Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Phương thức huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.02 KB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------



-------

LÊ QUỐC HIẾU

PHƯƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TRONG
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
(Qua một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 10/2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------  -------

LÊ QUỐC HIẾU

PHƯƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TRONG
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
(Qua một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh)


CHUYÊN NGÀNH:
HỌC MÃ SỐ:

LÝ LUẬN VĂN
60. 22. 01. 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
\

Người hướng dẫn khoa học:
TS. DIÊU LAN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 10/2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.....................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................15
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................16
5. Cấu trúc của luận văn..........................................................................................17
CHƯƠNG 1: HUYỀN THOẠI HÓA VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI.........................................................18
1.1. Huyền thoại và phê bình huyền thoại....................................................................................................18
1.1.1. Huyền thoại................................................................................................................................ 18
1.1.2. Phê bình huyền thoại................................................................................................................. 25
1.2. Huyền thoại và hành trình tìm kiếm phương thức biểu hiện của văn xuôi Việt Nam sau 1975............27

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG THỨC HUYỀN THOẠI HÓA TỪ..................................39

BÌNH DIỆN HÌNH TƯỢNG THẨM MĨ................................................................39
2.1. Nhân vật huyền thoại............................................................................................................................39
2.1.1. Nhân vật theo cấu trúc đối lập nhị nguyên.................................................................................41
2.1.2. Nhân vật mang màu sắc huyền thoại.......................................................................................... 44
2.2. Không gian huyền thoại.........................................................................................................................49
2.2.1. Không gian theo cấu trúc đối lập nhị nguyên..............................................................................52
2.2.2. Không gian tâm linh, huyền ảo................................................................................................... 58
2.2.3. Không gian biểu tượng............................................................................................................... 61

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC, KHUYNH HƯỚNG TÁI TẠO HUYỀN
THOẠI: HUYỀN THOẠI CỔ ĐIỂN, TÂN HUYỀN THOẠI.................................70
3.1. Tái tạo, hòa trộn những motif, điển tích trong huyền thoại phương Đông và phương Tây..................70
3.1.1. Motif Đứa bé thần kì và Sự ra đời kì lạ........................................................................................ 72
3.1.2. Motif Hóa thân........................................................................................................................... 77
3.1.4. Motif Tội ác - trừng phạt............................................................................................................. 79
3.1.5. Motif Hành trình........................................................................................................................ 81
3.2. Giễu nhại, giải huyền thoại....................................................................................................................83
3.2.1. Quan niệm về giễu nhại, giải huyền thoại................................................................................... 83
3.2.2. Các xu hướng giải huyền thoại................................................................................................... 86
3.2.2.1. Giải huyền thoại về lịch sử, chính trị.................................................................................... 86
3.2.2.2. Giải huyền thoại về tâm thức dân gian................................................................................91
3.3. Thế giới cổ mẫu, biểu tượng................................................................................................................106
3.3.1. Cổ mẫu đất - nước................................................................................................................... 111

1


3.3.2. Cổ mẫu sông - biển................................................................................................................... 116
3.3.3. Cổ mẫu giấc mơ....................................................................................................................... 121


KẾT LUẬN...........................................................................................................127
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................130

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong khoảng thời gian hai thập niên trở lại đây, vấn đề “huyền thoại” (myth);
phê bình huyền thoại (myth criticism); cổ mẫu (archetype) trở thành mối quan tâm
lớn của các nhà nghiên cứu. Một trong những nguyên nhân cốt lõi để hướng nghiên
cứu huyền thoại cổ mẫu ngày càng khẳng định ưu thế trong việc khám phá, giải mã
tác phẩm là bởi chúng đã trở thành những chất liệu nghệ thuật, “đi vào”, “ngả bóng”
nơi các sáng tác văn học, hình thành một khuynh hướng sáng tác huyền thoại độc
đáo. Khuynh hướng này bắt nguồn từ sự chuyển hướng mạnh mẽ trong tư duy văn
xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn) sau năm 1975 mà cội nguồn của nó là ý thức “vực
dậy” những sáng tác truyền kì trung đại, hoặc những nhân vật, motif trong huyền
thoại, truyền thuyết Đông - Tây... Khuynh hướng sáng tác huyền thoại không phải
đến bây giờ mới xuất hiện mà huyền thoại với vai trò là “cái nôi nguyên hợp của
văn hóa loài người”, “hình thức cổ xưa nhất”, “thể loại” tồn tại lâu đời nhất trước
khi phân rã thành những hình thái ý thức khác nhau, đã trở thành suối nguồn dồi
dào, chất liệu sáng tác của mọi loại hình nghệ thuật không riêng gì văn học. Nhà
nghiên cứu Pierre Brunel quan niệm, văn chương, nghệ thuật (và hiện nay là điện
ảnh) có vai trò như một “phòng lưu trữ huyền thoại”. Huyền thoại được tái sinh, bao
bọc bởi văn chương. Huyền thoại “lấp lánh bí ẩn”, “phát sáng thông điệp”, nó trở
thành cái nôi của văn học, vì ở huyền thoại có những tình huống/hoàn cảnh/câu
chuyện mẫu với khả năng thâm nhập, tái sinh không ngừng trong cấu trúc nghệ
thuật. Không chỉ vậy, chính vì huyền thoại xuất phát từ vô thức tập thể (collective
unconscious) của cộng đồng, nhân loại nên nó như một di chỉ của kí ức, văn hóa ăn
sâu vào tiềm thức, chi phối, kiến tạo nên chất liệu trong quá trình sáng tác của

người nghệ sĩ. Hướng tiếp cận huyền thoại mở ra những khả năng/triển vọng mới
trong nghiên cứu văn học nhưng đồng thời cũng gợi mở những hướng thăm dò mới
trong nghiên cứu quá trình tương tác (interaction), xâm lấn (penetration), ứng xử
(behavior) với những chất liệu huyền thoại (materials of myth) ở từng loại hình
nghệ thuật (âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, kịch, điêu khắc…).

3


Tuy nhiên, trong thực tế nghiên cứu văn học, chúng ta vẫn chưa khu biệt một
cách chính xác giữa “huyền thoại” và “thần thoại”? Liệu đây có phải là hai thuật
ngữ có nội hàm khái niệm tương đồng? Mặt khác, những vấn đề của “huyền thoại”
trong sự tương tác/xâm lấn/“đi vào” văn học; vấn đề phê bình huyền thoại, phê bình
cổ mẫu, phương thức huyền thoại hóa (mystification), giải huyền thoại
(demystification) và các khuynh hướng sáng tác huyền thoại vẫn chưa được nghiên
cứu một cách hệ thống. Khi “đi vào” sáng tác văn học, huyền thoại đã tạo nên
những biến đổi gì trong cấu trúc thể loại của truyện ngắn, tiểu thuyết?
Thêm nữa, nhìn từ các phương thức biểu hiện của văn xuôi Việt Nam đương
đại, chúng ta thấy sự nở rộ của các kĩ thuật viết mới mẻ. Có những tác phẩm là sự
thống hợp của nhiều bút pháp sáng tác khác nhau (tả thực mới, phúng dụ, huyền
thoại, giễu nhại, bút pháp tượng trưng, liên văn bản, hậu hiện đại...). Nhìn từ
phương diện này, huyền thoại hóa thực chất là một phương thức, kĩ thuật sáng tác
tiêu biểu của văn chương đương đại. Vậy vấn đề đặt ra, khi sử dụng kĩ thuật này,
một cách chủ ý hoặc vô thức nhà văn đã tái tạo, ứng xử với những chất liệu huyền
thoại ra sao, đồng thời có những biến đổi gì về mặt cấu trúc, tư duy thể loại, hình
tượng thẩm mĩ và trần thuật?
Huyền thoại không chỉ đơn giản như một phương thức, kĩ thuật sáng tác, mà
hơn hết, huyền thoại còn được xem như một “tiền văn bản”, một thể loại tồn tại lâu
đời nhất, một hình thức nguyên hợp sơ khai, nơi lưu giữ văn hóa nhân loại. Từ mối
quan hệ giữa huyền thoại và văn học (một trong những mảnh vỡ, hình thái ý thức

riêng biệt “thoát thai” từ huyền thoại), tác phẩm văn học chính là mảnh đất màu mỡ
cho sự tham dự, phóng chiếu (projection) của huyền thoại, tư duy huyền thoại nảy
mầm biểu hiện bằng sự cố kết, gia tăng, lặp đi lặp lại những cổ mẫu, ẩn dụ, biểu
tượng, từ đó hình thành nên những khuynh hướng sáng tác huyền thoại đa dạng.
Từ thực tiễn trong hoạt động sáng tác và nghiên cứu văn học, chúng tôi lựa
chọn đề tài Phương thức huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua
một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh) hướng
đến giải quyết những luận điểm khoa học được đặt ra ở trên.

4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã nhấn mạnh về vai trò của huyền thoại như là “trạng thái đầu tiên” của
cái mà sau này sẽ được gọi là “ý thức xã hội của một cộng đồng dân tộc” hoặc “liên
dân tộc”, do vậy, nghiên cứu về huyền thoại đã có một lịch sử kéo dài. Luận văn tìm
hiểu “phương thức huyền thoại hóa” - một vấn đề của huyền thoại, tức là nghiên
cứu quá trình, cơ chế xâm lấn của huyền thoại, tư duy huyền thoại trong văn học
viết, mà phạm vi cụ thể là văn xuôi Việt Nam đương đại. Do vấn đề nghiên cứu, tuy
chỉ chạm đến một khía cạnh nhỏ của huyền thoại, nhưng lại mở ra “đại lộ thênh
thang” về lịch sử nghiên cứu huyền thoại. Mặt khác, vấn đề này trong những năm
gần đây đã nhận được sự quan tâm của các dịch giả, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu
so sánh với các hướng nghiên cứu đã thực sự tạo dựng thành một khuynh hướng
trong khoa học văn học ở Việt Nam hiện nay như: Tự sự học (Narratology), Hậu
hiện đại (Postmodern), Diễn ngôn (Discourse), Liên văn bản (Intertextuality),
Chuyển thể (Adaptation),… rõ ràng, Phê bình huyền thoại vẫn còn khá mờ nhạt.
Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh đã trở
thành “mảnh đất” được đào xới, thâm canh nhiều. Có thể nêu tên một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu được xuất bản trong thời gian qua như: Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp (Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,

2001); Giã biệt bóng tối, tác phẩm & lời bình (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2010);
Lịch sử và văn hóa - Cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh (Nxb Phụ nữ, Hà
Nội, 2012)…, đó là còn chưa kể hàng trăm công trình luận văn, luận án, các bài
nghiên cứu… có liên quan mà chúng tôi chưa thể khảo sát hết được. Tuy vậy, vấn
đề huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương đại vẫn có những khoảng trống
cần được nghiên cứu một cách hệ thống.
Trong phần này, chúng tôi không khảo sát lịch sử nghiên cứu theo hướng tiếp
cận lịch đại, đồng đại mà triển khai theo từng cấp độ và hình thức nghiên cứu cụ
thể. Luận văn tìm hiểu vấn đề huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương đại
qua nghiên cứu trường hợp (case study) sáng tác của ba tác giả, do vậy lịch sử vấn
đề chúng tôi triển khai theo hai hướng cụ thể, bao quát từ phạm vi rộng đến hẹp:

5


Tiếp nhận và quảng bá lí thuyết về huyền thoại, cổ mẫu và Về các khuynh hướng
nghiên cứu huyền thoại.
2.1. Tiếp nhận và quảng bá lí thuyết về huyền thoại, cổ mẫu
Khoảng thời gian một thập niên trở lại đây, những công trình dịch thuật, các
tài liệu nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại trong sáng tác văn học đã
tăng hẳn lên. Tiếp nhận lí thuyết về huyền thoại trong giới khoa học văn học ở Việt
Nam khá muộn mằn. Theo tìm hiểu của chúng tôi, bài viết “Fzan Kafka - và vấn đề
“huyền thoại” trong văn học” của Hoàng Trinh đăng trên tạp chí Văn học (tháng
5/1970) có vai trò “tiên phong” trong việc luận bàn về “huyền thoại” trong nghiên
cứu văn học ở Việt Nam. Theo tác giả, “không nên nghĩ rằng trong các tiểu thuyết
Lâu đài, Vụ án và các truyện ngắn trong tập Vạn lí trường thành, Biến dạng…
Kafka muốn phản ánh hay ghi lại những câu chuyện có thật nào đó theo quan niệm
thông thường của các nhà văn hiện thực”, hơn hết những tư liệu này chỉ là cái “cớ”
để thông qua đó dựng lên “huyền thoại” - “tức là những hình tượng văn học gián
tiếp và có tầm khái quát lớn, mang một ẩn ý sâu, phản ánh những tư tưởng triết học

của tác giả về những vấn đề nào đó đang đặt ra trong cuộc sống” [76; tr.95]. Những
lí giải của Hoàng Trinh chưa thật thuyết phục và rõ ràng. Vì “huyền thoại” trong hai
sáng tác Vụ án, Lâu đài của Kafka chỉ dựa trên những ẩn dụ khá kín đáo của cấp độ
hình ảnh và câu chữ nên một người đọc nếu không nắm rõ những điển tích, motif
trong huyền thoại phương Tây sẽ rất khó để hiểu được. Cũng trong bài viết này,
Hoàng Trinh đã đưa ra những nhận xét xác đáng về khái niệm huyền thoại trong văn
học. Theo ông, huyền thoại không gì khác chính là những “hình ảnh” có nguồn gốc,
được “rút ra” trong hệ thống thần thoại, điển tích hoặc là
những hình ảnh khác thường, “phi lí tính” do nhà văn sáng tạo ra, qua đó nói lên một
cách ẩn ý những sự thật, những nỗi niềm, những ước vọng nào đó của cá nhân mình
đồng thời cũng là thời đại mình. Nó là một tấm voan mờ ảo khoác lên trên những
hiện thực sinh động, mà nhà văn đã chủ động che bớt ánh sáng hoặc phá bỏ kích tấc
[76; tr.95].

6


Rõ ràng, theo quan điểm của Hoàng Trinh, huyền thoại không chỉ trở thành một
suối nguồn chất liệu dồi dào mà còn trở thành phương thức biểu hiện, biện pháp
cảm thụ thế giới, và là “nơi gửi gắm những điều thực tế nhà văn muốn nói”.
Bài viết của Phùng Văn Tửu “Vấn đề huyền thoại trong văn học nghệ thuật”
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số tháng 3/1976 đã soi chiếu huyền thoại
như một “phương thức nghệ thuật đang có xu hướng trở thành một trong những kĩ
thuật sáng tác của tiểu thuyết hiện đại” [78; tr.111]. Phùng Văn Tửu luận bàn khái
niệm “huyền thoại”, đồng thời chỉ ra sự quan tâm đến huyền thoại của các nhà
nghiên cứu Việt Nam và thế giới qua việc liệt kê những công trình nghiên cứu, sáng
tác tiêu biểu. Không chỉ vậy, nhìn vào đời sống văn học Việt Nam, tác giả còn lí giải
nguyên nhân mà huyền thoại trở thành vấn đề “xa lạ”, “ít ai quan tâm” bằng những
dẫn chứng khá thuyết phục. Đó là do hoàn cảnh đất nước ta, với hai cuộc chiến
tranh liên miên kéo dài, chủ nghĩa anh hùng cách mạng với những nguyên tắc mĩ

học phải được đề cao. Vậy nên ở giai đoạn văn học cách mạng, sáng tác cũng như lí
luận phê bình thế kỉ XX, huyền thoại - với quan niệm, nhận định liên quan đến sự
mơ hồ, kì ảo ít được chú ý. Tuy nhiên, tình hình đã có biến đổi, khởi sắc. Từ sau
năm 1986, “trên văn đàn những tác phẩm với các nhân vật, các sự kiện siêu nhiên
hoặc được xây dựng trên cơ sở của trí tưởng tượng sáng tạo, vượt ra ngoài khuôn
khổ chân thực cụ thể lịch sử” xuất hiện ngày càng nhiều. Bài viết của Phùng Văn
Tửu đưa ra những kiến giải khoa học sắc sảo, gợi mở khả năng mới trong ứng dụng
nghiên cứu huyền thoại, cổ mẫu.
Tác giả Lại Nguyên Ân (“Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại” đăng trên
tạp chí Văn học, số tháng 3/1992) bày tỏ những quan ngại về tình trạng nghiên cứu
huyền thoại. Thứ nhất, giới nghiên cứu “chưa chú ý đến mối liên hệ giữa văn học
với thần thoại” (Lại Nguyên Ân đồng nhất giữa hai thuật ngữ “huyền thoại” và
“thần thoại” - LQH chú thích). Thứ hai, thái độ xem thường, thậm chí là phủ nhận
những sáng tác huyền thoại ở văn học thế kỉ XX. Thứ ba, khẳng định một cách
mạnh mẽ “thế giới quan thần thoại” không hề mất đi cùng với việc “ý thức nguyên
hợp đã mất đi khi phân lập thành các hình thái ý thức riêng biệt”, nên không chú ý

7


đến hiện tượng “ý thức huyền thoại hóa”. Bài viết chỉ ra sự bùng nổ mạnh mẽ của
các kiểu sáng tác huyền thoại trong văn học thế giới thế kỉ XX. Tác giả khẳng định
khả năng/ý thức huyền thoại hóa đang ngày càng lớn mạnh trong cả đời sống xã hội
và văn học, cùng sự cảnh báo những hệ quả của ý đồ huyền thoại hóa.
Chùm bài “Phương pháp phê bình huyền thoại học” (Đỗ Lai Thúy giới thiệu)
đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/2001 gồm: “J. Grimm - Huyền thoại
Đức”; “Gilbert Durand và phương pháp phê bình huyền thoại học”, Jean-Yves Tadié
và “Huyền thoại trong tiểu thuyết của Emile Zola” của Lê Ngọc Tân tiếp tục đóng
góp những diễn giải về huyền thoại, ứng dụng lí thuyết huyền thoại trong nghiên
cứu văn học. Đặc biệt, trong bài viết “Gilbert Durand và phương pháp phê bình

huyền thoại học”, tác giả Jean-Yves Tadié đã chỉ ra vai trò của phương pháp này là
“phân tích văn bản huyền thoại” để tìm kiếm “chuyện kể nằm bên dưới chuyện kể,
gắn liền với ý nghĩa của mọi chuyện kể” [62; tr.208]. Đồng thời, tác giả còn đưa ra
ba giai đoạn của phương pháp phê bình huyền thoại: một “bản liệt kê những chủ đề
huyền thoại”, những tình huống phối hợp các nhân vật và các trang trí, cuối cùng,
sự đối chiếu những bài học của huyền thoại với những huyền thoại khác thuộc “một
thời đại hay một không gian văn hóa khá xác định” [62; tr.208].
Năm 2004, nhóm dịch giả Song Mộc, Trần Nho Thìn giới thiệu công trình
dịch Thi pháp của huyền thoại (1976) của nhà nghiên cứu văn học dân gian lỗi lạc
người Nga E.M. Meletinsky. Có thể khẳng định, đây là công trình có ý nghĩa khoa
học lớn lao trong việc giới thiệu tư tưởng lí luận về huyền thoại của Meletinsky.
Công trình gồm ba phần. Phần thứ nhất, giới thiệu những lí thuyết mới về huyền
thoại và cách tiếp cận văn học từ góc độ nghi lễ - huyền thoại. Phần thứ hai, trình
bày những hình thức cổ điển của huyền thoại (tư duy huyền thoại, chức năng của
huyền thoại, huyền thoại cổ về sự sáng tạo, về lịch biểu, về chu kì, về người anh
hùng…) và sự thể hiện của huyền thoại trong truyện kể dân gian. Phần thứ ba mang
tính chất ứng dụng nhiều hơn. Tác giả đã phân tích sự xuất hiện của “chủ nghĩa
huyền thoại” trong văn học thế kỉ XX, nghiên cứu trường hợp tiểu thuyết của James

8


Joyce, Thomas Mann và Kafka. Công trình đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng,
mở ra những triển vọng mới, “con đường sáng” cho hướng nghiên cứu huyền thoại.
Hai công trình xuất bản liên tiếp trong hai năm 2007, 2008 của Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đã minh chứng thêm mối hoài tâm ngày càng sâu
rộng về huyền thoại của các nhà nghiên cứu. Năm 2007, công trình Huyền thoại và
văn học tập hợp những bài nghiên cứu, dịch thuật công phu như: “Để góp phần
nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại trong sáng tác văn học” (Chu Xuân
Diên); “Huyền thoại” (Daniel-Henri-Pageaux, Nguyễn Thị Thanh Xuân lược dịch);

“Tính uyển chuyển của huyền thoại” (Th.P. Van Baaren, Lê Thụy Tường Vy dịch);
“Từng bước đến với phê bình huyền thoại” (Gilbert Durand, Nguyễn Thị Thanh
Xuân phỏng dịch). Công trình Phê bình huyền thoại (Nxb Đại học Quốc gia HCM,
2008) của tác giả Đào Ngọc Chương cấu trúc thành ba chương. Chương một trình
bày những vấn đề xung quanh thuật ngữ và đặc trưng của huyền thoại. Chương hai
trình bày vấn đề nguyên lí và lịch sử của phê bình huyền thoại. Chương ba thuần
túy là chương ứng dụng phê bình huyền thoại trong tác phẩm Chơi giữa mùa trăng
của Hàn Mặc Tử và Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh. Cũng trong
chương ba, tác giả nghiên cứu về cổ mẫu “cái bóng” (shadow) trong một số tác
phẩm văn học nước ngoài.
2.2. Về các khuynh hướng nghiên cứu huyền thoại
Phần viết này, chúng tôi chỉ ra một số hướng tiếp cận huyền thoại trong văn
học, đặc biệt chúng tôi lưu tâm đến những công trình, bài viết nghiên cứu về huyền
thoại trong những sáng tác của các tác giả thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi khái quát một số hướng nghiên cứu về huyền
thoại như sau:
Hướng thứ nhất, tìm hiểu phương thức huyền thoại trong văn học Việt Nam
đương đại. Ở hướng này, mục đích của tác giả tập trung đi vào những biểu hiện của
thủ pháp, kĩ thuật huyền thoại hóa và chỉ ra sự tồn tại của hệ thống các cổ mẫu, biểu
tượng và motif trong sự gắn bó mật thiết với huyền thoại cổ, huyền thoại phương
Đông và phương Tây.

9


Trước hết bằng cách nói trực tiếp hoặc gián tiếp, các tác giả đều khẳng định ý
thức sử dụng huyền thoại trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Vy Khanh
trong bài “Nguyễn Huy Thiệp - những chuyện huyền kỳ, núi, sông và nước…” có
dẫn phỏng vấn của Nguyễn Huy Thiệp ở Seattle:
Khi viết văn tôi luôn luôn tìm lại những giá trị truyền thống (…) Tôi nghĩ một nhà

văn phải bắt đầu từ những kinh nghiệm nguyên thủy nhất của dân tộc mình. Tóm lại,
phải đi từ con người Việt Nam từ nguồn gốc, từ đó lần về sau [46; tr.383].

Còn T.N. Philimonova thấy rằng:
yếu tố dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp (…)
Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều hiện diện vết tích của các huyền thoại,
truyền thuyết dân ca, tục ngữ … [46; tr.59].

Với Văn Tâm, ông rút ra bốn nét đặc thù về phong cách Nguyễn Huy Thiệp bao
gồm: Sắc độ hiện đại thẫm; Cảm hứng huyền thoại mạnh; Tính nhiều tầng đa nghĩa;
Tính hệ thống mở có khẩu độ lớn.
Tác giả Trần Viết Thiện trong bài viết “Huyền thoại trong truyện ngắn đương
đại Việt Nam” có nhận định “sự thâm nhập của huyền thoại vào văn học viết là một
hiện tượng lạ” và ở mảng truyện ngắn sau năm 1986 “lại càng lạ hơn”. Thiết nghĩ,
vấn đề huyền thoại trong sáng tác văn học là một hiện tượng tất yếu bởi quá trình
tiếp thu những thành tựu của Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ La tinh những năm
60 thế kỉ XX, bởi xu hướng “vực dậy”, tiếp nối những sáng tác truyền kì trung đại
và các huyền thoại cổ vốn bắt rễ trong tâm thức dân tộc. Những yếu tố “nội sinh và
ngoại sinh” đã hình thành nên dòng truyện ngắn huyền thoại. Bài viết cũng phân
tích kiểu “nhại cổ tích” trong các sáng tác huyền thoại. Tuy nhiên, cần phải minh
định dấu vết của huyền thoại trong một số truyện cổ tích - “mảnh vỡ của huyền
thoại” (Meletinsky), và văn học Việt Nam đương đại đã tiếp biến, ứng xử với những
chất liệu cổ tích qua đó gợi nhắc/ám chỉ đến những motif, truyện cổ trong huyền
thoại như thế nào? Có những sáng tác “nhại cổ tích” nhưng lại không phải là sáng
tác huyền thoại. Điều này đã được tác giả Nguyễn Thị Như Trang nhấn mạnh:
Hành trình của tư duy huyền thoại đến với văn học dân gian chỉ dừng lại ở mức chi
phối và ảnh hưởng, không làm thay đổi đặc trưng thể loại. Văn học dân gian đặc biệt

10



là cổ tích, thực sự ‘là hình thức bảo lưu và hình thức vượt qua huyền thoại’ [Thi pháp
của huyền thoại, tr. 237] [74; tr.31].

Tác giả cũng nhấn mạnh những “yếu tố cần lí giải” trong sự tham gia của huyền
thoại vào “việc hình thành cấu trúc tự sự của văn học dân gian” như: những motif,
biểu tượng mang sắc màu/có nguồn gốc từ huyền thoại và tâm thế của huyền thoại
trong cái nhìn cuộc sống của cá nhân và xã hội” [74; tr.31].
Nguyễn Thái Hoàng trong bài viết “Không gian huyền thoại trong văn xuôi
Việt Nam đương đại” đã phân tích những thủ pháp xây dựng không gian huyền
thoại: kĩ thuật tái tạo các motif huyền thoại; khuynh hướng giải huyền thoại; Huyền
thoại hóa không gian hiện thực. Bài viết phân tích sơ lược các sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Danh Lam, Nhật Chiêu… Theo tác giả,
không gian huyền thoại trong văn xuôi Việt Nam đương đại
không chỉ là không gian của cõi âm, của giấc mơ mà còn là không gian của cái thực
bị biến dạng đi. Không gian huyền thoại ấy được xây dựng trên cơ sở cảm quan về
cái phi lí, thể hiện tâm thức về trạng thái hiện sinh nghiệt ngã, phi lí của con người
hiện đại. Trong không gian huyền thoại, cái bí ẩn, hoang đường đan xen với cái bình
thường, hiện thực khiến con người khó phân biệt thực - ảo, gây cảm giác bất an, hoài
nghi. Đời sống gần gũi hóa ra xa lạ bởi tính chất nghịch dị, bí ẩn và bất khả giải [28;
tr.82].

Tuy nhiên, như những “tầm đón đợi” gợi ra từ tiêu đề của bài viết ( Không gian
huyền thoại trong văn xuôi Việt Nam đương đại), tác giả bài viết đã không đi theo
hướng chỉ ra những kiểu loại không gian huyền thoại mà khởi đi từ việc chỉ ra các
thủ pháp xây dựng không gian huyền thoại. Theo chúng tôi, đứng từ góc độ thi
pháp, bài viết đã phân tích một cách khá rõ nét những kĩ thuật tái tạo không gian
huyền thoại trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Nhưng, xét từ góc độ bản chất, đặt
trong mối liên hệ với huyền thoại cổ Đông - Tây, bài viết thiếu sự gắn kết, logic
trong việc chỉ ra những đặc trưng của tư duy huyền thoại (biểu tượng, mô hình cấu

trúc đối lập nhị nguyên…) trong việc tác động đến cấu trúc không thời gian của
huyền thoại. Đặc điểm này của không thời gian huyền thoại chúng tôi sẽ phân tích
cụ thể hơn trong phần viết 2.2.1. Không gian theo cấu trúc đối lập nhị nguyên.

11


Triển khai theo hướng phân tích này phải kể đến bài viết của Thái Thị Hòa An
“Dấn ấn phương thức huyền thoại hóa của Franz Kafka trong sáng tác của Phạm Thị
Hoài” đăng trên tạp chí Khoa học Văn hóa và Du lịch, số 13, 2013. Tác giả đã phân
tích, đối sánh một cách thuyết phục những biểu hiện của phương thức huyền thoại
hóa trong sáng tác Thiên sứ của Phạm Thị Hoài với sáng tác của Franz Kafka trên
các phương diện: Tái tạo lại những motif trong thần thoại phương Tây; Nhại huyền
thoại, Huyền thoại hóa thế giới hiện thực [1].
Bài viết “Tìm hiểu “phương thức huyền thoại hóa” trong một số tiểu thuyết
Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Trần Thị Mai Nhân đăng trên www.khoavanhocngonngu.edu.vn đã khái quát một số đặc trưng của phương thức huyền thoại hóa
(tuy chưa thật hệ thống, lớp lang, thuyết phục) là: thủ pháp “huyền thoại, huyền ảo”
kết hợp với thủ pháp đồng hiện; mượn điển tích hoặc tạo ra những “huyền tích”
riêng dựa trên quá trình phân tích các tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm (Khôi
Vũ); Thiên sứ Phạm Thị Hoài và Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) [47].
Bên cạnh đó phải kể đến hệ thống luận văn được bảo vệ tại Khoa văn học,
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn: Biểu tượng như một phương thức
phản ánh của văn xuôi đương đại (qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Bình Phương, Hồ Anh Thái) (Trần Thị Hoài Phương, Luận văn Văn học, 2009);
Thời gian và không gian huyền thoại trong Trăm năm cô đơn của Gabriel García
Márquez (Nguyễn Thị Hảo, Luận văn Văn học, 2010); Huyền thoại trong tiểu
thuyết Cái trống thiếc của Gunter Grass (Nguyễn Thị Huyền Trang, Luận văn Văn
học, 2012); Huyền thoại trong Quà của Chúa của Dorota Terakowska (Nguyễn Thị
Thu Hường, Luận văn Văn học, 2013); Thi pháp huyền thoại trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp (Hoàng Thị Bích Thảo, Luận văn Văn học, 2014)… Các luận

văn trên tập trung tìm hiểu huyền thoại trên bình diện hình tượng thẩm mĩ (không
thời gian, nhân vật) [Nguyễn Thị Hảo, Hoàng Thị Bích Thảo, Nguyễn Thị Thu
Hường]; một số phương thức huyền thoại: Nhại truyền thuyết, Nhại tôn giáo, Tái
sinh cổ tích, Giải thiêng lịch sử [Hoàng Thị Bích Thảo]. Luận văn của Trần Thị
Hoài Phương tiếp cận sâu một số loại hình biểu tượng (biểu tượng thành thị, biểu

12


tượng nông thôn, biểu tượng về những cõi miền phi-thực-có-thực, biểu tượng giải
huyền thoại… Luận văn đã gợi mở nhiều luận điểm mới cho quá trình tham khảo
của người viết. “Điểm dừng” trong những nghiên cứu về huyền thoại, và phương
thức huyền thoại sẽ là “điểm bắt đầu” của chúng tôi trong luận văn này.
Hướng thứ hai, tiếp cận từ lí thuyết cổ mẫu. Khuynh hướng phê bình cổ mẫu
(Archetypal Criticism) được xem như một nhánh chủ lực của phê bình huyền thoại
(Myth Criticism) là bởi có một sự gắn kết không thể tách rời giữa cổ mẫu và huyền
thoại. Cổ mẫu cùng với ẩn dụ, biểu tượng đã trở thành những hạt nhân trung tâm,
phương tiện biểu đạt của huyền thoại. Cùng với khuynh hướng phê bình cổ mẫu mà
chúng tôi đã đề cập trong công trình của Đào Ngọc Chương còn có bài “Bí ẩn của
những siêu mẫu” (in trong sách Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật, S. Freud C.G. Jung - G. Bachelard - G. Tucci - V. Dundes) của nhà tâm phân học C.G. Jung.
Tiếp tục khuynh hướng đọc cổ mẫu trong văn học, tác giả Nguyễn Quang Huy
trong bài biết “Thử dẫn vào nghiên cứu văn học từ góc nhìn cổ mẫu (archétype)”
(Tạp chí Sông Hương, số 281, tháng 7/2012) đã minh định khái niệm “cổ mẫu” thuật ngữ vốn chưa ngã ngũ trong giới nghiên cứu. Đồng thời, tác giả chỉ ra những
tính chất của cổ mẫu: sự tham dự một cách tập trung và đậm đặc yếu tố cảm xúc;
mỗi cổ mẫu là một biểu tượng văn hóa vĩnh cửu chứa đựng chiều sâu tâm lí của cả
cộng đồng; cổ mẫu mang tính định hướng vì tạo ra cho con người những “kiểu loại
thái độ, những khung kinh nghiệm tri giác và cảm xúc nào đó…”; tính chuyển hóa
của cổ mẫu; tính siêu thời gian và không gian. Bài viết đậm đặc tính lí luận này
quan tâm đến mối liên hệ máu thịt giữa cổ mẫu với vô thức tập thể, biểu tượng và
mối liên hệ của chúng với motif và huyền thoại.

Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài viết “Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu
nước trong văn chương Việt Nam” (Nghiên cứu văn học Việt Nam những khả năng
và thách thức, Nxb Thế giới, 2009) dựa trên lí thuyết, quan niệm về phê bình cổ
mẫu của Carl Gustav Jung, Gaston Bachelard và Northrop Frye để khám phá cổ
mẫu Nước trong văn chương Việt Nam xuyên qua các sáng tác từ văn học dân gian
đến văn học thành văn, đặc biệt tập trung vào tác phẩm của các tác giả: Hồ Xuân

13


Hương, Trần Dần, Nguyễn Huy Thiệp. Ở trường hợp sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã chỉ ra sự hiện diện một cách đậm đặc của
cổ mẫu nước ở trạng thái phi hình và hữu hình.
Tiếp tục khuynh hướng “khai quật” những cổ mẫu phải kể đến bài nghiên cứu
ứng dụng lí thuyết cổ mẫu của Nguyễn Quang Huy “Những miền mơ tưởng mẫu
tính và nữ tính vĩnh hằng trong Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (một
tiếp cận từ lí thuyết Cổ mẫu)”. Bằng lối hành văn cũng đầy mơ mộng, sáng tạo,
Nguyễn Quang Huy đã phân tích một cách thuyết phục sự hiện diện đậm đặc của
“mẫu tính” và “nữ tính” trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn. Tác giả nhấn mạnh
một cách thuyết phục, hấp dẫn những đặc điểm của mẫu tính, nữ tính trong hư cấu
nhân vật, đồng thời, chỉ ra sự tái lặp triền miên những cổ mẫu/biểu tượng đôi vú,
trăng, rừng, hang, nước, sữa trong vai trò bồi đắp mẫu tính, nữ tính. Cùng với bài
“Thử dẫn vào nghiên cứu văn học từ góc nhìn cổ mẫu (archétype)” (Tạp chí Sông
Hương, số 281, tháng 7/2012), bài viết tiếp tục khơi mở một động hướng nghiên
cứu đem lại những khả năng mới cho nghiên cứu văn học Việt Nam.
Ngoài ra, phải kể đến một số luận văn nghiên cứu thành công hệ thống motif,
và vai trò của motif như một trong những cổ mẫu khởi nguyên, bền chặt của nhân
loại như: Mô típ “hành trình” trong Những linh hồn chết của N.V. Gogol (Trần Thị
Hồng Hoa, Luận văn Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội,
2008); Motip Kitô giáo trong Anh em nhà Karamazov của F. Dostoevsky (Trần Thị

Thanh Thủy, Luận văn Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội,
2009); Thơ Bùi Giáng dưới lăng kính phê bình cổ mẫu (Trần Nữ Phượng Nhi, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hồ Chí Minh, 2011).
Hướng thứ ba, tiếp cận từ phương diện thể loại, các tác giả đã nỗ lực nghiên
cứu những đặc trưng trong thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn huyền thoại, đồng thời
chỉ ra sự tác động của tư duy huyền thoại đến cấu trúc thể loại. Hai công trình
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Như Trang có giá trị tham khảo lớn cho người
viết: “Huyền thoại từ văn học dân gian đến tiểu thuyết tân huyền thoại thế kỉ XX Những biến đổi trong cấu trúc tự sự” (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4/2010);

14


Những đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết huyền thoại hiện đại qua Nghệ nhân và
Margarita của M. Bulgakov (Luận án Tiến sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, 2012). Với luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Thị Như Trang khẳng định sự hình
thành của dòng tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX, đề xuất khái niệm, đồng thời
phân biệt nó với những sáng tác có sự tham dự của yếu tố huyền thoại ở thế kỉ XIX.
Từ sự phân tích hệ thống liên văn bản, các bình diện thẩm mĩ, trần thuật, tác giả chỉ
ra sự tác động của tư duy huyền thoại lên cấu trúc trần thuật và xác định những đặc
điểm về phong cách văn xuôi Bulgakov. Có thể thấy, hướng nghiên cứu này hết sức
mới mẻ, nhiều triển vọng với đối tượng văn học Việt Nam. Đây cũng là một trong
những vấn đề mà luận văn quan tâm, tìm hiểu.
Hướng tiếp cận cuối cùng, đó là nghiên cứu sự triển diễn của huyền thoại
như một “siêu liên văn bản” trong hệ thống sáng tác nghệ thuật. Trong quá trình
thực hiện, chúng tôi đã chỉ ra một số huyền thoại (Trương Chi, Don Juan…) đã trở
thành chất liệu nghệ thuật dồi dào cho sáng tạo nghệ thuật của nhân loại. Vậy vấn
đề đặt ra, khi một/nhiều huyền thoại “đi vào”, “ngả bóng” nơi sáng tác nghệ thuật
(không riêng gì văn học), vậy cách triển khai, xử lí, tái tạo huyền thoại sẽ bộc lộ thái
độ ứng xử, tư tưởng của người nghệ sĩ. Mặt khác, nếu “xếp chồng” các sáng tác, soi
chiếu hệ thống huyền thoại, cổ mẫu, những điểm tương đồng nào xuất hiện như một

sáng tạo vô thức.
Nói chung, những hướng tiếp cận kể trên cùng quá trình minh họa từ một số
công trình tiêu biểu đã phần nào chứng minh hướng nghiên cứu huyền thoại có tính
năng động, triển vọng trong nghiên cứu văn học. Với sáng tác của ba tác giả thuộc
đối tượng nghiên cứu, vẫn cần có cái nhìn mang tính hệ thống, có chiều sâu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu “phương thức huyền thoại hóa”, chúng tôi hướng
đến việc chỉ ra sự tham dự, phóng chiếu của huyền thoại, sự xâm lấn của tư duy
huyền thoại vào tư duy văn xuôi, hình thành nên những khuynh hướng sáng tác
huyền thoại mới.

15


Để làm sáng rõ phương thức huyền thoại hóa trong văn xuôi Việt Nam đương
đại chúng tôi chọn lựa sáng tác của ba tác giả đương đại: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh. Những sáng tác được khảo sát chủ yếu trong luận
văn này là: hai tiểu thuyết Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Mẫu thượng ngàn
(Nguyễn Xuân Khánh) và các truyện ngắn Chảy đi sông ơi, Muối của rừng, Con
gái thủy thần, Mưa, Vàng lửa, Mưa Nhã Nam, Những ngọn gió Hua Tát, Như
những ngọn gió… (Nguyễn Huy Thiệp)… Tất nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng,
nên đối tượng nghiên cứu đã nêu ở trên chưa thể giúp bao quát, triển diễn hết được
sự phong phú, sinh động của huyền thoại và phương thức huyền thoại. Vì thế, khi
cần thiết, chúng tôi sẽ khảo sát thêm một số sáng tác văn xuôi đương đại khác.
Chúng tôi ý thức rằng, việc luận bàn, nghiên cứu vấn đề huyền thoại dù chỉ
khuôn trong văn học, cũng thực sự là một phạm vi nghiên cứu rộng mở. Do vậy,
luận văn chỉ tập trung chủ chốt vào “phương thức huyền thoại hóa” - một trong
những phương diện của huyền thoại. Cụ thể hơn, nhìn từ góc độ kĩ thuật sáng tác,
“huyền thoại hóa” chính là kĩ thuật, thủ pháp nổi bật của văn xuôi Việt Nam đương
đại. Tuy nhiên, chúng tôi còn quan tâm đến quá trình “đi vào”, cơ chế xâm lấn, tái

tạo của huyền thoại vào văn chương thông qua các huyền thoại cổ, motif, cổ mẫu,
biểu tượng. Từ bình diện hình tượng thẩm mĩ (nhân vật, không thời gian…) chúng
tôi nghiên cứu sự ảnh hưởng của huyền thoại/tư duy huyền thoại trong sáng tác văn
chương đương đại. Luận văn cũng tập trung nghiên cứu những phương thức tái tạo
huyền thoại cổ thành những huyền thoại văn chương (cá nhân), tân huyền thoại: sự
tái tạo, hòa trộn những motif, điển tích; giễu nhại/giải huyền thoại; xu hướng giải
thiêng huyền thoại.
Phạm vi nghiên cứu kể trên chỉ mới chạm đến một vài vấn đề nhỏ hẹp của
huyền thoại, chúng tôi coi đây là những bước khởi đầu cho một đường hướng
nghiên cứu dài hơi hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu (phương thức huyền thoại hóa), luận văn
sử dụng các phương pháp và thao tác khoa học sau:

16


Về mặt phương pháp luận, chúng tôi sử dụng kết hợp đồng thời các công cụ lí
thuyết sau: Phê bình huyền thoại, Trần thuật học, Kí hiệu học, Liên văn bản…
Về mặt thao tác khoa học, nhằm chỉ ra sự đối sánh giữa “huyền thoại gốc” và
sự biến đổi, tái tạo thành các tân huyền thoại, chúng tôi cũng sử dụng các thao tác
khoa học để biện giải, phân tích vấn đề như: so sánh, đối chiếu, thống kê, phân
loại, khảo sát văn bản…
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung
luận văn gồm có các chương sau:
Chương 1: Huyền thoại hóa và một số phương thức biểu hiện của văn
xuôi Việt Nam đương đại.
Chương 2: Phương thức huyền thoại hóa từ bình diện hình tượng thẩm mĩ.
Chương 3: Một số phương thức, khuynh hướng tái tạo huyền thoại:

huyền thoại cổ điển, tân huyền thoại.

17


CHƯƠNG 1: HUYỀN THOẠI HÓA VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC
BIỂU HIỆN CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Huyền thoại và phê bình huyền thoại
1.1.1. Huyền thoại
Thuật ngữ huyền thoại (Myth), phương thức huyền thoại hóa (Mystification)
không xa lạ với giới khoa học ngữ văn. Trong cuộc sống, chúng ta nghe thấy/hoặc
dùng từ “huyền thoại” rất nhiều nhưng trong cách dùng đã có nhiều sai khác hoặc
mới lạ so với nghĩa từ nguyên của huyền thoại 1. Huyền thoại - một thuật ngữ có nội
hàm khái niệm rộng mở và không ngừng được bồi đắp, sản sinh nghĩa đang ngày
càng trở nên phức tạp không chỉ ở những hướng nghiên cứu về nó mà ngay từ bản
thân mỗi cách hiểu khác nhau về huyền thoại biến thiên theo từng giai đoạn. Đúng
như những gì Gilbert Durand và Simone chỉ ra trong hội thảo Huyền thoại và cái
huyền thoại:
Hiện nay có sự lạm phát trong sử dụng thuật ngữ huyền thoại, và sự nhập nhằng của
thuật ngữ cái huyền thoại” [79; tr.300].

Tác giả Richard Chase, trong bài luận “Ghi chú về nghiên cứu huyền thoại” (Notes
on the Study of Myth) đã nhấn mạnh tình trạng huyền thoại bị “khuếch tán và mơ
hồ trong văn hóa của chúng ta” thay vì “trong văn hóa nguyên thủy, huyền thoại là
một phạm vi hoạt động có thể được định nghĩa một cách tương đối rõ ràng” [82].
Huyền thoại đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều học giả, là đối tượng
của nghệ thuật, chất liệu sáng tác của nghệ sĩ các thời đại. Không chỉ có thế, ở mỗi
hướng tiếp cận, lại có những cách hiểu khác nhau về huyền thoại. Nỗ lực nắm bắt,
khái quát thuật ngữ này cũng khó khăn, phức tạp như chính những cách hiểu về nó.
Bởi vậy, trong bài viết “Những diễn ngôn về huyền thoại”, tác giả Johan Degenaar

đã phân tích ba diễn ngôn cơ bản về huyền thoại: tiền hiện đại (premodern), hiện đại
(modern) và hậu hiện đại (posmodern) [83]. Để thấy được sự phức tạp trong quá
trình diễn giải, ứng dụng huyền thoại, chúng tôi đưa ra một vài những định nghĩa về
huyền thoại như sau:
1

Trong cách nói thông thường, chúng ta thường dùng “huyền thoại” để chỉ sự đánh giá một nhân vật, hiện
tượng hay sự kiện mà nó không có thật hoặc đạt đến mức kinh ngạc, thán phục. Ví dụ như: Huyền thoại
Phạm Văn Đồng, Huyền thoại Điện Biên Phủ, Cú sút huyền thoại…

18


Từ điển Encyclopædia Britannica2 có định nghĩa: Huyền thoại là:
một câu chuyện mang tính biểu tượng, thường không rõ nguồn gốc và ít nhất là một
phần nào đó truyền thống, nó có vẻ kể lại những sự kiện có thật và đặc biệt liên kết
với niềm tin tôn giáo. Nó được phân biệt từ những hành vi mang tính biểu tượng (thờ
cúng, nghi lễ) và những địa điểm hoặc vật thể mang tính biểu tượng (đền miếu,
tượng thánh). Huyền thoại miêu tả cụ thể về những vị thần hoặc những siêu anh hùng
có liên quan đến những sự kiện hoặc tình huống phi thường trong một thời gian
không xác định nhưng lại được ngầm hiểu như đang tồn tại tách rời kinh nghiệm con
người bình thường. Thuật ngữ huyền thoại học chứng tỏ cả nghiên cứu về huyền
thoại và những huyền thoại thuộc về một truyền thống tôn giáo riêng biệt” [84].

Nhóm tác giả công trình Từ điển thuật ngữ văn học đồng nhất giữa hai khái
niệm “huyền thoại” và “thần thoại”, “huyền thoại học” và “thần thoại học”. Thần
thoại là
thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch sử truyện kể dân gian các dân
tộc. Đó là toàn bộ những truyện hoang đường, tưởng tượng về các vị thần hoặc
những con người, những loài vật mang tính chất thần kì, siêu nhiên do con người thời

nguyên thủy sáng tạo ra để phản ánh và lí giải các hiện tượng trong thế giới tự nhiên
và xã hội theo quan điểm vạn vật có linh hồn (hay thế giới quan thần linh) của họ”
[26; tr.298].

Đứng từ quan điểm khác so với các tác giả của công trình Từ điển thuật ngữ
văn học, tác giả A.A. Radugin trong công trình Từ điển bách khoa văn hóa học lại
đưa ra một cách hiểu khác về huyền thoại:
Huyền thoại - biện pháp tồn tại và nhận thức thế giới của con người, dựa trên sự kết
nối con người với thế giới, khi con người chưa phân biệt được ý nghĩa tâm linh của
đồ vật với tính chất khách quan của chúng, và coi các hiện tượng thiên nhiên là
những thứ có hồn” [58; tr.203].

2

Từ điển Encyclopædia Britannica Ultimate Reference Suite định nghĩa: “a symbolic narrative, usually of
unknown origin and at least partly traditional, that ostensibly relates actual events and that is especially
associated with religious belief. It is distinguished from symbolic behaviour (cult, ritual) and symbolic places
or objects (temples, icons). Myths are specific accounts of gods or superhuman beings involved in
extraordinary events or circumstances in a time that is unspecified but which is understood as existing apart
from ordinary human experience. The term mythology denotes both the study of myth and the body of myths
belonging to a particular religious tradition.”

19


Huyền thoại là hình thái văn hóa đầu tiên trong lịch sử, bổ sung cho sự chưa có khả
năng chế ngự vật chất bằng thực hành, bằng cách dùng óc tưởng tượng quan hệ với
vật chất” [58; tr.204].

Xét từ lí thuyết kí hiệu học, Roland Barthes lại cho rằng:

thần thoại là hệ thống kí hiệu thứ hai (second order semiological system) hay siêu
ngôn ngữ (metalanguage). Nó là ngôn ngữ thứ hai mà nói về ngôn ngữ ở cấp độ thứ
nhất. Kí hiệu học của hệ thống thứ nhất (cái biểu đạt và cái được biểu đạt) mà sinh ra
ý nghĩa ngoại biểu, trở thành cái biểu đạt cho trật tự thứ hai của ý nghĩa nội hàm”
[10; tr.118]

Sự phong phú về định nghĩa huyền thoại cho thấy với mỗi hướng tiếp cận sẽ
có những cách hiểu, quan niệm khác về huyền thoại. Chúng tôi đưa ra một số vấn
đề xung quanh thuật ngữ huyền thoại ngõ hầu xác định hướng giải quyết một số vấn
đề đặt ra trong luận văn như sau:
Thứ nhất, “huyền thoại” (tiếng Anh: Myth; tiếng Pháp: Mythe) có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp là “Mythos” (μῦθος)3. Xét về mặt từ nguyên học (Etymology)
Mythos (μῦθος) trên www.en.wiktionary.org4 được hiểu là “lời, lời nói, câu chuyện,
là truyền thuyết, truyền thoại”. Thêm nữa, từ điển Wiktionary cho biết, huyền thoại
(myth) đồng nghĩa với thuật ngữ “fabula” 5 (truyện ngụ ngôn, chuyện hoang đường,
bịa đặt, không có thật…), đây cũng chính là sự trùng lặp cơ bản trong cách hiểu về
huyền thoại ở hầu hết các nhà nghiên cứu. Tác giả Phùng Văn Tửu trong bài viết
“Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học” cho rằng, “mythos là lời nói
(thoại) mơ hồ tối nghĩa (huyền), cần phải giải mã mới tìm ra được ẩn ý” [79; tr.300].
Quan điểm này có lẽ được hình thành dựa trên chính ý kiến của nhà sử học Hy Lạp
thời cổ là Hérodote đã phân biệt giữa “mythos” và “logos” 6. “Mythos” kể những
câu chuyện hoang đường không có thật và nó cũng không nỗ lực trong việc chứng
3

Căn cứ này chúng tôi tham khảo trên trang: /> />5
“Fabula” vốn là tiếng Latin, tiếng Anh có nghĩa là “Fable” mượn từ tiếng Pháp cổ.
6
Về thuật ngữ Logos có thể tham chiếu một cách định nghĩa tương tự trong Từ điển bách khoa văn hóa học:
(Chủ biên G.S. A.A. Radugin; người dịch: Vũ Đình Phòng), “Thuật ngữ của triết học Cổ Hy Lạp, trong đó
lồng ghép hai nghĩa, một là “ngôn ngữ” với tính chất hình thức bên ngoài của sự vật, hiện tượng, quá trình,

hai là “ý nghĩa” của nó. Khái niệm “logos” phản ánh hoạt động của tư duy, phân tích của trí óc nhằm đưa thế
giới vào trật tự, hài hòa. Theo nghĩa này, tính lô gich đối lập với tính huyền thoại và đồng nghĩa với tính lí
trí” (Tài liệu lưu hành nội bộ, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, tr. 281).
4

20


minh câu chuyện đó là thật, chỉ đơn giản là không thực tế, vì vậy thường được cho
là dối trá, sai lầm, lầm lạc đối lập với “logos” - bởi câu chuyện đó có thể chứng
minh được. Cụ thể hơn, theo cách hiểu của chúng tôi, “mythos” là hình thái tư duy
tiền logic, thế giới “tinh thần”, “khoa học” của người nguyên thủy và “logos” là
hình thái đối lập với “mythos”, nghĩa là có sự xuất hiện của nhà nước, giai cấp, của
khoa học theo nghĩa hiện đại.
Như vậy, nghĩa ban đầu của huyền thoại là các truyện kể thiêng liêng có
những yếu tố siêu nhiên, hoang đường giải thích sự hình thành và tồn tại của thế
giới, con người, sự ra đời của những vị thần... bằng các hình thức ẩn dụ, cổ mẫu,
biểu tượng đầy sức gợi. Huyền thoại mang tính phổ quát, tính vĩnh cửu. Chính từ
những đặc điểm này, mà huyền thoại thường bị nhầm lẫn/rất khó phân biệt với cái:
hoang đường; kì ảo; kì dị;... Những yếu tố vừa nêu trên có một sự gần gũi rất lớn
với huyền thoại. Hay nói chính xác hơn, ở một/hệ huyền thoại thường bao gồm
những yếu tố đó. Dĩ nhiên, đây là cách hiểu xa xưa về huyền thoại cổ. Những huyền
thoại hiện đại không chỉ dừng lại ở việc phản ánh về tự nhiên, thần thánh… mà còn
là những ẩn dụ về thân phận con người. Vậy đâu là điểm khu biệt giữa hai kiểu sáng
tác: huyền thoại, sử dụng yếu tố huyền thoại với sáng tác có các yếu tố nêu trên?
Tác phẩm phải có liên hệ sâu sắc từ sự gợi nhắc, ám chỉ đến việc tái tạo, hoán cải
các yếu tố, thành phần, hoặc cả huyền thoại trong kho tàng các huyền thoại cổ. Đó
là khi nhà văn kiến tạo nên những huyền thoại văn chương, những huyền thoại hiện
đại dựa trên những huyền thoại gốc (monomyth) - huyền thoại nguyên mẫu, gắn
liền với những vấn đề đương đại.

Trong quan điểm của một số nhà nghiên cứu, huyền thoại và thần thoại là hai
thuật ngữ tương đồng: Lại Nguyên Ân [5]; nhóm tác giả công trình Từ điển thuật
ngữ văn học: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi [26]… Mặt khác, sự
phân biệt giữa hai khái niệm này đã được phân tích trong một số công trình như:
Phê bình huyền thoại (Đào Ngọc Chương) [15]; “Sáng tác huyền thoại trong tiểu
thuyết hiện đại phương Tây” (Trần Hinh, in trong Những vấn đề mới trong nghiên
cứu và giảng dạy văn học) [37]; chương 1 “Thần thoại” (phần viết của Vũ Anh

21


Tuấn) in trong Giáo trình văn học dân gian [77]; thậm chí trong cuốn Từ điển văn
học (bộ mới) [50] tồn tại song song hai thuật ngữ Huyền thoại (Đỗ Đức Hiểu viết từ
trang 668 - 669) và Thần thoại (Chu Xuân Diên viết từ trang 1647 - 1648)… Mặt
khác, trong lời tựa cuốn Từ điển huyền thoại (Nxb Rocher, 1988) nhà nghiên cứu
Pierre Brunel còn chỉ ra sự nhập nhằng trong cách gọi “huyền thoại” và “truyền
thuyết”: “về thuật ngữ, luôn có một sự mập mờ mà chắc chắn chúng ta không bao
giờ xóa hết” [36; tr.23]. Tác giả Vũ Anh Tuấn, ở phần so sánh giữa “thần thoại” và
“huyền thoại” lại cho rằng giữa hai thuật ngữ này hết sức khác biệt bởi “huyền thoại
về cơ bản và giản yếu mà nói thì đó chính là nghệ thuật thần thoại (chúng tôi nhấn
mạnh) ở thời kì đã tự phát định hình một cung cách sáng tạo, một thủ pháp đặc
trưng (…) được người đời sau tiếp tục kế thừa, phát triển và hoàn thiện thành một
phương pháp sáng tạo nghệ thuật ở nhiều loại hình khác nhau…” [77; tr.45]. Không
xuất phát từ góc độ nghệ thuật để lí giải, tác giả Nguyễn Thị Bích Hà trong Giáo
trình văn học dân gian (Nxb Đại học Sư phạm) cho rằng “huyền thoại chính là thần
thoại buổi đầu được tiếp tục phát triển lên và tồn tại đến tận thời hiện đại” [25;
tr.21]. Rõ ràng, thần thoại (truyền thoại), truyền thuyết, truyện cổ tích… là những
thể loại đã ổn định của văn học dân gian, đồng thời, phạm vi của nó hạn hẹp hơn so
với huyền thoại bởi nó gắn với việc giải thích, liên quan đến một địa điểm, nhân
vật, sự kiện, câu chuyện thuộc về lịch sử hoặc sự tích về các thánh, thần 7. Thuật ngữ

“thần thoại” ngay từ tên gọi đã gợi nhắc đến yếu tố “thần” với tính chất siêu nhiên,
kì bí, hoang đường, ma quái. Rõ ràng, biên độ ngữ nghĩa của “huyền thoại” rộng
mở hơn rất nhiều so với “thần thoại”, bởi nó bao quát những vấn đề thuộc về lịch
sử, tự nhiên, con người và cả thánh thần. Huyền thoại không chỉ phản ánh những
điều linh thiêng huyền bí, câu chuyện về các vị thần, sự ra đời của thế giới mà còn
nhằm giải thích về nó đồng thời đi đến việc kiến tạo nên những cổ mẫu, biểu tượng

7

Ví dụ như truyền thuyết Thánh Gióng với những yếu tố thần kì là biểu tượng cho tình thần, ý thức bảo vệ
đất nước, đồng thời thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân dân về người anh hùng cứu nước chống giặc
ngoại xâm trong buổi đầu của lịch sử; truyền thuyết Sự tích hồ gươm giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm đồng
thời ca ngợi tính chất chính nghĩa và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh
xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo ở đầu thế kỉ XV…

22


nghệ thuật có sức khái quát và ám gợi lớn thông qua những “hằng số” cổ mẫu ẩn
chứa trong mỗi huyền thoại.
Thứ hai, xét từ yếu tố vai trò, chức năng thì huyền thoại là “dạng thức văn hóa
đầu tiên trong lịch sử” (A.A. Radughin) [59; tr.227]; “chất liệu khởi thủy từ đó sinh
ra mọi thứ”, “thế giới của những hình tượng khởi thủy”; “là vật chất nguyên sơ, từ
đó nảy sinh ra mọi cái” (Schelling) [45; tr.10]; “trạng thái đầu tiên của cái mà về sau
sẽ được gọi bằng “ý thức xã hội” của một cộng đồng người - một cộng đồng dân tộc
hoặc “liên dân tộc”” (Lại Nguyên Ân) [5; tr.59], là mô hình đầu tiên của mọi hệ tư
tưởng, là cái nôi nguyên hợp của các loại hình văn hóa khác nhau; “cái mang tải
kinh nghiệm nhân loại đặc biệt quan trọng, quý giá đối với mọi thời đại” (Jung);
“thể loại lâu đời nhất, tồn tại trong cái thời gian đầu tiên là lúc mà những khu biệt
thể loại chưa có, lúc mà sự phân cách giữa con người và tự nhiên chưa thực sự xảy

ra” (Đào Ngọc Chương) [15; tr.20]… Có thể thấy, không ít nhà nghiên cứu đã dành
những lời đánh giá đầy trân trọng đối với huyền thoại bởi chính “huyền thoại là sự
sống đã nảy mầm thành văn chương” [82]. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những
cách nhìn khác/cảnh báo về tính chất mơ hồ, giả dối của huyền thoại chính trị/tôn
giáo - thứ huyền thoại dựng nên những câu chuyện khiến người ta mê lú nhằm phục
vụ cho những lợi ích chính trị/ý đồ riêng8. Vì vậy, xét từ một phương diện nhất định,
giải huyền thoại cũng chính là quá trình giải ý thức hệ (ideology) sâu sắc.
Thứ ba, đối tượng của huyền thoại được nghiên cứu trong luận văn là những
huyền thoại văn chương, huyền thoại hiện đại. Ở đó, tác giả đã cải biên, tái sinh,
quy chiếu về/từ huyền thoại cổ trong kho tàng huyền thoại dân tộc, huyền thoại
Đông - Tây để tạo nên những huyền thoại mới - hiện đại. Huyền thoại cổ phản ánh
bằng một hệ thống năng động, ý nghĩa những cổ mẫu, biểu tượng, là những truyện
kể ra đời trong thời đại nguyên sơ giải thích về sự ra đời của thế giới, câu chuyện về
các vị thần, bán thần, con người. Còn những huyền thoại mới lại không ngừng quy
chiếu về huyền thoại cổ hoặc được sáng tạo hoàn toàn mới, dù theo cách nào đi
8

Ở Việt Nam có khá nhiều những “huyền thoại chính trị” kiểu dạng này. “Huyền thoại” Lê Văn Tám được
Trần Huy Liệu bịa ra để gợi nhớ đến huyền thoại người anh hùng làng Gióng, nhằm “tuyên truyền, cổ vũ tinh
thần chiến đấu của quân dân ta”. Luận điểm này chúng tôi sẽ phân tích cụ thể hơn ở phần viết 3.2.2.1. Giải
huyền thoại về lịch sử, chính trị.

23


×