Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tổng hợp Top 4 Thuyết minh về dân ca Quan họ Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.82 KB, 11 trang )

Nhằm đem đến cho các bạn học sinh lớp 10 có thêm nhiều tài liệu học tập môn Ngữ
văn, Download.com.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết minh về dân ca Quan họ
Bắc Ninh.
Tài liệu bao gồm 5 bài văn mẫu thuyết minh về dân ca Quan họ Bắc Ninh được chúng
tôi tuyển chọn từ các bài văn mẫu hay nhất của học sinh trên toàn quốc. Hi vọng với tài
liệu này, giúp các bạn có thêm nhiều ý tưởng, gợi ý cho việc hoàn thiện bài văn của riêng
mình, để chuẩn bị bài ở nhà và làm bài tốt trên lớp. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm bài
văn mẫu thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam, thuyết minh chiếc bút chì để có thêm
nhiều tài liệu học tập. Mời các bạn cùng tham khảo.
Thuyết minh về dân ca Quan họ Bắc Ninh - Mẫu 1
Một trong những niềm tự hào của người Kinh Bắc là Hội Lim. Trong Hội Lim thứ "đặc
sản" tuyệt vời nhất là những làn điệu quan họ. Những làn điệu dân ca quan họ trữ tình,
mượt mà, da diết, ngọt ngào ấy được trình tấu bởi những liền anh, liền chị lịch lãm mà
không kém phần duyên dáng. Cứ thế, dân ca quan họ đi vào lòng người và trở thành phần
hồn, thành món ăn tinh thần của con người, thành nét văn hóa rất riêng của vùng đất kinh
kì xưa.
Dân ca quan họ Bắc Ninh được hình thành khá lâu đời, do cộng đồng người Việt (Kinh) ở
49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh. Bắc Giang hiện nay của
Việt Nam sáng tạo ra. Các làng quan họ nằm hai bên bờ sông Cầu, cách thủ đô Hà Nội về
phía bắc khoảng 30km. Dân ca quan họ là hát đối đáp nam, nữ. Họ hát quan họ vào mùa
xuân, mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp
nam của làng với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. Cặp hát phân
công người hát dẫn, người hát luôn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một
giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện
tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo. Có bốn kỹ thuật hát đặc trưng: Vang, rền,
nền, nảy. Hát quan họ có ba hình thức chính Hát canh, hát thi lấy giải, hát hội. Hát quan
hệ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ, tục "ngủ bọn". Mặc dù các


phong tục này không, được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dân các làng
quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.


Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị.
Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ. Liền anh mặc áo dài
năm thân, cô đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc
một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen,
chất liệu là lương, hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen,
cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn,
lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh gọi là áo kép.
Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân,
chất liệu may quần cũng bằng điểm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa màu mỡ gà. Có thắt
lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước,
đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt
tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.
Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy". Tuy nhiên trong thực tế các
liền chị thường mặc áo mớ bảy. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong
cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa nhuộm. Bên ngoài yếm là một
chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối
màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân
của nữ, có cả khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu để may áo đẹp nhất
thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non,
màu đen, màu cánh dán, áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau màu cánh sen, màu
hoa hiên, màu thiên thanh, màu hổ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm. Áo cánh mặc
trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mồi gà. Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là
yếm thắm), vàng thư (hoa hiên, xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hổ thủy
(xanh biến). Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt
múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng
với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước con gái. Liền chị
mặc váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu,


lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là

không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp
sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên
chớm phía gót chân. Dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công, mũi
dép uốn cong như một lá chắn nhỏ, che dấu đầu các ngón chân. Ngoài áo, quần, thắt dép,
người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng tích.
Hiện nay vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng về thời điểm ra đời của Dân quan ca họ trong
lịch sử. Có thể nghĩ rằng Dân ca quan họ phát triển đến đỉnh cao giữa thế kỉ XVIII, Chủ
nhân của quan họ là những người nông dân Việt (Kinh), chủ yếu sống bằng nghề trồng
lúa nước. Mỗi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng lễ hội
làng, nơi mà người dân thờ thành hoàng, nữ thần, một đôi trường hợp là tín ngưỡng phồn
thực. Trong số các hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh) vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất.
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt
Nam. Mỗi một bài quan họ có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ
đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân
ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi lại hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ
nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và
Bắc Ninh. Các làn điệu quan họ cố bao gồm: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo,
Giã bạn, Hừ la, Ca bời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Gió mát trăng thanh, Tứ
quý.
Quan họ truyền thống chi tồn tại ở 49 làng quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền
thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với
những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu
chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý người dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan
họ", không phải là "hát Quan họ". Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu
hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỷ ở các làng quê. Trong quan
họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả


cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ.

"Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người
thường thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát).
Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan hệ" ưa thích
đến tận ngày nay như La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo. Sinh hoạt văn hoá
Quan họ của liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Cuộc
hát Quan họ được xem là Canh hát chính thống thường phải tuân thủ đủ trình tự các
chặng: lề lối, giọng vặt và giã bạn. Trong ba chặng hát: Lề lối, Giọng vặt, Giã bạn - mỗi
giai đoạn đểu có những biểu hiện khác biệt ở phần nội dung cũng như hình thức cấu trúc
bài bản. Lề lối là bài Quan họ cổ, thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản có nhiều tiếng
đi lời phụ. Người hát những bài Quan họ Lề lối phải biết kỹ thuật hát vang, nền, nảy,
ngắt, rớt mới có thể thực hiện tốt và "đúng chất" Quan họ.
Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát quan họ chủ yếu
trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà
hàng,... Thực tế quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ
mới luôn có khán thính người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình
cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã
vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới. Quan họ
mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát
đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, cải biên các bài bản truyền thống. Hát quan họ với lời
mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài
"Sông Cầu nước chảy lơ thơ" do Môn Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống "Nhất
quế nhị lan".
Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác phương thức truyền
khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan hệ trở thành một loại hình dân ca có
số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã
làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn
so với bản gốc nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan


họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào

Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc
làm cấp thiết. Từ những năm 70 của Thế kỷ trước, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành sưu
tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm các dị bản đã được ghi âm tại các làng
quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân (Đến nay hầu hết đã ra đi). Khoảng 300
bài Quan họ hay nhất được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn
bài Quan họ đã được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực
kỳ cẩn thận để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau. Quan họ đã được Ủy
ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng
công bố là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.
Dù trải qua nhiều thăng trầm, ngày nay quan họ vẫn tồn tại và được nâng niu, giữ gìn.
Trong tương lai, chắc hẳn quan họ tiếp tục đồng hành cùng con người, tạo nét riêng, nét
đẹp văn hoá của xứ Kinh Bắc và cả dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về dân ca Quan họ Bắc Ninh - Mẫu 2
Người Việt ta luôn tự hào là "Đất nước ngàn năm văn hiến" với sự giao thoa của nhiều
nền văn hoá. Dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng ách thống trị của thực dân Pháp, nền
văn hoá của ta đã tiếp thu những giá trị văn hóa mới nhưng vẫn giữ lại được nét tinh hoa
của dân tộc, để từ đó sáng tạo nên những loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc, mang lại
giá trị to lớn cho nền văn hoá Việt. Dân ca quan họ Bắc Ninh chính là một trong những
loại hình nghệ thuật ấy, nó có sức lan tỏa mạnh mẽ lay động người nghe bằng những câu
hát giao duyên dịu dàng mà đằm thắm ân tình xứ Bắc.
Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Hồng thuộc
miền Bắc nước ta, được hình thành từ rất lâu đời ở vùng Kinh Bắc xưa, chủ yếu là thuộc
hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh với con sông Cầu chảy ngang. Theo các nhà nghiên cứu
khoa học Quan họ có từ thế kỷ thứ XVII, được bắt nguồn từ tục kết chạ giữa bà con lối
xóm. Cái tên "Quan họ" có thể thể hiểu theo truyền thuyết có một ông quan trong lần qua
xứ Kinh Bắc, vô tình nghe được và lấy làm say mê những câu hát ngọt ngào của các liền
anh, liền chị, những người cùng có sở thích ca hát dòng nhạc này và người ta gọi là đó


một"họ". Nhưng cách giải thích này cũng chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó, ngoài ra còn

rất nhiều cách lý giải khác liên quan đến nếp sinh hoạt văn hóa và chế độ thời bấy giờ.
Dân ca Quan họ là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ, là hình thức trao đổi bày tỏ
tâm tư, tình cảm giữa liền anh và liền chị.Họ dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt
mà sâu lắng để bộc lộ cảm xúc trong tâm hồn mình. Những làn điệu Quan họ truyền
thống thường được hát vào mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong
năm, khi ấy câu hát Quan họ nhộn nhịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới, làm thổn thức
biết bao trái tim người yêu nghệ thuật. Thông thường quan họ phổ biến lối hát đối đáp
giữa trai và gái, có thể cùng một làng hoặc khác làng, cái khó là ở chỗ cùng một giai điệu
nhưng người hát phải tự tìm lời phù hợp để đối qua đối lại, tạo thêm phần hấp dẫn và
không bị nhàm chán, ấy là điểm đặc sắc mà không phải ai cũng hát được. Các đôi nam nữ
cất lên những câu hát dạt dào cảm xúc, lắng đọng tâm tình, đó có thể là những câu hát
được lấy từ lời thơ, lời ca dao trong sáng, ý nhị.Quan họ là thể loại nhạc trữ tình nên cách
hát và luyến láy được trau chuốt rất kỹ càng, gồm nhiều kỹ thuật sao cho âm điệu vừa
vang, rền lại vừa nền, nảy, nghe như rót mật vào tai, vô cùng ngọt ngào tình cảm, như
dòng chảy mượt mà của con sông Cầu - "dòng sông Quan họ". Hát quan họ có ba hình
thức phổ biến nhất là hát canh, hát phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể
loại đều có nét đặc sắc và dấu ấn riêng.
Trang phục cũng là một điểm nổi bật trong nghệ thuật Dân ca Quan họ, các liền anh liền
chị khoác lên mình những bộ quần áo rực rỡ sắc màu tôn lên vẻ đẹp thanh lịch, quý phái
của người con Kinh Bắc. Về phía nam, các liền anh khoác lên mình tấm áo dài mỏng
thẫm màu, bên trong là áo trắng cùng quần lĩnh trắng, ống rộng, phẳng phiu, đầu đội khăn
xếp, tay có thể cầm quạt hoặc cầm chiếc dù đen, càng tăng thêm vẻ đĩnh đạc, truyền
thống đậm chất văn hóa vùng Kinh Bắc. Trang phục liền chị cầu kỳ và tỉ mỉ hơn các liền
anh rất nhiều, các chị sẽ mặc những bộ áo mớ ba mớ bảy nhiều màu sắc sặc sỡ như đỏ,
vàng, xanh phối cùng với chiếc thắt lưng hoa đào, chít tóc bằng khăn mỏ quạ, đầu đội
nón quai thao trắng, hoặc cầm ở tay, cho thêm phần duyên dáng, thướt tha. Những câu hát
bay bổng, da diết, ngọt ngào kết hợp với trang phục đặc biệt như vậy đã làm tăng thêm vẻ
đẹp cho những người hát giao duyên.



Quan họ là một loại hình văn hóa đặc sắc, vẫn còn được phát triển cho đến ngày nay, ở nó
còn lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa, nhưng đến hiện tại đã được những người
tiếp nối phát triển và sáng tạo ra những cái mới để quan không bị lạc hậu so với thời
đại.Quan họ được xem là dòng nhạc dân ca trữ tình có nguồn giai điệu phong phú và đa
dạng nhất ở Việt Nam, tính cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được khoảng 300 bài quan
họ có giai điệu khác nhau và được ghi chép thành các bản nhạc, ngoài ra còn có rất nhiều
các giai điệu không được ký âm chính thức mà chỉ được truyền miệng từ đời này qua đời
khác. Các làn điệu quan họ truyền thống phải kể đến là: Đường bạn Kim Loan, Cây gạo,
La hời, Tình tang. Hát Quan họ bao giờ cũng có ba chặng, chặng mở đầu thuộc giọng lề
lối, khi hát xong khoảng mười bài giọng lề lối người hát chuyển sang giọng sổng để tiếp
vào chặng giữa, các bài ở chặng giữa là ở giọng vặt, chặng cuối là giọng giã bạn. Làn
điệu quan họ là những tiếng hát thân tình, ngọt ngào mềm mại, người hát luôn trong trạng
thái say mê, vui thú, chăm chút thổi hồn vào tình câu chữ khiến cho âm hưởng của toàn
bài luôn vang vọng và thấm đẫm vào tâm hồn những người thưởng thức, khiến ta phải
trầm trồ, thán phục trước sức hút của thứ dân ca truyền thống, và cũng khá kén người
nghe này.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã chính thức được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đây là một điều đáng mừng, là
nguồn động lực để dân ca Quan họ tiếp tục phát triển và ghi lại những dấu ấn truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, như một nét đẹp văn hóa đặc sắc của Việt Nam.Ngày nay cùng
với sự phát triển của đất nước, Quan họ không còn bị bó hẹp trong không gian làng, xã
mà nó đang dần lan tỏa khắp mọi miền đất nước, trở thành nét văn hoá đặc sắc và là niềm
tự hào của người dân Việt Nam.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh quả là một tài sản vô giá của dân tộc, nó cần nuôi dưỡng bảo
tồn, phát huy và lưu truyền cho thế hệ trẻ mai sau.Mỗi chúng ta người con đất Việt cần
phải biết trân trọng và thêm yêu những giá trị truyền thống tốt đẹp, để chúng được trường
tồn với thời gian, không bị đi vào quên lãng, giữa nhịp sống hiện đại xô bồ.
Thuyết minh về dân ca Quan họ Bắc Ninh - Mẫu 3



Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ
yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Đây là môn nghệ thuật được hợp thành
bởi nhiều yếu tố như âm nhạc, lời ca, phục trang, lễ hội với một lối hát giao duyên dân
dã, thể hiện mối quan hệ gắn bó tình nghĩa giữa những "liền anh", "liền chị" hát quan họ
và là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc.
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt
Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Muốn
hát quan họ phải có "bọn": "bọn nam" hoặc "bọn nữ". Vì vậy trong một làng quan họ
thường có nhiều "bọn nam" và "bọn nữ". Mỗi "bọn" thường có 4, 5, 6 người và được đặt
tên theo thứ tự: chị Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu hoặc anh Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu. Nếu số
người đông tới 7, 8 người thì đặt tên là chị Ba, chị Tư (bé) hoặc anh Ba, anh Tư (bé) mà
không đặt chị Bảy, Tám hay anh Bảy, Tám. Trong các sinh hoạt quan họ, các thành viên
của "bọn" quan họ không gọi nhau bằng tên thật mà gọi theo tên đặt trong "bọn".
Hát quan họ là hình thức hát đối đáp giữa "bọn nam" và "bọn nữ". Một "bọn nữ" của làng
này hát với một "bọn nam" của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và
đối giọng. "Bọn hát" phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng của hai người
hát cặp với nhau phải tương hợp thành một giọng để tạo ra một âm thanh thống nhất. Dân
ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời
chính và lời phụ. Lời chính là thể thơ và ca dao của Việt Nam, phần lớn là thể lục bát, lục
bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp với từ ngữ giàu tính ẩn dụ, trong sáng, mẫu
mực. Đây là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca là thể hiện tình yêu lứa đôi. Lời
phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi, ư
hư, a ha v.v
Quan họ Bắc Ninh tồn tại trong một môi trường văn hóa với những tập quán xã hội riêng.
Đầu tiên là tập quán "kết chạ" giữa các làng quan họ. Từ tục "kết chạ", trong các "bọn"
quan họ xuất hiện một tập quán xã hội đặc biệt là tục kết bạn quan họ. Mỗi "bọn" quan họ
của một làng đều kết bạn với một "bọn" quan họ ở làng khác theo nguyên tắc quan họ


nam kết bạn với quan họ nữ và ngược lại. Với các làng đã "kết chạ", trai gái trong các

"bọn" quan họ đã kết bạn không được cưới nhau.
Một điểm khác biệt của quan họ Bắc Ninh so với các loại hình dân ca khác ở Việt Nam
trong việc truyền dạy là tục "ngủ bọn". Sau một ngày lao động, "bọn" quan họ, nhất là
thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 17 tuổi thường rủ nhau "ngủ bọn" ở nhà ông/bà Trùm để tập
nói năng, ứng xử, giao tiếp, học câu, luyện giọng, và nhất là phải biết kịp thời. Yêu cầu
đặt ra với tục "ngủ bọn" là "liền anh" và "liền chị" phải ghép đôi và luyện sao cho từng
đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát.
Nói đến quan họ Bắc Ninh là nói đến ẩm thực quan họ. Đã là trầu quan họ thì phải là trầu
têm cánh phượng hoặc trầu têm cánh quế, chè phải là chè Thái Nguyên. Cơm quan họ
dùng mâm đan nghĩa là mâm gỗ tròn sơn đỏ, còn gọi là "mâm son", vừa trang trọng vừa
thể hiện tình cảm thắm thiết của chủ nhà đối với khách. Các món ăn trong bữa cơm phụ
thuộc vào tập quán của từng làng nhưng phải có một đĩa thịt gà, hai đĩa giò lụa, thịt lợn
nạc, đặc biệt không dùng thức ăn nhiều mỡ để tránh hỏng giọng.
Trong quan họ, trang phục của "liền anh" và "liền chị" có sự khác biệt. Trang phục của
"liền chị" gồm nón ba tầm hoặc nón thúng quai thao, khăn vấn và khăn mỏ quạ, yếm, áo,
váy, thắt lưng, dép. Trang phục của "liền anh" gồm khăn xếp, ô lục soạn, áo cánh bên
trong và áo dài 5 thân bên ngoài, quần, dép.
Ủy ban UNESCO đã công nhận quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của Nhân loại dựa trên các giá trị văn hóa, giá trị lưu giữ tập quán xã hội, nghệ thuật trình
diễn, phong cách ứng xử văn hóa, ca từ và trang phục. Phạm vi công nhận chính thức
gồm có 49 làng quan họ phân bố như sau: tỉnh Bắc Giang có 5 làng là Hữu Nghi, Giá
Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ; tỉnh Bắc Ninh có 44 làng là: Bái Uyên, Duệ Đông, Hạ
Giang, Hoài Thị, Hoài Trung, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Vân Khám, Tam Sơn,
Tiêu, Đông Mai, Đông Yên, Bồ Sơn, Châm Khê, Cổ Mễ, Dương Ổ, Đẩu Hàn, Điều Thôn,
Đông Xá, Đỗ Xá, Hòa Đình, Hữu Chấp, Khả Lễ, Khúc Toại, Ném Đoài, Ném Sơn, Ném
Tiền, Niềm Xá, Phúc Sơn, Thanh Sơn, Thị Chung, Thị Cầu, Thọ Ninh, Thượng Đồng, Trà
Xuyên, Vệ An, Viêm Xá, Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân Ổ, Xuân Viên, Y Na, Yên Mẫn.


Thuyết minh về dân ca Quan họ Bắc Ninh - Mẫu 4

Trong dòng văn hoá và nghệ thuật âm nhạc dân gian chảy từ ngàn xưa, giữa sự đa dạng
và đa diện của các dòng dân ca: chèo của Thái Bình, Nam Định, chèo tàu của Hà Tây, hát
dặm Nghệ An, Hà Tĩnh, ca trù, ca Huế, dân ca Nam Bộ vẫn lấp lánh một dòng dân ca
riêng biệt, đặc sắc và độc đáo, tựa như:
Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc
Chị Hai xinh, tang tình là chị Hai đứng
Đó là dân ca quan họ vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Quan họ vừa như một làn điệu hội tụ "khí chất" của rất nhiều làn điệu dân ca: cái trong
sáng, rộn ràng của chèo; cái thổn thức, mặn mà của hát dặm; cái khoan nhịp sâu lắng của
ca trù; cái khoẻ khoắn, hồn nhiên của dân ca Nam Bộ. Nhưng trên hết, quan họ mang
"khí chất" của chính quan họ, là hồn của xứ sở quan họ, là "đặc sản" tinh thần của Kinh
Bắc – Bắc Ninh.
Nằm kề cận với thủ đô, có diện tích nhỏ nhất nước, với sáu huyện, thị, nhưng khát vọng
trí tuệ, khát vọng sống, khát vọng khẳng định mình của Kinh Bắc chẳng nhỏ tí nào. Sách
cổ của người xưa từng ngưỡng mộ: "Kinh Bắc nổi tiếng văn nhã". Đất Kinh Bắc là nơi
kết tụ của tài hoa các làng nghề: làng tranh Đông Hồ, làng giấy Đống Cao, làng chạm
khắc Phù Khê, làng đồng Đại Bái, làng buôn Phù Lưu là đất của hàng nghìn di tích lịch
sử, danh thắng của các đình, đền, chùa nổi tiếng. Người Kinh Bắc thông minh, tinh tế, ở
bất cứ thời đại lịch sử nào Kinh Bắc cũng hiến cho đời không ít những danh nhân, nhân
tài, kẻ sĩ, các bậc hiền tài. Các cộng đồng làng Kinh Bắc từ đời này sang đời khác, từ thế
hệ này sang thế hệ khác, gắn kết với nhau trong tình làng nghĩa xóm, trong lao động cần
cù, trong khát vọng yêu thương, vượt lên thiên tai, dịch họa, vượt lên gian khó, "thương
người như thể thương thân", "tứ hải giao tình" (bốn biển một nhà) như lời dân ca quan
họ. Chính cái khát vọng sống của người Kinh Bắc, đất Kinh Bắc đã hóa thân thành những
làn điệu quan họ kỳ diệu: "lời thì giao duyên, tình thì anh em", vừa thực, vừa mơ, vừa
giãi bày, vừa khúc chiết, vừa tình tự, vừa sâu sắc.


Các làng quan họ hầu hết ở Bắc Ninh, mà theo các nghệ nhân, từng có tới 49 làng quan
họ. Và như sông Cầu không bao giờ cạn, mạch sống của khúc nhạc, lời ca quan họ cũng

không khi nào nhạt phai dù đã trải qua bao đời người và bao nhiêu biến động thời thế.
Đến bây giờ Hội làng quan họ vẫn là nguồn cảm hứng mùa xuân bất tận của xứ Kinh
Bắc. Các Hội làng gắn bó đặc biệt với hát quan họ, không thể nào có hội làng trên mảnh
đất Bắc Ninh mà thiếu vắng sắc màu và âm thanh quan họ. Những hội hè này trải dài từ
mùng 4 Tết âm lịch đến 28 tháng 3 âm lịch. Đặc sắc nhất vẫn là Hội Lim ở huyện Tiên
Sơn. Vào những ngày hội, nam thanh nữ tú các nơi đổ về, trẩy hội tưng bừng, để được
nghe các liền anh, liền chị xiêm y mớ bảy mớ ba, hát đối đáp, hát canh, hát hội, hát
mừng.
Dân ca quan họ quả là một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, nó cần được tiếp tục nuôi
dưỡng, trân trọng gìn giữ và lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau, ở trong nước và cho cả
cộng đồng Việt Nam hải ngoại.



×