm nên ngày gặp lại với người yêu được diễn đạt thật cảm động.
Và em ơi ngày sum họp ngày mai

giữa chúng mình còn bao bạn bè ngã xuống
Những người ấy, những người hay mơ mộng
tha thiết yêu và muốn làm được chút gì
cho em cho anh cho đất nước
đôi tay họ đôi bàn tay trong sạch
đã vùi sâu trong đất
sẽ vươn giữa hai ta như những nhành cây
những nhành cây ôm chặt cuộc đời này
giữ cho những lứa đôi tròn hạnh phúc.
*
Nhiệt tình phát ngôn bằng thơ cho sự tự ý thức của những người trẻ tuổi cùng thế hệ − ở đây là người
lính − đã khiến thơ Thanh Thảo giàu khái quát, giàu chất triết lý, nhưng khái quát và triết lý ở anh
thường không đưa thơ quay về dạng thuần túy chính luận. Cái cụ thể ở thơ anh cũng giàu, cũng đầy
lên, sung mãn như triết lý và khái quát, thậm chí nhiều hơn thành phần triết lý và khái quát. Thơ anh
không chỉ vẽ cái chân dung tinh thần qua những quan niệm, những nhận thức, những khái niệm.
Trong thực tế máu lửa ác liệt, nhận thức là qua hành động, quan niệm bộc lộ trên lối sống, trên những
ứng xử cụ thể. Xích lại gần sự thực cụ thể trần trụi, thơ anh đồng thời khắc họa cả diện mạo cụ thể
của người lính cùng thế hệ.
Tổ ba người như ba ông táo
xáp vào − tiểu đội có cơm ăn
ngủ lán hầm chỉ căng một tăng
mắc võng đầu quay về một hướng
lắm câu đùa, nhiều tâm sự vụn
5

×