Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ YẾN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ YẾN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS,TS. NGHIÊM XUÂN MINH

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Nguyễn Thị Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ....... 8
1.1. Cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố, thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân ........................................ 8
1.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân ............................................................................................. 18
1.3. Yêu cầu trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..................................................................... 27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI.................................................................................... 32
2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ........................ 32

2.2. Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 đến tháng
12/2018 ...................................................................................................................... 39
2.3. Nhận xét, đánh giá về hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi............................. 51
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI ............ 58
3.1. Tình hình tội phạm hình sự và yêu cầu đối với công tác thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi ........................................................................................................ 58
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự trong thời gian tới ................................................................. 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CB, CC


Cán bộ, công chức

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự


UBKS

Ủy ban kiểm sát

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê về số liệu công bố cáo trạng/ số vụ án đã xét xử ........................5
Bảng 2.3. Thống kê số vụ án/bị can Tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung ...........................5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một trong
những hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được Hiến pháp
năm 2013 ghi nhận tại khoản 1 Điều 107 và khoản 2 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014 qui định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp” [10]; “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện

kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự...” [12]. Như vậy hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là một hình thức thực hành quyền
lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Đây cũng là một trong những biện
pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời thể hiện quan điểm đường lối của Đảng,
Nhà nước ta nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát
hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, hạn chế
được việc truy tố oan sai, kịp thời xử lý các hành vi phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể; các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân đều được xử lý nghiêm theo quy định của pháp
luật; góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an ninh
trật tự, an toàn xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo môi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế. Những kết quả đó đã được ghi nhận từ xã hội,
sự lãnh đạo của Đảng trong các văn kiện của Đảng, trong tổng kết của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Một số vụ
1


án truy tố oan, sai gây bức xúc trong nhân dân, nhiều trường hợp còn bỏ lọt tội
phạm, kiểm sát viên làm chưa tốt công tác chuẩn bị cho hoạt động xét xử, chất
lượng xét hỏi, tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa còn hạn chế chưa đáp ứng
được yêu cầu của cải cách tư pháp,...làm cho hiệu quả xét xử của Tòa án chưa cao,
ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm... Để thực hiện mục tiêu

xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước
hiện đại hóa mà trọng tâm là hoạt động xét xử, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải
cách tư pháp trong thời gian tới: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại
phiên toà, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác” [3, tr.3]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị
tiếp tục xác định trong lĩnh vực tư pháp, “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm”; yêu cầu phải“nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” [4, tr.9]; “...
việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên,
của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Đảng yêu cầu phải “nâng cao chất
lượng công tố tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Do vậy, việc nâng cao chất lượng
hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện
kiểm sát là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Mặt khác, trước chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước Việt Nam
hiện nay vẫn còn có nhiều quan điểm lý luận khác nhau về thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nên dẫn đến có các lý giải khác nhau, đa số các quan điểm cho
rằng thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự
nhưng cũng có quan điểm cho rằng thực hành quyền công tố được thực hiện trong
cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, kinh tế, lao
động... Thời điểm bắt đầu và kết thúc của thực hành quyền công tố cũng chưa được
2


nhận thức thống nhất. Ngay trong tố tụng hình sự cũng có quan điểm cho rằng thực
hành quyền công tố có trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; quan điểm khác

lại cho rằng thực hành quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà
thôi...Nhìn chung, mỗi quan điểm đều được lí giải trên cơ sở các quy định của pháp
luật và thực tiễn, vì vậy cần có văn bản chỉ rõ hoạt động này thuộc chức năng của
Viện Kiểm sát ở góc độ quy định của nhà nước. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập
từ quy định của pháp luật, khoa học cũng như thực tiễn là: Thực hành quyền công tố
chỉ là hình thức thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
dẫn đến xem nhẹ bản chất của thực hành quyền công tố như là hoạt động độc lập
của Viện kiểm sát được nhà nước uỷ quyền; đánh đồng thực hành quyền công tố với
kiểm sát việc tuân theo pháp luật dẫn đến mở rộng phạm vi thực hành quyền công
tố sang cả các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế...; thu hẹp phạm vi thực
hành quyền công tố chỉ có trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ
đó hạn chế quyền hạn cũng như trách nhiệm của Viện kiểm sát như là cơ quan có
trách nhiệm chính trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Xuất phát từ những lý do trên và từ nhận thức lý luận về việc nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm
sát là một trong những vấn đề quan trọng, cần được quan tâm hơn nữa cả lý luận và
thực tiễn, nhất là chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân tỉnh Quảng Ngãi. Là một kiểm sát
viên công tác trong ngành kiểm sát nhân dân, học viên đã chọn đề tài: “Thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành luật hình
sự và tố tụng hình sự là đảm bảo tính cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ nhu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc
nghiên cứu về hoạt động thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà
nước. Theo đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
3



số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề cập
nhiều nội dung mới, trong đó có nội dung về hoạt động xét xử sơ thẩm trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự nên luận văn được nghiên cứu theo hướng gắn chặt với yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Qua nghiên cứu, học viên nhận thấy, có nhiều công trình khoa học đề cập đến
nội dung này, cụ thể là một số công trình sau:
- Luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở
Việt Nam hiện nay”, của Vũ Hồng Điệp, năm 2010;
- Luận văn thạc sỹ“Hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm”, của Võ Thị Hồng Luyến, năm
2010;
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định”, của
Nguyễn Hữu Phước (2016). Đề cập một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nêu lên thực trạng
vấn đề này tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi”, của Trương
Thị Thu Thắm (2017). Đã nêu một số vấn đề về lý luận và thực trạng về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thâm vụ án hình sự.
Ngoài ra còn có các nghiên cứu là sách, bài viết có liên quan đến vấn đề này
như: “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của Nguyễn Hải
Phong chủ biên, NXB Tư Pháp 2013; Sách “Những nội dung mới trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015”, NXB Chính trị quốc gia của Lê Hữu Thể.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập tới thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở một số địa phương

và đề xuất các giải pháp gắn liền với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương đó.
4


Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này ở cấp độ luận
văn thạc sỹ. Các kết quả trên là cơ sở để tác giả kế thừa có chọn lọc, vận dụng vào
các nội dung của luận văn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi, để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố nói
chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các vấn đề sau
đây:
- Thu thập tài liệu, số liệu về tình hình hoạt động thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích, đánh giá, nhận xét về thực trạng, kết quả và những hạn chế, tồn tại
trong hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2014 đến nay.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi theo tinh thần cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
5


Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo qui
định của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Phạm vi về không gian:
Nghiên cứu hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại Viện kiểm sát nhân tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về thời gian:
Số liệu sử dụng để nghiên cứu được tổng hợp từ kết quả thống kê từ năm 2014
đến hết năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và
pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được kết hợp sử dụng nhiều phương pháp như: Phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn, tổng kết để làm sáng tỏ các nội
dung nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghiã lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động thực
hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Những vấn đề ảnh hưởng

đến hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó,
luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu, học tập
6


liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền
công tố trong xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, luận văn
còn là cơ sở cho cán bộ, kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân sử dụng để xây
dựng kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
liên quan đến vấn này trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có phần mở đầu, nội dung, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi.

7


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố, thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm về quyền công tố, thực hành quyền công tố của Viện
Kiểm sát nhân dân
Quyền công tố, thực hành quyền công tố
Theo từ điển tiếng Việt thì quyền công tố là quyền của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền dùng để điều tra, truy tố và buộc tội đối tượng phạm pháp trước Tòa
án hay là quyền truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật.
“Công tố” theo Đại từ điển tiếng Việt, “công” có nghĩa là “thuộc về Nhà
nước, tập thể, trái với tư ”, còn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của
người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều
người”, “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát
biểu ý kiến trước Tòa án” [47, tr. 453, 459,1663].
Ở nước Việt Nam “quyền công tố”, “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên
được qui định tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980 và được phát triển hóa trong Bộ
luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trong khoa học luật tố
tụng hình sự, việc xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là thực hành quyền
công tố có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giúp cho việc xác định vai
trò, vị trí của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong các
cơ quan tư pháp nói riêng; xác định rõ chức năng của Viện kiểm sát, đặc biệt là
trong tố tụng hình sự.
Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã được đề cập nhiều
trong khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau. Có tác giả đề cập khi giải
quyết các vấn đề chung của tố tụng hình sự [25]; có những bài viết có tính chất
tham khảo phân tích có hệ thống về quyền công tố và gần đây có một số luận văn
thạc sĩ cũng đề cập quyền công tố trong từng phạm vi khác nhau (trong giai đoạn
8



điều tra, trong xét xử sơ thẩm...). Mặc dù vậy có nhiều quan điểm khác nhau về
quyền công tố của Viện kiểm sát. Có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “ tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố” [18, tr.17]. Quan điểm
này đánh đồng quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
sát.
Quan điểm thứ hai cho rằng “quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa
(thực hiện quyền công tố)” [27, tr.24]. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất
của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố và chỉ thực hiện duy nhất trong tố
tụng hình sự và cũng chỉ có ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án.
Quan điểm thứ ba cho rằng “quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước,
xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [28, tr.84]. Theo quan điểm này, quyền
công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện trong lĩnh vực tố
tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật nên quyền công
tố được mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính....
Quan điểm thứ tư cho rằng “ quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối
với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm
pháp luật dân sự, luật kinh tế, luật hình sự và là quyền của Nhà nước thực hiện sự
cáo buộc đó” [9, tr.24]. Theo quan điểm này, quyền công tố của Nhà nước không
chỉ được thực hiện trong tố tụng hình mà còn được thực hiện cả trong tố tụng dân
sự, kinh tế, lao động và hành chính.
Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước được
giao cho Viện kiểm sát để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, nhằm đưa người đó ra xét xử và thực hiện sự buộc tội người đó
trước Tòa án [33, tr.140].
Các quan điểm trên đều có các cơ sở đề cập đến quyền công tố ở các góc độ

khác nhau, tuy nhiên ở góc độ thực tiễn thực hiện công tác này, tác giả đồng tình
9


với quan điểm thứ năm vì quan điểm này phù hợp với kết quả nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam. Trong
điều kiện cụ thể, quan điểm này giúp ta xác định được: Quyền công tố là quyền của
Nhà nước giao cho Viện kiểm sát; quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng
hình sự; nội dung của quyền công tố là truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối
với người phạm tội; quyền công tố gắn liền với một tội phạm cụ thể; nó bắt đầu từ
khi có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Trong
thực tế quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và
kết thúc khi Tòa án tuyên bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích trên, học viên đưa ra khái niệm về quyền công tố là:
“Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhằm truy tố người phạm
tội ra trước Tòa án nhân dân để xét xử và thực hiện việc buộc tội đối với người đó
tại phiên tòa đảm bảo đúng qui định của pháp luật”.
Xuất phát từ khái niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nên thực
hành quyền công tố chính là thực hiện hành vi tố tụng cần thiết theo qui định của
Luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ra xét xử
trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tại Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 2014 thì: “ Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật trong chính sách hình sự nước
ta là Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đã bổ sung chế định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Trong đó quy định về cơ sở của

trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xử lý về hình sự là không chỉ có cá nhân mà
pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ có pháp nhân thương
mại đã thực hiện tội phạm theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật hình sự mới phải
chịu trách nhiệm hình sự về 31 tội danh, thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản
10


lý kinh tế và nhóm các tội phạm về môi trường. Về nguyên tắc xử lý mọi hành vi
phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật, bảo đảm tính pháp chế trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Việc bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân vào Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xuất phát từ yêu cầu
cấp bách của thực tiễn nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc
xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời gian qua, đồng thời tạo điều
kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân
gây ra. Như vậy, pháp nhân thương mại qui định trong Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 phải chịu sự điều chỉnh của hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân đó chính là là quyền nhân danh quyền lực nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, pháp
nhân phạm tội nên thực hành quyền công tố cũng chính là thực hiện hành vi tố tụng
cần thiết theo qui định của Luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội, pháp nhân phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội
đó.
1.1.2. Cơ sở pháp lý trong thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát
nhân dân
Cơ sở pháp lý của thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát được qui định
tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố...”; Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định“Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố…trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát
hiện .......nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội,

vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh...”[5
tr.19]. Như vậy, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự nhằm thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Theo đó, Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội
phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng
11


người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm
và người phạm tội...
Trên cơ sở nhận thức về quyền công tố, thực hành quyền công tố được hiểu
như thế nào? Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
nêu khái niệm về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát như sau:
“Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
1.1.3. Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Viện Kiểm sát nhân dân
1.1.3.1. Nhận thức về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực hành quyền công tố
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
- Khái niệm xét xử và xét xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất
pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ
việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất,
mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, hành
chính,kinh doanh, thương mại, lao động...).[27]
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Tòa

án là cơ quan duy nhất của một nước đảm nhiệm chức năng xét xử. Không một ai
có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được
công bố bằng bản án, quyết định. Chia theo nội dung xét xử có: Xét xử vụ án hình
sự, xét xử dân sự, xét xử hành chính, xét xử lao động… Khi xét xử các Tòa án phải
tuân theo các nguyên tắc: Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định; Tòa
án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Như vậy, xét xử là quá trình áp dụng các qui định của pháp luật để kiểm tra lại
một cách chính xác, tính căn cứ và tính hợp pháp các quyết định, kết luận của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện trước khi chuyển vụ án qua Tòa án, nhằm
12


loại bỏ những sai lầm, tiêu cực hoặc bỏ lọt tội phạm trong quá trình khởi tố, điều tra
và truy tố, để đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Theo Từ điển luật học giải thích thì: “ Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ
án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền ” [27, tr.870]. Phạm vi xét xử sơ thẩm
bao gồm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động,..., đặc trưng của xét xử sơ
thẩm là lần đầu tiên xét xử đối với vụ án, do Tòa án có thẩm quyền xét xử. Hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là một trong những hoạt động trung tâm của
hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động truy tố của Viện kiểm sát là căn cứ pháp lý
cho hoạt động xét xử, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án khi ban hành
đúng pháp luật và là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án.
Như vậy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự mà Tòa án sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã quyết định đưa vụ án hình sự ra xét
xử công khai tại phiên tòa, nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội, người
đã thực hiện tội phạm, từ đó đưa ra một phán quyết phù hợp với căn cứ, tính chất
của vụ án mà Viện kiểm sát đã quyết định truy tố. Có thể thấy, hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm cơ bản là: Nó là một giai đoạn của tố tụng

hình sự có tính bắt buộc; xét xử lần đầu đối với vụ án; vụ án được đưa ra xét xử
công khai; kết quả của việc xét xử là việc ban hành bằng một bản án, quyết định có
căn cứ và đúng pháp luật, góp phần vào việc giải quyết đúng đắn vụ án, bảo đảm
công lý, sự công bằng trong xã hội. Như vậy, từ những phân tích trên xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự được hiểu là: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của
tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án,
ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”.
- Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Học viên đồng tình với một số tác giả về nội dung này tại các công trình [19,
tr.22] và [7, tr.12]. Giai đoạn xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất
trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào quy
định của pháp luật tố tụng hình sự: Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử;
đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án,
13


đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai, dân chủ của các bên (buộc tội và
bào chữa) để phán xét về vấn đề hành vi phạm tội ( có hay không), có (hay không)
tội của bị cáo và cuối cùng, tuyên một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh, đúng pháp luật và
đảm bảo sức thuyết phục.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án hình sự
( quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án của Viện kiểm sát ) do Viện kiểm sát
chuyển sang và kết thúc bằng việc Tòa án tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực
pháp luật. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng trung tâm, độc lập,
thực hiện các nhiệm vụ luật định, áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn
bị cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa, còn phiên tòa sơ thẩm là nơi thể hiện rõ nhất
nội dung của hoạt động tố tụng hình sự, thông qua đó nhằm bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân trong giai đoạn xét xử của Tòa án.
- Khái niệm về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

của Viện Kiểm sát nhân dân
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thực hiện
bởi cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát, thực hiện việc truy tố bị can ra trước Tòa án,
trên cơ sở kết quả điều tra, thu thập chứng cứ và chứng minh được người phạm tội ở
các giai đoạn trước đó. Thực hiện việc buộc tội và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa là
đặc điểm quan trọng nhất của thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự vì nó thể hiện đầy đủ nhất quyền năng của Viện kiểm sát tại phiên tòa được
thực hiện thông qua người đại diện của Viện kiểm sát là Kiểm sát viên. Từ những
phân tích nêu trên học viên đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự: Là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm đưa người phạm
tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa.
- Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
Nghiên cứu khái niệm về thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự cuả Viện kiểm sát thấy có một số đặc điểm cơ bản sau: Thực hành quyền
14


công tố chỉ được thực hiện bởi cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát; Việc truy tố bị
can ra trước Tòa án trên cơ sở kết quả điều tra, thu thập chứng cứ và chứng minh ở
các giai đoạn trước đó; Việc buộc tội bị cáo tại phiên tòa trên cơ sở pháp luật quy
định và được thực hiện thông qua người đại diện của Viện kiểm sát là kiểm sát viên;
Đối tượng của thực hành quyền công tố là hành vi phạm tội và người phạm tội.
Đối với hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của Viện kiểm sát cấp tỉnh, về trình tự, thủ tục thực hành quyền công tố trong xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự giữa các cấp Viện kiểm sát là giống nhau, nhưng về
phạm vi thẩm quyền thực hành quyền công tố lại có sự khác nhau. Thẩm quyền truy
tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ
án. Tại khoản 2 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền

xét xử như sau:“ Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử
sơ thẩm những vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; vụ án hình sự có bị cáo, bị hại,
đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài;…, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín
cao trong dân tộc ít người”. Như vậy, thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh chỉ giới hạn tại khoản khoản 2 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015.
Ngoài ra, Viện kiểm sát cấp tỉnh còn thực hiện việc ủy quyền thực hành
quyền công tố theo qui định của pháp luật. Tại đoạn 3 khoản 1 Điều 239 Bộ luật tố
tụng hình sự qui định: “Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố….
Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho
Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận
được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền
thực hành quyền công tố và …theo đúng quy định của Bộ luật này ” [6, tr.217].

15


1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chức năng có nhiều nghĩa khác nhau, có thể hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt
động, chức năng, vai trò hoặc có thể hiểu là loại hoạt động đặc biệt của sinh vật và
của các cơ quan, tế bào của sinh vật đó… Tùy theo ngữ cảnh cụ thể mà áp dụng cho
phù hợp, nhưng nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt động để thực
hiện nhiệm vụ của mình.Trong tiến trình phát triển, nhà nước giao cho mỗi cơ quan
trong bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền khác nhau để thực

hiện nhằm đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Vì thế, trong hệ
thống các cơ quan nhà nước cấu thành nên bộ máy nhà nước đều có nhiệm vụ, chức
năng, thẩm quyền do pháp luật quy định. Như vậy, chức năng của các cơ quan nhà
nước là những hoạt động cơ bản lâu dài có tính chất định hướng để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ trong phạm vi thẩm quyền nhằm đạt được những mục đích nhất
định.
Ở Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Viện kiểm sát nhân dân chính
thức được qui định với tư cách là cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước. Theo
Hiến pháp 1959, thì Viện kiểm sát không những có chức năng công tố mà còn có
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế,
xã hội... Chức năng đó của Viện kiểm sát tiếp tục được khẳng định theo lịch sử, với
sự phát triển của đất nước. Điều này thể hiện ở Hiến pháp năm 1980, năm 1992 và
các bản Hiến pháp sau này. Tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [10]. Tại
Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã thể hiện rõ Viện kiểm sát
nhân dân có chức năng là: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội.... và trong suốt quá
trình …truy tố, xét xử vụ án hình sự” [11, tr.8 ]. Như vậy Viện kiểm sát là cơ quan
có chức năng thực hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự, tức là nhân danh quyền lực nhà nước để truy tố, buộc tội người phạm tội với tư
16


cách là bị cáo trước Toà án. Điều này được thể hiện rõ nét ở giai đoạn điều tra và
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Viện kiểm sát
thực hiện việc truy tố người có hành vi vi phạm pháp luật ra trước Toà án để xét xử
và buộc tội tại phiên toà theo quy định của pháp luật và theo trình tự thủ tục của Bộ
luật tố tụng hình sự. Đây là chức năng đặc biệt, chỉ có có ở hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát chứ không phải cơ quan nào khác, như ý kiến của Cố Tổng bí thư Trường

Chinh đã nói: “ Không có một cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm
sát để sử dụng quyền công tố. Việc bắt, giam, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng hay
không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, đảm bảo cho tốt ”. Cụ thể
hoá quy định của Hiến pháp năm 2013 về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân,
Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
nói riêng. Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “ Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,
quyết định việc buộc tội, ...., vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, ...không để lọt tội phạm và
người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [5]. Chức năng
thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm của Viện kiểm sát được tập trung chủ
yếu và rõ nét nhất ở chức năng buộc tội, bảo vệ quyết định truy tố của mình. Đây là
chức năng cơ bản của Viện kiểm sát tại phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên, chức năng
buộc tội chỉ là một hình thức của chức năng thực hành quyền công tố. Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ là chủ thể
thực hiện chức năng buộc tội mà còn thực hiện các hoạt động khác. Giữa chức năng
công tố (chức năng nhà nước) và chức năng buộc tội (chức năng tố tụng) có mối
quan hệ mật thiết nhau. Chức năng công tố trong xét xử không chỉ thực hiện thông
qua chức năng buộc tội tại phiên tòa mà còn được thực hiện thông qua các hoạt
động khác như kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.
Tóm lại, Viện kiểm sát là chủ thể trung tâm thực hành quyền công tố trong tố
tụng hình sự. Trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng thực hành quyền công
17


tố là chức năng cơ bản xuyên suốt. Nếu trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực
hành quyền công tố chính xác, đúng pháp luật sẽ đảm bảo pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh, công bằng, bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân , nhà nước.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đó là những hoạt động của Viện kiểm sát từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi Tòa
án ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Theo qui định tại Điều 18
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, khoản 1Điều 266 Bộ luật tố tụng
hình sự thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự bao gồm các hoạt động sau: Công bố
cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc
tội đối với bị cáo tại phiên tòa; Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong
trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; Thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn... của Bộ luật tố tụng hình sự [12, tr.26].
1.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn,
quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa
Cáo trạng là văn bản pháp lý mang tính quyền lực Nhà nước – Quyền công
tố, do Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước quyết định truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời,
đúng pháp luật, tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; bản cáo trạng là một trong
những căn cứ để Tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thực hiện các
thủ tục cần thiết trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Theo quy định tại Điều 206 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, trước khi tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên đọc bản
cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có) để làm rõ thêm về nội dung bản cáo
trạng, chứ không phải là ý kiến mới bổ sung làm thay đổi nội dung bản cáo trạng
(trừ trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát đồng ý), vì bản cáo trạng truy tố bị can
ra trước Toà án thuộc thẩm quyền của Viện trưởng, kiểm sát viên chỉ là người được
18



Viện trưởng ủy quyền tham gia phiên toà để bảo vệ cáo trạng. Bản cáo trạng truy tố
của Viện kiểm sát là kết luận của Viện kiểm sát đối với người phạm tội, dựa trên
các chứng cứ tài liệu đã được thu thập khách quan, hợp pháp trong quá trình điều tra
vụ án và là cơ sở pháp lý làm phát sinh một giai đoạn mới của tố tụng hình sự, đó là
giai đoạn xét xử do Tòa án đảm nhiệm. “Cáo trạng do Viện kiểm sát truy tố trước
Toà án không chỉ là lý do hình thức tồn tại của giai đoạn xét xử sơ thẩm mà là đối
tượng trung tâm chi phối diễn ra trong giai đoạn này” [21, tr.143]. Hiện nay Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định đầy đủ và chính xác hơn về nội dung, từ
ngữ phù hợp với qui định tại Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đó là
sử dụng thuật ngữ: “công bố cáo trạng” thay thế “đọc cáo trạng”. Tại Điều 306
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trước khi tiến hành xét hỏi kiểm
sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến .....(nếu có). Ý kiến bổ sung
không làm xấu ...của bị cáo”[6].
Đối với vụ án áp dụng theo thủ tục rút gọn được thực hiện theo thủ tục
chung quy định tại 324 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tại Điều 463 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 qui định:” Sau phần thủ tục ... phiên tòa, kiểm sát viên công
bố ... truy tố” [6, tr.379], khi áp dụng thủ tục rút gọn thì không tiến hành nghị án.
1.2.2. Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ
1.2.2.1. Xét hỏi
Xét hỏi là hoạt động của kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm xác định lại sự thật
khách quan của vụ án, là hoạt động điều tra công khai tại phiên tòa với sự có mặt
của đầy đủ các đương sự liên quan đến vụ án hình sự, là hoạt động trung tâm của
hoạt động xét xử để xác định sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình xét hỏi
tại phiên tòa các chứng cứ, tài liệu liên quan đến nội dung vụ án đều phải được xem
xét, thẩm tra công khai; những mâu thuẫn giữa các lời khai, giữa lời khai với vật
chứng…phải được làm sáng tỏ để khẳng định và chứng minh bản chất của vụ án.
Việc tham gia xét hỏi là bắt buộc đối với kiểm sát viên, để tham gia xét hỏi tại phiên
tòa đạt hiệu quả; trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải dự thảo đề
cương xét hỏi và những nội dung cần làm sáng tỏ, nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án và các tình tiết khác có liên quan đến việc định tội và đề xuất hình

19


×