Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hiện tựợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.96 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NÔNG VĂN NGOAN

HIÖN T¦îNG SONG NG÷
TRONG V¡N HäC TRUNG §¹I VIÖT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2019


Công trình đƣợc hoàn thành tại: Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. GS.TS LÃ NHÂM THÌN
2. TS. NGUYỄN MINH HOẠT

Phản biện 1: PGS.TS NGUYỄN PHẠM HÙNG
Phản biện 2: PGS.TS NGUYỄN THỊ CHIẾN
Phản biện 3: PGS.TS DƢƠNG TUẤN ANH

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng
họp tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
Vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội


- Thƣ viện Quốc Gia Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Hiện tượng song ngữ là hiện tượng khá phổ biến trong văn học trung
đại của nhiều nước, phương Đông cũng như phương Tây. Ở phương Đông,
các nước như Triều Tiên/ Hàn Quốc, Nhật Bản cùng với việc sử dụng
ngôn ngữ bản địa là việc sử dụng tiếng Hán trong sáng tác văn chương. Ở
các nước phương Tây như Anh, Pháp, Ý, Đức trong văn học trung đại có
hiện tượng sử dụng tiếng Latinh song hành với ngôn ngữ bản địa. Hiện
tượng song ngữ cũng đã làm nên đặc điểm riêng của văn học trung đại
Việt Nam - thành phần văn học viết gồm hai thành phần văn học chữ Hán
và văn học chữ Nôm.
Nghiên cứu hiện tượng song ngữ là nghiên cứu một trong những đặc
điểm lớn của văn học trung đại Việt Nam. Từ hiện tượng song ngữ có thể
hiểu sâu hơn bản chất, quy luật phát triển của văn học Việt Nam thời trung
đại từ quan điểm văn học, quan điểm thẩm mĩ đến ngôn ngữ nghệ thuật, bút
pháp nghệ thuật…
Nhiều tác giả văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhiều tên tuổi
lớn sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm như: Trần Nhân Tông, Nguyễn
Trãi, , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…
Qua hiện tượng song ngữ có thể hiểu sâu sắc hơn về các tác giả, tác phẩm
cùng vị trí và đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam vừa là một
hiện tượng mang tính đặc thù của văn học dân tộc thời trung đại, vừa mang
tính phổ quát, tính quốc tế. Trong bối cảnh văn học các nước khu vực như

Triều Tiên/ Hàn Quốc và Nhật Bản – là các nước chịu ảnh hưởng của văn
hóa chữ Hán trong thời trung đại hay trong lịch sử văn học các nước
phương Tây từ sau đế quốc Tây La Mã sụp đổ đến trước thời kỳ Phục
hưng cũng tồn tại hiện tượng song ngữ trong văn học. Vì vậy, đề tài luận
án góp thêm một cách nhìn về văn học trung đại Việt Nam trong cộng
đồng văn học khu vực và quốc tế.


2

1.2. Về thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với việc nghiên cứu và giảng dạy văn
học trung đại Việt Nam nói chung như đặc điểm, đặc trưng của văn học, các
vấn đề về thể loại, ngôn ngữ của văn học trung đại Việt Nam cũng như về các
tác gia lớn sáng tác bằng song ngữ ở trường phổ thông, cao đẳng và đại học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án “Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt
Nam” đi theo một trong những hướng nghiên cứu phổ biến hiện nay,
hướng nghiên cứu liên ngành. Luận án được thực hiện với mục đích là
nghiên cứu về hiện tượng song ngữ trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X
đến hết thế kỷ XIX. Mặt khác, thông qua hiện tượng song ngữ trong văn
học trung đại Việt Nam làm phong phú thêm những hiểu biết nhất định về
mối quan hệ giữa hiện tượng song ngữ với lực lượng sáng tác, thể loại
cũng như ngôn ngữ trong văn học trung đại Việt Nam và hiện tượng song
ngữ ở một số nước khu vực.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra những nhiệm
vụ sau:
- Giới thuyết khái niệm song ngữ và hiện tượng song ngữ trong văn

học. Làm rõ nội hàm của các khái niệm, thuật ngữ này và xem đó là công
cụ then chốt trong quá trình khảo sát và nghiên cứu.
- Vận dụng các khái niệm, thuật ngữ song ngữ, song thể ngữ và hiện
tượng song ngữ vào nghiên cứu quá trình phát triển của lịch sử văn học
trung đại Việt Nam, những đặc điểm, đặc trưng của văn học liên quan tới
hiện tượng song ngữ.
- Nghiên cứu cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa tư tưởng, văn học hình
thành nên hiện tượng song ngữ
- Nghiên cứu những đặc điểm, bản chất, quy luật diễn tiến của hiện
tượng song ngữ trong lịch sử văn học dân tộc, so sánh với hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại của một số nước như Triều Tiên/Hàn Quốc,
Nhật Bản.


3

- Đặc biệt, chú trọng nghiên cứu các vấn đề liên quan giữa hiện
tượng song ngữ với tác giả (nhất là tác giả tiêu biểu sáng tác bằng song
ngữ), thể loại và ngôn ngữ văn học trong văn học Việt Nam thời trung đại.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận án là lịch sử hình thành và phát triển của
thành phần văn học chữ Hán và thành phần văn học chữ Nôm trong văn
học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
Đối tượng nghiên cứu cụ thể hơn của đề tài luận án là:
- Tác giả của hiện tượng song ngữ;
- Tác phẩm, thể loại của hiện tượng song ngữ;
- Ngôn ngữ của hiện tượng song ngữ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi tư liệu

Chúng tôi chủ yếu sử dụng các tác phẩm chữ Hán đã được dịch,
những tác phẩm chữ Nôm đã được phiên âm của các tác giả viết bằng
song ngữ tiêu biểu trong văn học Việt Nam như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến. Ngoài ra,
nhiều sáng tác ở các thể loại cả văn học chức năng và văn học nghệ
thuật cũng được khảo sát và nghiên cứu để làm rõ thêm bản chất của
hiện tượng song ngữ.
3.2.2. Phạm vi khoa học
Phạm vi khoa học của đề tài luận án bao gồm: Cơ sở lí thuyết của hiện
tượng song ngữ; Đặc điểm, bản chất; diễn tiến của hiện tượng song ngữ trong
văn học trung đại Việt Nam. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam trong bối cảnh văn học khu vực; Các tác giả tiêu biểu sáng tác
bằng song ngữ; Hiện tượng song ngữ với thể loại và ngôn ngữ văn học.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
4.1. Phương pháp nghiên cứu văn học sử
Phương pháp nghiên cứu văn học sử định hướng tiếp cận vấn đề
nghiên cứu của luận lán là lích sử văn học trung đại Việt Nam. Hiện tượng


4

song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một hiện tượng lịch sử - xã
hội. Nó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân lịch
sử: sự đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc, quy luật tất yếu của
“nền văn học” trẻ chịu ảnh hưởng từ nền “văn học già”; ý thức dân tộc trong
lĩnh vực văn hóa, văn học; nhu cầu phát triển văn hóa và xây dựng bộ máy
nhà nước phong kiến. Phương pháp lịch sử được sử dụng để phân tích các
yếu tố lịch sử và sự ảnh hưởng của nó đến việc hình thành, vận động và
phát triển của hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam theo

thời gian lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học – ngôn ngữ văn hóa – xã hội học)
Ngày nay, giới nghiên cứu văn học thấy rõ rằng: nghiên cứu văn học
không thể tách rời mối quan hệ với văn hóa. Hơn nữa, bối cảnh văn hóa
của văn học trung đại có sự khác biệt nhất định so với văn hóa thời hiện
đại. Nghiên cứu văn học cũng không thể tách khỏi ngôn ngữ - yếu tố chất
liệu của các tác phẩm văn học. Chẳng hạn, khi nhắc đến “song ngữ”, người
ta thường nghĩ ngay đến một hiện tượng xã hội học, ngôn ngữ học. “Song
ngữ” trong văn học có mối quan hệ mật thiết với song ngữ xã hội, và trong
các sáng tác văn học song ngữ cũng thể hiện rõ các yếu tố ngôn ngữ học về
ngữ âm, từ vựng. Cần có sự hiểu biết về song ngữ xã hội, ngôn ngữ học
nếu muốn hiểu sâu hơn về song ngữ trong văn học.
4.3. Phương pháp nghiên cứu so sánh văn học
Đây là phương pháp không thể thiếu khi thực hiện đề tài luận án. Khi
nói đến so sánh văn học, chúng ta không nên chỉ hiểu đó là so sánh các
hiện tượng trong một nền văn học, mà còn là so sánh một nền văn học này
với một hay nhiều nền văn học khác, hoặc so sánh các hiện tượng của các
nền văn học khác với nhau. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
là việc sử dụng hai ngôn ngữ Hán và Việt trong sáng tác. Bằng phương
pháp so sánh, chúng ta có thể thấy những đặc điểm riêng biệt của từng
thành phần văn học Hán và Nôm, trên cơ sở đó tìm ra những sự ảnh
hưởng, giao thoa hai ngôn ngữ trong sáng tác của các tác giả như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến...


5

4.4. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học
Trong nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam hiện nay đã có khá
nhiều công trình văn học sử, cũng đã có một số công trình đi sâu vào một

số thể loại, tác giả được tiếp cận dưới góc độ của thi pháp học như đặc
trưng của văn học, thi pháp một số thể loại, quan niệm về con người, quan
niệm về thế giới và một số phương thức nghệ thuật. Hiện tượng song ngữ
trong văn học biểu hiện ở nhiều phương diện. Mức độ đậm nhạt của song
ngữ cũng biểu hiện khác nhau ở từng thể loại (chẳng hạn văn chính luận sẽ
ít chịu ảnh hưởng từ ngôn ngữ Việt hơn thơ Đường luật). Dựa vào thi pháp
học để thấy được đặc điểm riêng của từng thể loại là một việc làm cần thiết
khi nghiên cứu về hiện tượng song ngữ trong văn học.
4.5. Phương pháp loại hình
Loại hình (tiếng Anh: typological có tự gốc là type, tiếng Pháp typé)
là khái niệm chỉ tập hợp những sự vật hiện tượng có chung những đặc
trưng cơ bản nào đó. Nghiên cứu theo phương pháp loại hình không đơn
giản liệt kê, miêu tả sự tương đồng, giống nhau bề ngoài của các hiện
tượng văn học. Điều quan trọng hơn nhiều là phải tìm ra được tính quy luật
của sự tương đồng, giống nhau ấy. Phương pháp này được vận dụng trong
việc nghiên cứu loại hình tác giả song ngữ và loại hình các thể loại nhìn từ
hiện tượng song ngữ.
5. Đóng góp mới của luận án
- Chỉ ra những tiền đề lịch sử, xã hội, văn hóa tư tưởng, văn học của
hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam;
- Khái quát đặc điểm và quá trình phát triển của hiện tượng song ngữ;
- Nghiên cứu vấn đề loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam;
- Khái quát quá trình phát triển và biểu hiện của hiện tượng song ngữ
trên phương diện thể loại và ngôn ngữ;
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục,
luận án gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài



6

Chương 2: Những vấn đề chung về hiện tượng song ngữ trong văn
học trung đại Việt Nam
Chương 3: Loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Chương 4: Một số vấn đề về thể loại và ngôn ngữ dưới góc nhìn của
hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ
1.1.1. Khái niệm song ngữ
Trong phần này, chúng tôi dẫn ra những định nghĩa của các nhà ngôn
ngữ học về khái niệm niệm song ngữ tiêu biểu ở một số tài liệu thông dụng
trong Ngôn ngữ học như Từ điển thuật ngữ ngữ học của Diệp Quang Ban
hay Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý và Từ điển giải thích thuật
ngữ ngôn ngữ học cũng của tác giả này về khái niệm song ngữ. Cuốn Từ
điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, cũng như luận án tiến sĩ về Ngôn
ngữ học của Hoàng Quốc cũng đề cập tới khái nhiệm song ngữ.
Đó là những định nghĩa về hiện tượng song ngữ ở cấp độ khái quát
nhất, hay còn gọi là hiện tượng song ngữ xã hội. Nhưng hiện nay song ngữ
không chỉ là một hiện tượng xã hội, mà còn là một hiện tượng tâm lí, bởi
tâm lí có tác động đến sự hình thành hệ thống ngôn ngữ khác nhau ở mỗi
cá nhân. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, hiện tượng này đã được nghiên cứu ở
nhiều khía cạnh như ngôn ngữ học lịch sử, xã hội – ngôn ngữ học, tâm lí
ngôn ngữ học, thần kinh – ngôn ngữ học, sư phạm – ngôn ngữ học. Song
ngữ trong văn học là một thành phần của xã hội – ngôn ngữ học – lĩnh vực
nghiên cứu sự tác động của hiện tượng song ngữ đến văn hóa – xã hội và
việc bảo tồn bản sắc dân tộc. Việc cung cấp các định nghĩa ở cấp độ chung

như trên sẽ mang đến cái nhìn rộng trước khi đi vào một khái niệm hẹp
hơn. Chúng tôi đang muốn nói đến ở đây là khái niệm hiện tượng song ngữ
trong văn học, cụ thể hơn nữa, trong văn học trung đại Việt Nam.


7

1.1.2. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học
Ở phần này, chúng tôi điểm qua những cách hiểu về khái niệm “hiện
tượng song ngữ” ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp theo quan niệm của các nhà
nghiên cứu Đinh Thị Khang, Trần Nho Thìn và Trần Đình Sử.
Tựu trung lại, chúng tôi cho rằng hiện tượng song ngữ trong văn
học, với đúng tính chất là sự tồn tại song hành của hai loại ngôn ngữ,
được hiểu là hiện tượng văn học sử dụng hai loại văn tự và có sự kết hợp
các yếu tố thuộc về văn hóa, văn học, ngôn ngữ nảy sinh trong quá trình
tiếp xúc ngôn ngữ giữa hai quốc gia. Trong thời kì trung đại, sự tiếp xúc
tiếng Hán và tiếng Việt tạo nên hiện tượng song ngữ trong văn học với
hai văn tự tương ứng là chữ Hán và chữ Nôm. Chúng tôi không đồng
nhất “song ngữ” và “đa ngữ” như một số cách hiểu ở trên, bởi dựa vào
cách hiểu đó sẽ khó phân biệt “hiện tượng song ngữ” trong văn học
trung đại với tiếng Hán, tiếng Việt và “hiện tượng đa ngữ” trong văn học
hiện đại (nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX) với sự giao thoa của ba
loại ngôn ngữ: tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Pháp.
Như vậy, có thể hiểu hiện tượng song ngữ trong văn học là hiện
tượng một nền văn học đồng thời được sáng tác bằng hai ngôn ngữ ngôn ngữ bản địa và ngôn ngữ tiếp thu từ nước ngoài, từ tộc người khác.
Với văn học trung đại Việt Nam, hiện tượng song ngữ thể hiện ở nền
văn học cùng một lúc được sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
TỚI ĐỀ TÀI
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đã từng được

nói đến trong một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Có thể thấy một vài hướng
nghiên cứu sau đề cập tới hiện tượng song ngữ liên quan tới đề tài:
1.2.1. Nghiên cứu đặc điểm văn học trung đại Việt Nam đề cập
tới hiện tƣợng song ngữ
Ở phần này, chúng tôi vừa điểm qua đồng thời vừa phân tích những
điểm liên quan của các công trình nghiên cứu đặc điểm văn học trung đại
Việt Nam tới hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.


8

Những công trình tiêu biểu như Việt Nam văn học sử yếu của Dương
Quảng Hàm; các giáo trình viết về văn học trung đại Việt Nam của Đinh
Gia Khánh, Nguyễn Lộc; những nghiên cứu của Trần Đình Sử, Nguyễn
Đăng Na, Trần Đình Hượu, Bùi Duy Tân, Lã Nhâm Thìn, Trần Nho Thìn
và một số tác giả khác. Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu văn học trung
đại Việt Nam được nhắc đến ở trên đây đều khẳng định sự tồn tại của dòng
văn học viết bằng ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán và một dòng văn học
khác viết bằng ngôn ngữ dân tộc (tiếng Việt/chữ Nôm) trong văn học trung
đại Việt Nam hay nói cách khác là hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận
sự tồn tại của hiện tượng song ngữ trong văn học viết từ thế kỷ X đến hết
thể kỷ XIX ở nước ta.
1.2.2. Nghiên cứu thi pháp văn học trung đại Việt Nam đề cập tới
hiện tƣợng song ngữ
Ở đây, chúng tôi phân tích những điểm có liên quan trong công trình
của các nhà nghiên cứu như Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Trần Đình Hượu,
Hoàng Hữu Yên, Lã Nhâm Thìn và một số nhà nghiên cứu khác nữa khi
nghiên cứu những vấn đề về thi pháp, về ngôn ngữ và thể loại cũng có đề
cập tới hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.

1.2.3. Nghiên cứu các tác giả sáng tác bằng song ngữ
Trong mục này, tác giả luận án đánh giá các công trình nghiên cứu
về các tác gia như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá
Quát và Nguyễn Khuyến có đề cập tới hiện tượng song ngữ. Những công
trình này đã đề cập ít nhiều nội dung của đề tài luận án. Chúng tôi tiếp thu
và kế thừa những công trình của Nguyễn Lộc, Đinh Gia Khánh, Trần Nho
Thìn, Hoàng Hữu Yên, Lã Nhâm Thìn, Biện Minh Điền, Tảo Trang,
Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Anh và một số nhà nghiên cứu khác để
“Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam” được nghiên cứu
một cách đầy đủ, hệ thống hơn nữa.
1.2.4. Nghiên cứu so sánh hiện tƣợng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam với văn học các nƣớc khu vực văn hóa chữ Hán
thời trung đại
Ở đây, chúng tôi điểm qua các công trình nghiên cứu có đề cập tới


9

hiện tượng song ngữ của tác giả Đoàn Lê Giang với bài viết Thời trung đại
trong văn học các nước khu vực văn hóa chữ Hán hay cuốn Văn học sử
Hàn Quốc của các tác giả Ko Mi Sook, Jung Min và Jung Byung Sun
(do Jeon Hye Kyung và Lý Xuân Chung dịch); Nguyễn Nam Trân với
cuốn Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản.
Từ những công trình này, chúng ta thấy rằng, những nghiên cứu về so
sánh giữa văn học trung đại Việt Nam với văn học các nước chịu ảnh hưởng
của khu vực văn hóa chữ Hán cho thấy một số điểm tương đồng đó là sự tồn
tại của hiện tượng song ngữ và hiện tượng song ngữ của văn học thời trung đại
những nước này cũng như ở Việt Nam đều là song ngữ bất bình đẳng.ngữ này
tồn tại cho đến cuộc Duy tân Minh Trị (tr.15).
Như vậy, qua việc điểm các công trình nghiên cứu của các tác giả

Đoàn Lê Giang, Phan Thị Thu Hiền, Ko Mi Sook, Jung Min và Jung
Byung Sun, Nguyễn Nam Trân và một số nhà nghiên cứu khác, chúng ta
thấy rằng, những nghiên cứu so sánh giữa văn học trung đại Việt Nam với
văn học các nước chịu ảnh hưởng của khu vực văn hóa chữ Hán cho thấy
một số điểm tương đồng đó là sự tồn tại của hiện tượng song ngữ và hiện
tượng song ngữ của văn học thời trung đại những nước này cũng như ở
Việt Nam đều là song ngữ bất bình đẳng.
Những công trình nghiên cứu chuyên biệt về hiện tượng song ngữ
trong văn học trung đại Việt Nam chưa nhiều, có khi dừng lại trong giới
hạn khảo sát hẹp ở một tác giả, một số công trình nghiên cứu khác có đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt
Nam. Nhìn chung, các công trình, bài viết nghiên cứu về hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đã mang đến những quan niệm, đánh
giá tương đối phong phú, đa chiều. Về cơ bản, những vấn đề đã được triển
khai đó là khái niệm về hiện tượng song ngữ, khẳng định về sự tồn tại và tiến
trình phát triển của hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
Những nhận định đó mang ý nghĩa định hướng cho người viết trong quá trình
triển khai đề tài để nhìn nhận rõ hơn, hệ thống hơn, toàn diện hơn vấn đề
được nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam vẫn còn là một vấn đề phức tạp, cần được nghiên cứu chuyên sâu


10

hơn, từ khái niệm, cơ sở hình thành, đặc điểm, quá trình phát triển cũng như
biểu hiện trên phương diện tác giả, thể loại và ngôn ngữ văn học. Hiện tượng
song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cần được nghiên cứu một cách
hệ thống và toàn diện hơn nữa. Và đây cũng chính là mục đích, nhiệm vụ
chúng tôi đặt ra khi thực hiện luận án.
1.3. CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.3.1. Lí thuyết liên ngành ngôn ngữ và văn học
Ở phần này, chúng tôi trình bày về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn học nhất là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và hiện tượng song trong
văn học trung đại Việt Nam.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một hiện
tượng văn học độc đáo và thú vị, vừa có tính đặc thù vừa có tính phổ quát,
vừa văn học vừa ngôn ngữ. Hiện tượng này diễn ra trong nội tại văn học
nhưng cũng được hình thành trên những tiền đề ngôn ngữ học, lịch sử, xã
hội, văn hóa, văn học và thẩm mĩ nhất định. Do đó, cần xem xét hiện tượng
song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn của liên ngành,
đặc biệt ở đây là liên ngành ngôn ngữ và văn học.
1.3.2. Lí thuyết liên ngành văn hoá và văn học
Ở phần này, chúng tôi phân tích mối quan hệ giữa văn hóa và văn học;
việc nghiên cứu văn học trong đó có nghiên cứu hiện tượng song ngữ dưới
góc nhìn văn hóa. Sự xuất hiện của hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam không chỉ là một hiện tượng văn học mà còn là một
hiện tượng văn hoá, một dấu ấn văn hoá của thời đại đáng lưu ý. Nếu không
có sự ảnh hưởng của văn hóa và văn học Trung Quốc, nhất là văn hóa tam
giáo, văn hóa và văn học dân gian ở các mức độ khác nhau về ngôn ngữ, thể
loại và tác gia văn học thì không thể có sự hình thành và phát triển của hiện
tượng song ngữ như thế. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm hiểu các mức độ
ảnh hưởng, biểu hiện trên phương diện nào của văn hoá đối với sự hình
thành, vận động và phát triển của hiện tượng song ngữ. Tiếp cận nghiên
cứu, phê bình văn học dưới góc nhìn văn hoá hay liên ngành văn hóa và văn
học là một hướng có nhiều ưu thế.


11

1.3.3. Lí thuyết so sánh văn học

Trong mục này, tác giả luận án khái lược lại khái niệm, mục đích, đối
tượng, chức năng và các phương pháp cũng như thao tác của lý thuyết văn
học so sánh và việc vận dụng lý thuyết cũng như thao tác của so sánh văn
học trong quá trình triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
1.3.4. Lý thuyết loại hình học
Mục này, tác giả luận án khái quát lại một số vấn đề về loại hình học
văn học và loại hình học tác giả cũng như việc vận dụng lí thuyết này để
thực hiện luận án.
TIỂU KẾT
Hiện tượng song ngữ trong văn học là hiện tượng sáng tác bằng
ngôn ngữ vay mượn song song với ngôn ngữ bản địa trong một nền văn
học ở cùng một giai đoạn. Văn học trung đại Việt Nam cũng tồn tại hiện
tượng song ngữ: đó là việc cùng một lúc sử dụng cả chữ Hán và chữ
Nôm trong sáng tác.
Có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam,
đặc điểm của văn học trung đại, về thi pháp, về các tác giả, thể loại, ngôn
ngữ, nghiên cứu so sánh với các nền văn học khác trong khu vực có đề cập
đến những khía cạnh của hiện tượng song ngữ ở mức độ đậm nhạt khác
nhau. Nhìn chung, các công trình ấy đều gặp nhau ở mấy điểm: thứ nhất,
trong văn học trung đại Việt Nam có sự tồn tại và phát triển song song của
hai thành phần văn học là thành phần văn học viết bằng chữ Hán và thành
phần văn học viết bằng chữ Nôm; thứ hai, ở các thể loại có tính song ngữ
chưa được phân tích một cách cụ thể như một hiện tượng vừa có tính đặc thù
vừa có tính phổ quát, có quá trình hình thành, phát triển và quy luật vận động
biến đổi riêng. Những công trình khảo sát kĩ lưỡng, công phu về hiện tượng
song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng, có thể mở rộng ra
trong bối cảnh văn học các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán trong
khu vực và thậm chí trong văn học toàn nhân loại vẫn còn ở phía trước. Điều
đó, càng kích thích chúng tôi đi vào đề tài đã chọn
Cơ sở lý thuyết của đề tài, bên cạnh những thành tựu về lý luận và thực



12

tiễn của các đơn ngành như văn học, ngôn ngữ, so sánh văn học, loại hình học
văn học,… còn phải vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành như liên
ngành ngôn ngữ và văn học, liên ngành văn hóa và văn học,…
Trên đây là tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề
tài. Những vấn đề các học giả, các nhà nghiên cứu đã triển khai có liên
quan đến hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam, luận án
tiếp thu và kế thừa. Cùng với việc vận dụng các phương pháp, các lí thuyết
là cơ sở lí luận của đề tài, tổng quan tình hình nghiên cứu chính là nền
móng để người viết xây dựng những ý tưởng tiếp theo.
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
2.1. CƠ SỞ LỊCH SỬ - XÃ HỘI, TƢ TƢỞNG - VĂN HOÁ - VĂN
HỌC CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ
2.1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội
Phần này người viết phân tích những điều kiện về lịch sử - xã hội và
tiền đề chính trị có ảnh hưởng tới sự hình thành, vận động và phát triển của
hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết
thế kỷ XIX.
2.1.2. Tiền đề văn hóa, tƣ tƣởng
Mục này, chúng tôi phân tích về sự tồn tại đan xen của văn hoá dân
tộc và văn hoá Nho giáo cũng như quan điểm thẩm mĩ, quan niệm văn
học thời trung đại có tác động tới sự hình thành, vận động và phát triển
của hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
2.1.3. Tiền đề văn học
Tiền đề ngôn ngữ

Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là sản phẩm
của quá trình du nhập và sử dụng chữ Hán và quá trình hình thành và phát
triển của chữ Nôm. Hai quá trình này không xuất hiện cùng nhau nhưng đã
gặp gỡ nhau từ thế kỷ XIII khi việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học
được sử sách ghi nhận. Ở đây chúng tôi khái lược hai quá trình này. Cùng


13

với đó, tác giả luận án cũng phân tích những điểm tương đồng giữa chữ
Hán và chữ Nôm có ảnh hưởng tới hiện tượng song ngữ.
Tiền đề thể loại
Trọng mục này, người viết dẫn giải việc lựa chọn chữ Hán văn ngôn
làm ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp hành chính, giáo dục, thi cử và sáng
tác nghệ thuật dẫn đến việc chúng ta tiếp thu các thể loại văn học của người
Trung Hoa. Từ đó khẳng định thể loại cũng là một tiền đề quan trọng góp
phần tạo nên hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
2.2. ĐẶC ĐIỂM HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
2.2.1. Tính chất đa thành phần của hiện tƣợng song ngữ
Ở phần này, chúng tôi vừa trình bày những thành tựu của thành phần
văn học chữ Hán và thành phần văn học chữ Nôm đồng thời phân tích mối
quan hệ giữa văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.
2.2.2. Tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ
Ở đây, tác giả luận án phân tích tính chất bất bình đẳng của hiện
tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện trong quan
niệm của Nho giáo chính thống và giai cấp phong kiến. Quan niệm văn
chương cao cả với sáng tác chữ Hán và văn chương đời thường, thông tục
với sáng tác chữ Nôm.
2.3. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA HIỆN TƢỢNG

SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
2.3.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Phần này, chúng tôi phân tích việc lựa chọn chữ Hán văn ngôn của
ông cha ta và những thành tựu của văn học viết bằng chữ Hán giai đoạn
đầu. Cùng với đó tác giả luận án khái quát sự hình thành và phát triển của
văn học viết bằng chữ Nôm hình thành hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ XIII.
2.3.2. Giai đoạn văn học từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
Ở đây, người viết trình bày những thành tựu của hiện tượng song ngữ
trong giai đoạn phát triển nở rộ trong cả hai thành phần văn học chữ Hán
và văn học chữ Nôm.


14

2.3.3. Giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX
Mục này, tác giả luận trình bày những thành tựu của hiện tượng song
ngữ trong giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tượng song ngữ. Ở phạm
vi cả nền văn học và ở phạm vi cá nhân tác giả với những dấu mốc rực rỡ
ở thể loại văn học dân tộc nội sinh là diễn ca lịch sử, ngâm khúc, truyện
thơ, hát nói.
2.4. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ
Trong phần này, chúng tôi trình bày bối cảnh lịch sử và đặc điểm của
hiện tượng song ngữ trong văn học Nhật Bản và văn học Triều Tiên/Hàn
Quốc. Đồng thời phân tích những đặc điểm chung và riêng của hiện tượng
song ngữ trong văn học trung đại các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa
chữ Hán là Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên/Hàn Quốc.
TIỂU KẾT
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam được hình

thành trên những cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa, tư tưởng, thẩm mĩ, văn học
và ngôn ngữ học nhất định. Trước hết là sự ra đời chính thức của nền văn
học viết vào khoảng thế kỷ X sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán
trên sông Bạch Đằng, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc. Vì
chưa có chữ viết riêng hoàn chỉnh và thống nhất nên cha ông ta phải mượn
chữ Hán trong hành chính và trong sáng tác văn học. Văn học viết bằng
chữ Nôm ra đời muộn hơn văn học viết bằng chữ Hán khoảng hai thế kỷ
nhưng đã nhanh chóng bắt rễ sâu trong đời sống văn học và nhanh chóng
phát triển ngang hàng với văn học chữ Hán. Từ thế kỷ XV trở đi, hai thành
phần văn học viết bằng ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán và ngôn ngữ bản
địa là chữ Nôm song song tồn tại, tạo thành hiện tượng song ngữ rất độc
đáo và tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.
Trong tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam, hiện
tượng song ngữ vừa mang tính chất đa thành phần, vừa mang tính chất bất
bình đẳng. Tính chất đa thành phần cho thấy sự đa dạng và phong phú của
nền văn học với văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm
cũng như mối quan hệ ảnh hưởng giữa hai chiều Hán Nôm và ngược lại.


15

Trong khi đó, tính chất bất bình đẳng của hiện tượng song ngữ trong văn
học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX lại cho thấy một quan niệm văn
chương của người trung đại khi chỉ coi văn chương chữ Hán là văn chương
đích thực, văn chương chính thống cao cả. Còn thơ văn viết bằng chữ Nôm
lại không được coi trọng, văn chương thông tục, đời thường thậm chí đã có
lúc bị triều đình phong kiến cấm đoán ở một thể loại. Nhưng vượt lên trên
tất cả, văn học chữ Nôm vẫn phát triển không ngừng bên cạnh văn học viết
bằng chữ Hán và đạt được những thành tựu rực rỡ vào những giai đoạn
sau, đánh dấu sự ưu thắng của văn học dân tộc viết bằng chữ Nôm.

Quá trình phát triển của hiện tượng song ngữ trong văn học trung
đại Việt Nam có lẽ chỉ nên tính từ thời điểm việc sử dụng chữ Nôm vào
sáng tác văn học được sử sách chép lại là vào năm 1282 khi Nguyễn
Thuyên làm văn tế Nôm đuổi cá sấu và mở ra một trào lưu sáng tác văn
học bằng chữ Nôm thời bấy giờ. Trước đó, văn học nước ta chỉ sáng tác
chủ yếu bằng chữ Hán. Văn học viết bằng chữ Nôm bắt đầu có bước
nhảy vọt từ thế kỷ XV với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và sau đó là
Hồng Đức quốc âm thi tập của các tác giả thời Hồng Đức. Đến thế kỷ
XVI, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện nhưng
văn học chữ Nôm có phần chững lại, dù trong thế kỉ XVII thơ Nôm
Trịnh phủ khá dồi dào về số lượng. Trong khi đó, giai đoạn này văn học
chữ Hán vẫn rất phát triển. Từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX là giai
đoạn phát triển rực rỡ nhất của văn học chữ Nôm với sự ra đời của các
thể loại thuần dân tộc như truyện thơ, ngâm khúc và hát nói. Văn học
chữ Nôm đã chiếm ưu thế so với văn học chữ Hán.
Hiện tượng song ngữ là một hiện tượng vừa mang tính độc đáo, đặc thù
nhưng cũng vừa mang tính phổ quát. Không chỉ văn học Việt Nam thời trung
đại tồn tại hiện tượng song ngữ mà hiện tượng này cũng xuất hiện trong văn
học các nước phương Tây thời trung đại như Anh, Pháp, Ý, Đức,…. Văn học
các nước trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán như Korea và
Nhật Bản cũng tồn tại việc sáng tác văn học bằng ngôn ngữ vay mượn (chữ
Hán) bên cạnh sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa. Điều này cho thấy rằng, hiện
tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cũng tương đồng trong bối
cảnh văn học khu vực và văn học thế giới.


16

Chƣơng 3: LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG NGỮ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

3.1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ LOẠI HÌNH TÁC
GIẢ VĂN HỌC
3.1.1. Khái niệm loại hình và loại hình tác giả văn học
Phần này, tác giả luận án giới thuyết các khái niệm loại hình và loại
hình tác giả văn học.
3.1.2. Các kiểu loại tác giả trong văn học trung đại Việt Nam
Ở đây, chúng tôi trình bày về các kiểu loại tác giả trong văn học trung
đại Việt Nam từ những công trình nghiên cứu của một số học giả có uy tín. Từ
đó, người viết lập luận và khái quát về loại hình tác giả song ngữ trong văn
học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
3.2. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÁC GIẢ SONG NGỮ TIÊU BIỂU
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Ở phần này, chúng tôi đi phân tích những yếu tố về thời đại, gia
đình, cuộc đời và con người có ảnh hưởng tới sáng tác bằng song ngữ của
một số tác gia tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Du, Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến. Đồng thời phân tích những đóng
góp của những tác giả này đối với hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam.
3.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG NGỮ
Ở phần này, tác giả luận án trình bày và phân tích những đặc điểm
của Loại hình tác giả song ngữ. Đó là các đặc điểm sau:
- Loại hình tác giả song ngữ với xuất thân nho học và khoa bảng
- Loại hình tác giả song ngữ gắn với bối cảnh lịch sử, xã hội buổi
giao thời
- Loại hình tác giả song ngữ gắn với kiểu nhà nho hành đạo và nhà
nho ẩn dật
- Loại hình tác giả song ngữ với tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của
nho gia.



17

3.4. SỰ ĐA DẠNG VÀ THỐNG NHẤT TRONG NHẬN THỨC
VỀ TÌNH TRẠNG SONG NGỮ CỦA KIỂU TÁC GIẢ SONG NGỮ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
3.4.1. Sự đa dạng trong nhận thức về tình trạng song ngữ của
kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Ở mục này, người viết phân tích sự đa dạng trong nhận thức về tình
trạng song ngữ của kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt
Nam. Với bốn kiểu tác giả tiêu biểu sau:
- Nguyễn Trãi với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - chính luận
- Nguyễn Bỉnh Khiêm với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - triết lí
- Nguyễn Du với kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự
- Nguyễn Khuyến với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - trào phúng, liên
văn bản.
3.4.2. Sự thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ của
kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Ở mục này tác giả luận án phân tích sự thống nhất trong nhận thức
đối với văn học chữ Hán và đối với văn học chữ Nôm của kiểu tác giả
song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
TIỂU KẾT
Nghiên cứu lịch sử văn học không thể không chú ý vấn đề hệ thống
loại hình, loại thể văn học. Khi tư duy nghiên cứu hướng tới yêu cầu tổng
hợp, phân loại các hiện tượng văn học dựa trên những hệ tiêu chí khả dĩ có
thể khái quát và thâu tóm thành một “cộng đồng thẩm mĩ” nhất định. Loại
hình tác giả văn học dựa trên những cơ sở ấy. Có nhiều quan niệm khác
nhau về kiểu tác giả, loại hình tác giả trong văn học trung đại Việt Nam
như: loại hình tác giả văn, loại hình tác giả thơ; loại hình tác giả nhà nho
hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử; loại hình tác giả thiền sư, vua
quan, quý tộc, võ tướng,… Loại hình tác giả song ngữ được đưa ra dựa

trên những lập luận như thế.
Loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có
những đặc điểm chung về nguồn gốc xuất thân, về thời đại, về cuộc đời
hoạt động và về tư tưởng, quan niệm văn chương nghệ thuật. Có nhiều tác


18

giả sáng tác bằng song ngữ tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam
như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát và
Nguyễn Khuyến. Mỗi một tác giả có những nét riêng đóng góp vào hiện
tượng song ngữ nói riêng và lịch sử văn học dân tộc nói chung. Từ biểu
hiện của hiện tượng song ngữ ở các tác giả, có thể thấy hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đi từ song ngữ song hành Hán –
Nôm đến song ngữ “liên văn bản” Hán – Nôm.
Từ những nghiên cứu về đặc điểm loại hình tác giả song ngữ cũng như
khảo sát sự nghiệp sáng tác bằng song ngữ của một số tác gia tiêu biểu, chúng
ta có thể thấy một “sự đa dạng và thống nhất trong nhận thức về tình trạng
song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam”. Trong khi sự đa dạng đưa đến
những kiểu tác giả song ngữ khác nhau: Nguyễn Trãi với kiểu tác giả song
ngữ trữ tình - chính luận; Nguyễn Bỉnh Khiêm với kiểu tác giả song ngữ trữ
tình - triết lí; Nguyễn Du với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - tự sự và Nguyễn
Khuyến với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - trào phúng, liên văn bản. Trong
khi đó, sự thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ ở cả hai loại hình
diễn ngôn (sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm) của các tác giả song ngữ cho
thấy: không có bên trọng bên khinh; không có bên dồn hết tâm huyết, bên làm
chơi chơi; không có bên chỉ biết vọng ngoại, bên hướng về dân tộc; bên có
những kiệt tác, bên cũng có những tác phẩm có giá trị. Các tác giả song ngữ
đều coi sáng tác chữ Hán và chữ Nôm là văn chương đích thực, đều có những
sự dụng công nghệ thuật trong đó.

Chƣơng 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ DƢỚI GÓC NHÌN
CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
4.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI DƢỚI GÓC NHÌN TỪ
HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ
4.1.1. Sự phát triển thể loại nhìn từ hiện tƣợng song ngữ
Ở mục này, chúng tôi phân tíchba giai đoạn phát triển của thể loại
văn học trung đại Việt Nam nhìn từ hiện tượng song ngữ.


19

Giai đoạn đầu chủ yếu là các thể loại tiếp thu nước ngoài (chủ yếu là
Trung Quốc). Đây là giai đoạn có tính chất mở đầu đặt nền móng vững
chắc và toàn diện cho văn học Việt Nam thời trung đại.
Giai đoạn tiếp theo là sự tồn tại song song của các thể loại tiếp thu
với thể loại dân tộc hóa. Nếu như giai đoạn đầu thể loại văn học trung đại
Việt Nam gắn với việc sử dụng chữ Hán văn ngôn thì giai đoạn thứ hai này
thể loại văn học trung đại Việt Nam gắn với việc sử dụng chữ Nôm.
Giai đoạn cuối cùng, những thể loại văn học nội sinh phát triển mạnh
mẽ. Giai đoạn này chữ Nôm phát triển với vị trí ưu thắng, ngôn ngữ văn
học tiếng Việt trưởng thành vượt bậc. Cùng với vốn từ Hán – Việt đã được
Việt hóa và sử dụng thuần thục như tiếng Việt, thì những lời ăn tiếng nói
hàng ngày của nhân dân lao động đã đi vào văn học, hòa vào hệ thống
ngôn ngữ thơ ca tiếng Việt. Xu hướng này làm giảm dần những quy phạm
mang tính ước lệ do tiếp thu từ văn hóa Hán khiến ngôn ngữ văn học trở
nên uyển chuyển, mềm mại, giàu sức biểu cảm và gần với hiện thực cuộc
sống. Có thể nói, suốt gần mười thế kỉ văn học trung đại, chưa bao giờ
ngôn ngữ văn học lại được dân tộc hóa, dân chủ hóa như giai đoạn này.

4.1.2. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học tiếp thu từ văn
học Trung Quốc
Ở phần này, tác giả luận án phân tích các vấn đề sau:
- Hiện tượng sáng tác bằng chữ Hán và song ngữ Hán - Nôm với một
số thể loại văn học chức năng;
- Hiện tượng sáng tác bằng chữ Hán và song ngữ Hán - Nôm với một
số thể loại văn học nghệ thuật;
- Hiện tượng song ngữ ở các thể loại văn học dân tộc hóa với thơ
Nôm Đường luật và truyện thơ Nôm Đường luật;
- Hiện tượng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh như: truyện
thơ, ngâm khúc, hát nói.
4.2. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ VỚI NGÔN NGỮ TRONG VĂN
HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
4.2.1. Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn
học trung đại Việt Nam từ phƣơng diện ngôn ngữ


20

Ở mục này, chúng tôi khái quát quá trình phát triển của hiện tượng
song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam từ phương diện ngôn ngữ
thành hai quy luật: Thứ nhất, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam ở phương diện ngôn ngữ đi từ sáng tác chữ Hán là chủ yếu, tiếp
đến là sử dụng chữ Nôm trong sáng tác cuối cùng là việc sáng chữ Nôm
giữ vai trò ưu thế; Thứ hai, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam ở phương diện ngôn ngữ đi từ yếu tố Hán với ngôn ngữ sách vở,
bác học, đậm tính chất tao nhã, uyên bác đến yếu tố Nôm với ngôn ngữ
càng gần đời sống, tự nhiên bình dị.
4.2.2. Vấn đề xử lí các yếu tố ngoại nhập và nội sinh trên phƣơng
diện ngôn ngữ ở hiện tƣợng song ngữ

Ở phần này, người viết phân tích ngôn ngữ Hán trong văn học trung
đại Việt Nam với việc sử dụng chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học trong
tác phẩm văn chương của một số tác giả song ngữ tiêu biểu;
Đồng thời phân tích ngôn ngữ dân tộc trong văn học trung đại Việt
Nam của một số tác giả song ngữ tiêu biểu với việc sử dụng lớp từ Việt và
ngôn ngữ văn học dân gian như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, sử dụng khẩu
ngữ, thường được xem là thành phần ngôn ngữ bình dân; Cũng như phân
tích mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc xét theo
cả hai chiều ảnh hưởng từ Hán sang Việt và từ Việt sang Hán.
TIỂU KẾT
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện sâu
sắc trên phương diện thể loại và phương diện ngôn ngữ. Sự phát triển thể
loại nhìn từ hiện tượng song ngữ có diễn tiến: từ các thể loại tiếp thu với
ngôn ngữ Hán, qua thể loại dân tộc hóa với việc sử dụng tiếng Việt – chữ
Nôm, đến thể loại văn học nội sinh với vị trí ưu thắng của tiếng Việt –
chữ Nôm. Hiện tượng song ngữ ở các thể loại viết bằng văn biền ngẫu
gồm hịch và văn tế trong khi các thể loại văn biền ngẫu khác như biểu,
chiếu, cáo được viết hoàn toàn bằng chữ Hán. Ở thể loại văn xuôi, hiện
tượng song ngữ xảy ra ở thể loại truyện truyền kỳ còn các thể loại văn
xuối khác được viết bằng chữ Hán. Hiện tượng song ngữ phát triển mạnh
mẽ nhất ở thể loại văn vần như thơ, phú, truyện thơ và ngâm khúc. Trong


21

đó, thơ là thể loại biểu hiện rõ nhất và mạnh nhất của hiện tượng sáng tác
bằng song ngữ Hán Nôm với sự hình thành và phát triển của thơ Nôm
Đường luật - thể loại dân tộc hóa thành công nhất trong lịch sử văn học
trung đại Việt Nam. Quá trình vận động và phát triển của hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam trong ở giai đoạn cuối đánh dấu sự

phát triển của các thể loại văn học nội sinh như truyện thơ, ngâm khúc và
hát nói. Ở các thể loại này, chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ưu thế, các tác
phẩm viết bằng chữ Hán rất ít, nhất là ở thể loại tự sự bằng văn vần như
thể loại truyện thơ. Đồng thời ở các tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm thì
những từ Hán Việt cũng xuất hiện với một tần số không nhiều.
Trên phương diện ngôn ngữ, hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam có sự tồn tại song song giữa ngôn ngữ Hán và ngôn
ngữ dân tộc (chữ Nôm). Các yếu tố ngôn ngữ Hán bao gồm từ ngữ Hán,
điển cố và thi liệu Hán học. Trong khi đó, ngôn ngữ dân tộc với khẩu
ngữ, tục ngữ, thành ngữ và ca dao. Các yếu tố Hán và Nôm về ngôn ngữ
không chỉ tồn tại độc lập nhau mà còn có sự tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Tất nhiên ảnh hưởng theo chiều từ Hán sang Nôm vẫn mạnh mẽ
hơn so với chiều ngược lại từ Nôm sang Hán.
KẾT LUẬN
1. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một
hiện tượng vừa có tính đặc thù vừa có tính phổ quát. Hiện tượng song ngữ
là một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn học Việt Nam từ thế kỷ X
đến hết thế kỷ XIX, hiện tượng này cũng mang tính phổ quát, vì ở văn học
các nước trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán như Triều
Tiên/ Hàn Quốcvà Nhật Bản cũng có hiện tượng vừa sáng tác bằng ngôn
ngữ vay mượn (chữ Hán) vừa sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa (chữ Ydu,
Hangul ở Hàn Quốc/Triều Tiên, chữ Kana trong văn học Nhật Bản). Cần
lưu ý rằng, ngôn ngữ vay mượn (chữ Hán) là tử ngữ tức là chữ Hán văn
ngôn chứ không phải là một sinh ngữ (chữ Hán bạch thoại). Tương tự như
thế, ở một số nước phương Tây như Anh, Pháp, Ý, Đức,… cũng có hiện
tượng vay mượn tiếng Latinh (cũng là một tử ngữ) để sáng tác văn học bên


22


cạnh ngôn ngữ bản địa. Nghiên cứu về hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam chưa thật nhiều và cũng chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện hiện tượng song ngữ.
2. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam được hình
thành trên những cơ sở lịch sử, xã hội nhất định, đó là lịch sử hình thành
văn học viết bằng chữ Hán khi nước nhà bước vào thời kỳ độc lập tự chủ
lâu dài. Niềm tự hào và ý thức dân tộc của con dân một nước có truyền
thống văn hóa và truyền thống lịch sử đã thôi thúc các thế hệ cha ông sử
dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học từ thế kỷ XIII. Đây cũng là dấu mốc
thời gian của sự xuất hiện hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam. Hiện tượng này dựa trên những tiền đề về tư tưởng, văn hóa và
thẩm mĩ mang ảnh hưởng của Nho giáo, của xã hội phong kiến, của ý thức
dân tộc. Những chính sách về ngôn ngữ của các triều đại phong kiến trong
việc duy trì địa vị độc tôn và chính thống của chữ Hán cũng như chính
sách khuyến khích sử dụng chữ Nôm và coi trọng chữ Nôm của một số
triều đại trong lịch sử cũng là một yếu tố góp phần cho sự tồn tại song
song của cả hai bộ phận văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng
chữ Nôm. Cùng với đó, bản thân chữ Nôm, trong quá trình vận động và
phát triển cũng cho thấy những ưu điểm và hạn chế trong quá trình sáng
tác. Do đó, mặc dù với tư cách là ngôn ngữ của dân tộc nhưng chữ Nôm
cũng không thể đủ sức đánh bật chữ Hán để thay vào vị trí độc tôn và
chính thống đó. Tuy nhiên chữ Nôm cũng chiếm được những ưu thế nhất
định trong giai đoạn cuối với sự xuất hiện của những thể loại văn học nội
sinh. Bất kỳ một hiện tượng nào cũng có quá trình hình thành, vận động,
biến đổi và phát triển với những quy luật riêng của nó. Hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là song ngữ
bất bình đẳng. Khi viết về những vấn đề lớn lao, về quốc gia, về dân tộc,
“chở đạo”, “nói chí”, những đề tài cao cả, tao nhã người ta thường sử dụng
chữ Hán. Trong khi đó, người ta thường lựa chọn chữ Nôm để viết về

những vấn đề giản dị, thông tục, đời thường. Văn học sáng tác bằng chữ
Hán được coi trọng và mang tính chính thống. Ngược lại, văn học chữ


23

Nôm có khi bị coi nhẹ, thậm chí có khi không được coi là những sáng tác
văn chương đích thực mà sáng tác chỉ để giải trí, mua vui. Tuy nhiên, với
những tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,… văn học sáng tác
bằng chữ Nôm vẫn được coi là những sáng tác văn chương đích thực.
Những tác giả này luôn có một sự tìm tòi sáng tạo, cách tân và dụng tâm
sâu sắc ở những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Nhiều tác phẩm của
họ được liệt vào hàng kiệt tác.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có thể chia làm
ba giai. Giai đoạn mở đầu, từ thế kỷ X – XIV với các sáng tác bằng chữ Hán
văn ngôn là chủ yếu. Đến cuối thế kỉ XIII, lịch sử văn học đã ghi nhận việc
sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn chương. Kể từ đây, văn học Việt Nam
trung đại Việt Nam tồn tại song song hai bộ phận văn học: một bộ phận viết
bằng ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán và một bộ phận viết bằng ngôn ngữ
dân tộc là chữ Nôm. Giai đoạn hai, từ thế kỷ XV – XVII, đây là giai đoạn
phát triển nở rộ của hiện tượng song ngữ với việc Việt hóa thành công thể
thơ Đường luật. Giai đoạn này cũng xuất hiện của nhiều thi tập lớn viết bằng
chữ Nôm như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; Hồng Đức quốc âm thi tập
của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức; Bạch Vân quốc ngữ thi
tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giai đoạn cuối, từ thế kỷ XVIII –
hết thế kỷ XIX, đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tượng song ngữ
với sự ưu thắng của tiếng Việt, chữ Nôm.
3. Trong các mối quan hệ ảnh hưởng qua lại, hiện tượng song ngữ thể
hiện rõ nhất ở loại hình tác giả. Trong văn học trung đại Việt Nam có một

loại hình tác giả vừa sáng tác bằng chữ Hán vừa sáng tác bằng tiếng Việt –
chữ Nôm. Tiêu biểu trong số này phải kể đến những tên tuổi như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến. Tác giả song
ngữ có những đặc điểm như: Loại hình tác giả song ngữ với xuất thân nho
học và khoa bảng; Loại hình tác giả song ngữ gắn với bối cảnh lịch sử, xã hội
buổi giao thời; Loại hình tác giả song ngữ gắn với kiểu nhà nho hành đạo và
nhà nho ẩn dật; Loại hình tác giả song ngữ với tư tưởng, quan điểm nghệ
thuật của nho gia. Nghiên cứu về loại hình tác giả song ngữ còn cho thấy sự


×