Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm tăng cường quản trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá Thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.62 KB, 140 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xây dựng cơ sở hạ tầng là nhu cầu cấp thiết trong quá trình hội nhập và
phát triển của đất nước ta. Sản phẩm của ngành xây dựng là những công trình
xây dựng như: nhà ở, đường xá, các nhà bảo tàng, các công trình văn hoá…
góp phần tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Tuy nhiên ngành xây
dựng hiện nay đang phải đối mặt với một vấn đề được toàn xã hội quan tâm
đó là sự thất thoát, lãng phí về chi phí và sự kém chất lượng của các công
trình xây dựng. Trước thực trạng đó Đảng và nhà nước ta đã ban hành các văn
bản về quản lý các công trình xây dựng.
Trong các ngành sản xuất nói chung và ngành xây lắp nói riêng, hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một khâu rất quan trọng
trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất là những
giá trị tài sản, vật tư, lao động tiêu hao trong quá trình sản xuất, là cơ sở cấu
tạo nên giá thành sản phẩm – chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm
tài sản vật tư, tiền vốn, lao động đi đôi với việc hạ thấp giá thành sản phẩm là
mục tiêu chung của toàn ngành xây lắp. Để đạt được điều đó chúng ta phải
quan tâm xem xét những cách thức quản trị chi phí để đem lại hiệu quả cao
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trong ngành xây lắp nói chung, xây lắp các công trình văn hoá như:
xây dựng tượng đài, xây dựng các nhà bảo tàng, nhà lưu niệm… lại mang
những đặc thù riêng của ngành. Chí phí trong xây dựng công trình văn hoá có
những tính chất riêng biệt như: chí phí nhân công cao (sáng tác các tác phẩm
nghệ thuật), vật liệu thi công mang tính đặc thù phải mua lẻ trên thị trường và
khó giám sát, kiểm tra chất lượng dẫn đến việc quản lý chi phí có hiệu quả và


2



tính chính xác giá thành sản phẩm gặp nhiều khó khăn hơn. Để quản lý chi
phí có hiệu quả và nâng cao chất lượng công trình yêu cầu công tác hạch toán
kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm phải được hoàn thiện.
Để nâng cao hiệu quả quản trị chi phí trong ngành xây lắp tác giả đã lựa
chọn nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm nhằm tằng cường quản trị chi phí tại các doanh nghiệp
xây lắp thuộc Bộ Văn hoá Thông tin”. Trong đề tài của mình tác giả đã sử
dụng những kiến thức chung về kế toán quản trị và kế toán tài chính để
nghiên cứu hạch toán chi phí và tính giá thành với mục đích đáp đáp ứng tốt
hơn yêu cầu quản trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá
Thông tin trong điều kiện kinh tế thị trường.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Về mặt lý luận: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong các doanh nghiệp xây lắp dưới cả
hai góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị.
- Về mặt thực tế: Vận dụng lý luận nghiên cứu thực trạng hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới cả hai góc độ kế toán tài chính
và kế toán quản trị trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá Thông
tin.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí và tính giá
thành nhằm tăng cường quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc
Bộ Văn hoá Thông tin.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.


3


- Nghiên cứu thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá Thông tin.
- Nghiên cứu mức độ đáp ứng yêu cầu của công tác kế toán nhằm tăng
cường quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá
Thông tin.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá Thông tin: Công ty Mỹ
thuật Trung ương, Viện tu bổ di tích Trung ương, Công ty thiết kế xây dựng
công trình văn hóa. Thời gian nghiên cứu của đề tài tại các công ty là các năm
2005, 2006, 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp luận biện chứng duy vật, tức là xem
xét các sự vật, hiện tượng hay các mặt của một sự vật, hiện tượng trong mối
liên hệ tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau trong sự vận động và phát triển
không ngừng.
- Phương pháp cụ thể: Bao gồm các phương pháp hạch toán kế toán
(phương pháp chứng từ, phương pháp tài khoản, phương pháp tính giá,
phương pháp tổng hợp cân đối), các phương pháp phân tích kinh doanh
(phương pháp chi tiết, phương pháp so sánh, phương pháp liên hệ), các
phương pháp thống kê trong việc nghiên cứu mặt lượng của các sự vật hiện
tượng số lớn để tìm ra bản chất và tính quy luật của chúng như các phương
pháp điều tra chọn mẫu, các phương pháp toán (quy nạp, diễn dịch), phương
pháp đồ thị để minh họa các quá trình và kết quả nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn được chia thanh ba
chương:


4


Chương 1: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ Văn hoá
Thông tin.
Chương 3: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm nhằm tăng cường quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc
Bộ Văn hoá Thông tin.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tổ chức kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng tổ chức kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm đồng thời nêu rõ những tồn tại cần tiếp tục hoàn thiện
trong thời gian tới tại các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ VHTT&DL trong
công tác quản lý và kiểm soát chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Căn cứ vào hệ thống lý luận và khảo sát thực tế đề ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
cho các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ VHTT&DL đặc biệt về hệ thống báo
cáo quản trị chi phí.


5

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1 Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.
Chi phí nói chung là sự ghi nhận trên góc độ chủ sở hữu những gì đã bỏ

ra trong kỳ với kỳ vọng thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai. Những gì đã
bỏ ra chính là các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) đã được sử dụng (bị
tiêu hao) cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp sản xuất chi phí bỏ ra cho quá trình này được gọi
là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao
động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong
quá trình sản xuất trong một thời kỳ nhất định biểu hiện bằng tiền.
Chi phí là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có các đặc trưng sau:
- Chi phí chỉ có thể biểu hiện bằng tiền.
- Chi phí được tổng hợp theo từng kỳ nhất định (tuần, tháng, quý, năm).
- Chi phí chỉ được ghi nhận khi có xác nhận về việc sử dụng các nguồn
lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong doanh nghiệp cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu, thực chi, hao
phí.
Chi phí
- Có mục đích tạo ra thu nhập

Chi tiêu
- Không (hoặc chưa) tạo ra thu nhập

- Được bù đắp bằng thu nhập do nó - Được bù đắp bằng vốn quỹ đã có từ
tạo ra

trước.
Trong doanh nghiệp các khoản mua sắm tài sản, trang trải công nợ

không được coi là chi phí. Chi phí, chi tiêu cũng khác thực chi mặc dù hầu hết


6


mọi khoản chi phí và chi tiêu đều trực tiếp hay gián tiếp gắn với thực chi. Có
thể có các trường hợp xảy ra:
- Có thực chi sau mới có chi phí (nguyên vật liệu, khấu hao).
- Có chi phí sau mới có thực chi (tính trước chi phí bảo hành).
- Chi phí = thực chi (ví dụ chi phí tiếp khách)
Sự khác nhau giữa chi phí, chi tiêu và thực chi:
- Thực chi có sử dụng tiền để mua sắm tài sản, trang trả công nợ, thanh
toán dịch vụ, thu nhập, công tác phí...
- Chi phí, chi tiêu ghi nhận có sử dụng nguồn lực nhưng chưa chắc đã
chi tiền trong cùng một kỳ. Ví dụ khấu hao tài sản cố định dùng vào sản xuất
kinh doanh ghi nhận là chi phí (không thực chi), tính giá trị hao mòn tài sản
cố định phúc lợi (chi tiêu nhưng không thực chi).
Sự khác nhau giữa chi phí và hao phí:
Chi phí và hao phí đều thể hiện sự suy giảm các nguồn lực , tuy nhiên
hao phí có thể là sự suy giảm không mang lại thu nhập. Ngoài ra hao phí
không nhất thiết phải biểu hiện bằng tiền.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là toàn bộ chi phí về lao
động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình xây lắp và cấu thành
nên giá thành xây lắp.
1.2 Bản chất và chức năng của giá thành
Giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là chi phí sản xuất tính cho một
khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) do doanh nghiệp
sản xuất đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả
sử dụng tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng
như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, quản lý, kỹ thuật và công nghệ
mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng



7

sản xuất, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành còn là
một căn cứ quan trọng để định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh
lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự
chi ra cho sản xuất sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những
chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất phải được bồi
hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát
sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành
sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu hao cho
sản xuất và các tư liệu tiêu dùng khác có liên quan tới việc bù đắp đơn giản
hao phí lao động sống.
Mọi tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong
giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ,
không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất có liên
quan tới khối lượng xây lắp hoàn thành.
1.3 Đặc điểm của ngành xây lắp và ảnh hưởng của nó đến công tác hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất
công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Hoạt động
của ngành xây dựng bao gồm: xây dựng mới, mở rộng, khôi phục, cải tạo,
trùng tu các công trình xây dựng, các di tích. Thông thường, công tác XDCB
do các đơn vị xây lắp nhận thầu tiến hành. Để thực hiện công tác XDCB
người ta thường ký kết các hợp đồng xây dựng. Ngành sản xuất này có các



8

đặc điểm sau:
- Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc… có quy mô lớn,
kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài. Do vậy việc tổ
chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải có các dự toán thiết kế, thi công.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận
với Chủ đầu tư từ trước. Do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện
không rõ.
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất
phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm.
- Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay
phổ biến theo phương thức khoán gọn các công trình, hạng mục công trình,
khối lượng hoặc công việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (đội, xí
nghiệp). Trong giá khoán gọn, không chỉ có tiền lương mà còn có đủ các chi
phí về vật liệu, công cụ, dụng cụ thi công, chi phí chung của bộ phận nhận
khoán.
Do những đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm sản phẩm, đặc
điểm tổ chức sản xuất đã có ảnh hưởng đến công tác kế toán tại các doanh
nghiệp xây lắp. Xuất phát từ quy định về lập dự toán công trình xây dựng cơ
bản là phải lập theo từng hạng mục công trình và phân tích theo từng khoản
mục chi phí cũng như đặc điểm tại các đơn vị nhận thầu, hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành xây lắp phải chú ý những đặc điểm sau:
- Hạch toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo từng khoản mục
chi phí, từng hạng mục công trình, từng công trình cụ thể. Qua đó thường
xuyên so sánh, kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí, xem xét nguyên nhân
vượt, hụt dự toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh.
- Đối tượng hạch toan chi phí có thể là các công trình, hạng mục công
trình, từng công trình cụ thể. Qua đó thường xuyên so sánh, kiểm tra việc thực



9

hiện dự toán chi phí, xem xét nguyên nhân vượt, hụt dự toán và đánh giá hiệu
quả kinh doanh.
- Đối tượng hạch toán chi phí có thể là các công trình, hạng mục công
trình, các đơn đặt hàng, các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục… Vì
thế phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng mục hay giai
đoạn của hạng mục
- Giá thành công trình lắp thiết bị không bao gồm giá trị bản thân thiết
bị do Chủ đầu tư đưa vào để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh
nghiệp xây lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bởi vậy khi nhận
thiết bị do đơn vị Chủ đầu tư bàn giao để lắp đặt, giá các thiết bị được ghi vào
Bên Nợ TK 002 - “Vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công”
- Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật kết
cấu và giá trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thông gió, điều hoà
nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn…
1.4 Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp xây lắp dưới góc độ kế toán tài chính.
1.4.1 Phân loại chi phí sản xuất
Để quản lý và hạch toán chi phí sản xuất theo từng nội dung cụ thể,
từng đối tượng tính giá thành sản phẩm thì phải phân loại chi phí một cách
khoa học. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp sếp chi phí sản xuất vào từng
loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Trong các doanh
nghiệp xây lắp chi phí sản xuất kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều
tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý.
a/ Phân theo nội dung kinh tế ban đầu.
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban
đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh,

chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và


10

tính định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán
chi phí. Chi phí phân theo yếu tố bao gồm:
- Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên,
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ…
sử dụng vào sản xuất - kinh doanh.
- Yếu tố chi phí nhân công: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp
mang tính chất lương, BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên
tổng số tiền lương phải trả cho công nhân viên chức.
- Yếu tố chi phí khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ
phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất - kinh doanh.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ
mua ngoài dùng vào sản xuất - kinh doanh.
- Yếu tố chi phí bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí thể hiện trực tiếp
bằng tiền dùng vào hoạt động sản xuất - kinh doanh trong kỳ.
Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí có tác dụng quan trọng
đối với việc quản lý chi phí của lĩnh vực sản xuất: cho phép hiểu rõ cơ cấu, tỷ
trọng từng yếu tố chi phí, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện
dự toán chi phí sản xuất, làm cơ sở cho việc dự trù hay xây dựng kế hoạch
cung cấp vật tư, huy động tiền vốn, lập kế hoạch tiền lương…
b/ Phân theo công dụng của chi phí.
Cách phân loại chi phí sản xuất thông dụng nhất thể hiện rõ đặc điểm
của chi phí sản xuất xây lắp là phân loại theo mục đích, công dụng của chi
phí. Theo các phân loại này chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được
chia thành các khoản mục:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là giá mua các loại vật liệu chính,

vật liệu phụ, nhiên liệu, sử dụng vào hoạt động xây lắp trong kỳ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Là chi phí tiền lương cơ bản, các khoản


11

phụ cấp lương, lương phụ có tính chất ổn định phải trả công nhân trực tiếp sản
xuất xây lắp trong kỳ.
- Chi phí sử dụng máy thi công: Là khoản tiền doanh nghiệp phải bỏ ra
để sử dụng máy xây lắp bao gồm: chi phí khấu hao máy thi công, chi phí sửa
chữa thường xuyên máy móc thi công, chi phí động lực, tiền lương của công
nhân điều khiển máy và chi phí khác của máy thi công.
- Chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất trực tiếp khác như chi phí
cho bộ máy quản lý tổ, đội, các khoản trích BHYT, BHXH, KPCĐ của công
nhân trực tiếp sản xuất và công nhân thực hiện công tác quản lý …
Đối với ngành xây lắp do đặc điểm riêng biệt của sản phẩm xây lắp đòi
hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán phải lập dự toán. Giá thành dự toán của
một công trình, hạng mục công trình hay một khối lượng công việc gồm 4
khoản mục đã nêu ở trên, giá thành thực tế của quá trình xây lắp phải so sánh
với giá thành dự toán đã được lập và lấy đó làm thước đo.
b/ Phân theo cách thức kết chuyển chi phí (bù đắp chi phí)
Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được
chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi
phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra và được bù đắp khi những sản
phẩm đó bán được. Chi phí thời kỳ không gắn liền với giá trị sản phẩm được
sản xuất ra hoặc được mua vào nên phát sinh kỳ nào được bù đắp hết ngay
bằng lãi gộp trong kỳ của kỳ phát sinh.
c/ Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm
hoàn thành.
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm

căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi sản xuất - kinh doanh
lại được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách
này, chi phí được chia thành biến phí và định phí.


12

Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng
công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực
tiếp… Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm
thì lại có tính cố định. Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với
khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao tài sản
cố định, chi phí cho thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh… Các chi phí này
nếu tính cho 1 đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay
đổi.
Các phân loại này có tác dụng trong việc phân tích tình hình tiết kiệm
hay lãng phí chi phí và định ra phương pháp thích hợp để phấn đấu hạ thấp
chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm.
d/ Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí và đối
tượng chịu chi phí
Theo cách phân chia này người ta chia chi phí sản xuất của doanh
nghiệp thành:
- Chi phí tập hợp trực tiếp: là các chi phí có liên quan trực tiếp đến một
đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí phân bổ gián tiếp: Là chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng
chịu chi phí.
Cách phân loại này có ý nghĩa kinh tế đối với việc xác định phương
pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí.
e/ Phân loại chi phí theo mối quan hệ với quy trình công nghệ sản xuất:
- Chi phí trực tiếp: có liên quan trực tiếp với công nghệ sản xuất. Ví dụ:

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp...
- Chi phí gián tiếp (chi phí chung): không liên quan trực tiếp với công
nghệ sản xuất như chi phí nhân viên bán hàng, dụng cụ quản lý, vật tư quản lý
1.4.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp


13

Trong sản xuất xây lắp để đáp ứng yêu cầu quản lý, phân loại giá thành
được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.


14

a/ Phân loại giá thành xét theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá
thành.
- Giá thành dự toán: Là tổng số chi phí trực tiếp, gián tiếp tạo nên sản
phẩm tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực và theo các định mức kinh
tế kỹ thuật do Nhà nước ban hành để xây dựng công trình XDCB.
+ Giá thành dự toán chính là chi phí trung bình xã hội cần thiết để xây
dựng công trình XDCB.
+ Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán công trình xây lắp ở phần
thu nhập định mức. Trong đó thu nhập định mức trong XDCB được Nhà nước
xác định trong từng thời kỳ.
+ Giá thành dự toán là cơ sở để đơn vị tổ chức xây lắp xác định trước
khối lượng công việc cần làm, vật tư tiêu hao và là giới hạn giá thành cao nhất
theo các khối lượng công việc trong dự toán mà doanh nghiệp có thể đạt tới
để đảm bảo có thu nhập bằng với thu nhập định mức.
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành xác định xuất phát từ những điều
kiện cụ thể ở mỗi doanh nghiệp xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công, các

định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị dựa vào năng lực thực tế của doanh
nghiệp xây lắp trong một thời kỳ nhất định (kỳ kế hoạch). Giá thành kế hoạch
được xác lập có tính chất định ra mục tiêu tiết kiệm chi phí so với giá thành
dự toán, là căn cứ để doanh nghiệp xây lắp xác định giá bỏ thầu trong việc
đấu thầu công trình.
Giá thành kế hoạch =
Giá thành dự toán Mức hạ giá thành dự
của công trình
của công trình
toán
- Giá thành thực tế: Là biểu hiện bằng tiền của những chi phí thực tế để
hoàn thành khối lượng xây lắp. Giá thành thực tế được tính trên cơ sở số liệu
kế toán về chi phí sản xuất của khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ.
b/ Phân loại giá thành xét theo phạm vi phát sinh chi phí.
Giá thành sản phẩm xây lắp được chia ta thành: giá thành sản xuất và


15

giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp chỉ bao gồm những chi phí
phát sinh liên quan đến việc xây dựng hay lắp đặt sản phẩm xây lắp (chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi
công và chi phí sản xuất chung).
Giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp bao gồm giá thành sản xuất sản
phẩm cộng với các chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ
cho sản phẩm xây lắp.
1.4.3 Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản
phẩm xây lắp.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn nhất định để

tổng hợp chi phí sản xuất. Thực chất của xác định đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí (tổ, đội xí nghiệp
thi công, địa điểm thi công, công trình, hạng mục công trình, dự án…).
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được xác định dựa vào căn cứ sau:
- Căn cứ vào loại hình sản xuất: các doanh nghiệp thuộc loại hình sản
xuất đơn chiếc thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng loại sản
phẩm, từng hạng mục công trình. Các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất
hàng loạt thì đối tượng tập hợp có thể là từng đơn đặt hàng.
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất: Nếu doanh nghiệp tổ chức sản
xuất theo phân xưởng thì chi phí sản xuất tập hợp theo phân xưởng.
Do đặc điểm sản xuất trong các doanh nghiệp có quy trình công nghệ
sản xuất phức tạp, sản phẩm được sản xuất đơn chiếc riêng lẻ, việc tổ chức
sản xuất được phân chia thành nhiều công trường nhiều khu vực thi công nên
đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là đơn đặt hàng, sản phẩm hay
nhóm sản phẩm, giai đoạn công việc, khu vực thi công.
* Theo sản phẩm hay đơn đặt hàng: Sản phẩm trong doanh nghiệp xây


16

lắp là công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hàng tháng, chi phí sản
xuất phát sinh có liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì được
tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp, khi hoàn thành tổng chi phí
theo đối tượng hạch toán cũng chính là giá thành sản phẩm xây lắp.
* Theo bộ phận sản phẩm: Bộ phận sản phẩm trong XDCB là các giai
đoạn xây lắp của các công trình, hạng mục công trình có dự toán riêng. Hàng
tháng, chi phí sản xuất được tập hợp cho từng giai đoạn xây lắp có liên quan,
khi hoàn thành tổng cộng chi phí theo các giai đoạn chính là giá thành sản
phẩm xây lắp.
* Theo nhóm sản phẩm: được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp

xây lắp cùng lúc thi công một số công trình, hạng mục công trình theo cùng
một thiết kế hoặc thiết kế gần giống nhau theo một phương thức thi công nhất
định trên cùng một địa điểm. Hàng tháng, chi phí sản xuất được tập hợp theo
nhóm sản phẩm, khi hoàn thành xác định giá thành đơn vị sản phẩm.
Căn cứ vào phương pháp lập dự toán cho công trình, hạng mục công
trình và phương thức thanh toán giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để xác
định đối tượng tính giá thành.
Khi phương thức thanh toán giữa hai bên là thanh toán một lần thì đối tượng
tính giá thành là sản phẩm hoàn chỉnh.
* Sản phẩm hoàn chỉnh (theo đơn đặt hàng):
Là công trình, hạng mục công trình đã xây lắp xong đến giai đoạn cuối
cùng của toàn bộ quy trình công nghệ và chuẩn bị bàn giao cho đơn vị sử
dụng.
Giá thành sản phẩm hoàn chỉnh là thước đo bù đắp chi phí đã bỏ ra
nhưng không đáp ứng được yêu cầu quản lý kịp thời vì chỉ tính được khi công
trình, hạng mục công trình hoàn thành.
Khi phương thức thanh toán giữa hai bên là thanh toán nhiều lần thì đối tượng


17

tính giá thành sản phẩm là sản phẩm hoàn thành theo giai đoạn quy ước.
* Sản phẩm hoàn thành theo giai đoạn quy ước:
Là đối tượng xây lắp chưa kết thúc toàn bộ công tác quy định trong
thiết kế kỹ thuật mà chỉ kết thúc việc thi công đến một giai đoạn nhất định gọi
là điểm dừng kỹ thuật hợp lý.
Đối tượng tính giá thành theo giai đoạn quy ước sẽ phục vụ kịp thời
cho việc kiểm tra tình hình sử dụng các loại chi phí trong các doanh nghiệp để
có các biện pháp quản lý kịp thời.
1.4.4 Phương pháp tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp

Chi phí sản xuất được tập hợp theo hai phương pháp là tập hợp trực
tiếp và phân bổ gián tiếp:
- Phương pháp tập hợp trực tiếp được áp dụng với các chi phí có liên
quan trực tiếp đến đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, công tác hạch toán,
ghi chép ban đầu cho phép quy nạp trực tiếp các chi phí này vào từng đối
tượng kế toán chi phí có liên quan.
- Phương pháp phân bổ gián tiếp được áp dụng khi một loại chi phí liên
quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Trong trường hợp
này phải lựa chọn tiêu chuẩn hợp lý để tiến hành phân bổ cho các đối tượng
chịu phí liên quan.
Phương pháp tính giá thành là hệ thống phép tính được sử dụng để
tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật
tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Trong xây lắp có thể áp
dụng nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau phụ thuộc vào đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Sản phẩm xây lắp cuối
cùng là công trình, hạng mục công trình xây dựng xong và đưa vào sử dụng
do đó phải tính được giá thành công trình, hạng mục công trình đó. Giá thành
các hạng mục công trình xây lắp đã hoàn thành được xác định trên cơ sở tổng


18

cộng chi phí phát sinh từ lúc khởi công đến lúc hoàn thành được tập hợp trên
các sổ chi tiết chi phí sản xuất.
Các phương pháp sử dụng trong tính giá thành sản phẩm xây lắp là:
Phương pháp trực tiếp: được áp dụng khi đối tượng tính giá thành là
các sản phẩm hoàn chỉnh hay nhóm sản phẩm có thiết kế như nhau được thi
công trên cùng một địa điểm. Giá thành sản phẩm tính theo phương pháp này
được tính bằng cách trực tiếp lấy chi phí sản xuất sản phẩm (hay nhóm sản
phẩm) cộng hoặc trừ đi chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ so với

cuối kỳ rồi chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành.
Phương pháp tổng cộng chi phí: giá thành công trình, hạng mục công
trình được xác định bằng cách tổng cộng chi phí sản xuất để hoàn thành các
bộ phận của công trình, hạng mục công trình. Sử dụng phương pháp này khi
đối tượng tính giá thành là bộ phận sản phẩm cụ thể là các giai đoạn công việc
theo quy ước.
Phương pháp tỷ lệ: được sử dụng khi doanh nghiệp thực hiện các công
trình hay nhóm công trình, hạng mục công trình có tính năng cũng như khối
lượng công việc tương đương nhau cùng thi công trong kỳ kế toán, từ đó tính
tỷ lệ chi phí giữa giá thành thực tế với giá thành dự toán hoặc giá thành kế
hoạch để tính giá thành thực tế mỗi công trình hoặc hạng mục công trình.
Phương pháp này được sử dụng khi đối tượng tính giá thành là nhóm sản
phẩm xây lắp có thiết kế gần giống nhau cùng thi công tại một địa điểm
Phương pháp liên hợp: Là việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
tính giá thành như phương pháp tổng cộng chi phí với phương pháp tỷ lệ.
1.4.5 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ
Để phục cho việc tính giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp, định
kỳ (tháng, quý), doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê khối lượng công việc
đã hoàn thành hay đang dở dang. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang


19

trong sản xuất xây lắp phụ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng xây
lắp hoàn thành giữa bên nhận thầu và bên giao thầu. Nếu quy định thanh toán
sản phẩm xây lắp sau khi hoàn thành toàn bộ thì giá trị sản phẩm dở dang là
tổng chi phí phát sinh từ lúc khởi công đến cuối tháng đó. Nếu quy định thanh
toán sản phẩm xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý (là điểm mà đó có thể
xác định được giá dự toán) thì giá trị sản phẩm dở dang là giá trị khối lượng
xây lắp chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được tính theo

chi phí thực tế trên cơ sở phân bổ chi phí thực tế của hạng mục công trình đó
cho các giai đoạn, tổ hợp công việc đã hoàn thành và giai đoạn còn dở dang
theo giá trị dự toán của chúng.
Có thể áp dụng một số phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang như
sau:
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí thực tế phát sinh: Nếu
quy định thanh toán sản phẩm xây lắp sau khi hoàn thành toàn bộ thì giá trị
sản phẩm dở dang là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh từ lúc khởi công đến
cuối kỳ kế toán đó.
- Xác định theo tỷ lệ hoàn thành sản phẩm: Nếu quy định thanh toán
sản phẩm xây lắp theo giai đoạn quy ước là điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy
định và giá trị được đánh giá tính theo chi phí thực tế phát sinh trên cơ sở
phân bổ chi phí thực tế của hạng mục công trình đó cho các giai đoạn tổ hợp
công việc đã hoàn thành và giai đoạn còn dở dang theo giá trị dự toán của
chúng.
- Xác định theo đơn giá dự toán: Đối với công trình, hạng mục công trình
được quy định thanh toán định kỳ theo khối lượng của từng loại công việc, bộ
phận kết cấu trên cơ sở đơn giá dự toán thì sản phẩm dở dang là những khối
lượng công việc chưa hoàn thành và được đánh giá theo chi phí dự toán.


20

1.4.6 Tổ chức hạch toán chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp được chia thành các
khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sử dụng máy thi công.
- Chi phí sản xuất chung.

a/ Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
* Tài khoản sử dụng:
TK 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”: TK này dùng để phản ánh
các chi phí nguyên nhiên vật liệu, sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp của
doanh nghiệp xây lắp.
Kết cấu của tài khoản 621:
Bên Nợ:
- Phản ánh trị giá thực tế của nguyên liệu, vật liệu xuất dùng trực tiếp
cho hoạt động xây lắp trong kỳ hạch toán (không bao gồm thuế GTGT nếu
được khấu trừ thuế).
Bên Có:
- Phản ánh trị giá thực tế của nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử dụng
không hết được nhập lại kho.
- Kết chuyển hoặc tính phân bổ trị giá nguyên liệu, vật liệu thực tế sử
dụng cho hoạt động xây lắp trong kỳ vào tài khoản 154 - chi phí sản xuất kinh
doanh dở dang và chi tiết cho từng đối tượng để tính giá thành công trình xây
lắp
Tài khoản 621 không có số dư.
* Nguyên tắc hạch toán:
Chỉ hạch toán vào TK 621 các chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử


21

dụng cho thi công xây lắp công trình bao gồm: vật liệu xây dựng, vật liệu phụ,
nhiên liệu, vật kết cấu như bê tông đúc sẵn…, giá trị thiết bị đi kèm với vật
kiến trúc như thiết bị vệ sinh…
Trong kỳ hạch toán tập hợp chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp thực
tế phát sinh vào bên nợ TK 621 chi tiết cho từng đối sử dụng trực tiếp nguyên
liệu, vật liệu. Cuối kỳ hạch toán thực hiện kết chuyển vào các tài khoản 154 Chi phi sản xuất kinh doanh dở dang - phục vụ cho việc tính giá thành thực tế

của công trình xây lắp trong kỳ kế toán có chi tiết theo từng đối tượng hạch
toán chi phí.
Trường hợp vật liệu chính sử dụng để thi công nhiều công trình không
thể xác định trực tiếp mức tiêu hao thực tế cho từng công trình thì kế toán
phải tiến hành phân bổ theo tiêu thức phù hợp (thường là chi phí dự toán).
Mức phân bổ chi phí về nguyên vật chính dùng cho từng công trình được xác
định theo công thức tổng quát sau:
Tổng giá trị nguyên vật liệu
Mức phân bổ chi phí
nguyên vật liệu chính =

Chính thực tế xuất sử dụng
Tổng Tiêu thức của các đối x

cho từng đối tượng

tượng được phân bổ

Tiêu thức của
các đối tượng
được phân bổ

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
TK152, 111,112…
đối tượng)

TK621 (chi tiết theo
đối tượng)

TK154 (chi tiết theo


Tập hợp chi phí

Kết chuyển vào

NVL trực tiếp

TK tính giá thành


22

b/ Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Theo chế độ kế toán hiện hành hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
được thực hiện vào TK622 “Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản 622 dùng
để phản ánh chi phí lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động xây lắp. Chi
phí lao động trực tiếp bao gồm cả các khoản phải trả cho người lao động
thuộc quản lý của doanh nghiệp và cho lao động thuê ngoài theo từng loại
công việc. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm nhân công trực tiếp xây lắp
các công trình, công nhân phục vụ thi công (kể cả công nhân vận chuyển, bốc
dỡ vật tư trong phạm vi mặt bằng xây lắp và công nhân chuẩn bị thi công và
thu dọn hiện trường).
Kết cấu của TK 622 như sau:
Bên Nợ:
Phản ánh chi phí nhân công trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản
phẩm xây lắp bao gồm tiền lương, tiền công lao động.
Không hạch toán vào tài khoản này các khoản trích trên lương về
BHXH, BHYT, KPCĐ.
Bên Có:
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp trong kỳ vào TK 154- chi phí

sản xuất kinh doanh dở dang và chi tiết cho từng đối tượng để tính giá thành
công trình xây lắp.
TK 622 không có số dư.
* Nguyên tắc hạch toán:
- Trong kỳ kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp vào bên Nợ TK
622, cuối kỳ kế toán tính, phân bổ và kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
theo đối tượng tập hợp chi phí vào TK 154 - chi phí sản xuất kinh doanh dở
dang chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí.


23

Sơ đồ 1.2: Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
TK334,335,338… TK622 (chi tiết theo
đối tượng)
đối tượng)

TK154 (chi tiết theo

Tập hợp chi phí

Kết chuyển vào

nhân công trực tiếp

TK tính giá thành

Không hạch toán vào tài khoản này lương của công nhân vận chuyển
ngoài công trường, lương nhân viên thu mua, bốc dỡ, bảo quản vật liệu trước
khi đến công trường, lương nhân viên quản lý, công nhân điều khiển máy thi

công, những người làm công tác bảo quản tại công trường, lương nhân viên
thu mua, bốc dỡ, bảo quản vật liệu…
c/ Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
Máy thi công xây lắp là một bộ phận của TSCĐ bao gồm tất cả các loại
xe máy kể cả thiết bị được chuyển động bằng động cơ được sử dụng trực tiếp
cho công tác xây lắp trên công trường thay thế cho sức lao động của con
người. Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ chi phí vật liệu, nhân công,
các chi phí trực tiếp dùng cho quá trình sử dụng máy thi công phục vụ cho các
công trình xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công được hạch toán vào TK623 “chi phí sử
dụng máy thi công”, nội dung như sau:
Bên Nợ:
Phản ánh các chi phí có liên quan đến máy thi công như: chi phí
nguyên vật liệu cho máy thi công, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp
theo lương, tiền công trả cho công nhân sử dụng máy thi công.
Bên Có:
Các khoản ghi giảm chi phí sử dụng máy thi công.


24

Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công trong kỳ sang TK 154 - chi
phí sản xuất kinh doanh dở dang.
TK 623 không có số dư. Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi
phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây, lắp công
trình theo phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy.
Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn bằng máy
thì kế toán không sử dụng tài khoản 623 mà phản ánh trực tiếp vào các tài
khoản 621,622,627. Cũng như chi phí nhân công trực tiếp, các khoản trích
theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ và tiền ăn ca của công nhân sử dụng

máy thi công không được hạch toán ở TK này mà hạch toán ở TK 627 “chi
phí sản xuất chung”.
Cuối kỳ hạch toán kế toán tiến hành phân bổ chi phí sử dụng máy thi
công cho các đối tượng chịu chi phí theo từng công trình của từng loại máy sử
dụng.
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ hạch toán chi phí sử dụng máy thi công:
TK111, 152, 334…
335,338

TK623
đối tượng)

TK154 (chi tiết theo

Tập hợp chi phí

Kết chuyển vào

máy thi công

TK tính giá thành

TK 627

d/ Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung trong từng đội xây lắp bao gồm lương nhân


25


viên quản lý đội, trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tổng số
lương công nhân viên chức của đội, khấu hao TSCĐ dùng chung cho đội, chi
phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác.
Tài khoản sử dụng để hạch toán chi phí sản xuất chung: TK 627 “Chi
phí sản xuất chung”. Tài khoản này dùng để phản ánh những chi phí phụ vụ
xây lắp tại các đội và các bộ phận sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
xây lắp. Đây là những chi phí phát sinh trong từng bộ phận, từng đội xây lắp,
ngoài chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp (kể cả phần trích cho các quỹ
BHXH, BHYT, KPCĐ trên tiền lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên
từng bộ phận, từng đội và toàn bộ tiền ăn ca của đội, bộ phận). Tài khoản 627
được mở chi tiết theo từng bộ phận xây lắp (xí nghiệp trực thuộc, đội xây
lắp…).
Kết cấu của TK 627 như sau:
Bên Nợ:
- Phản ánh các chi phí phát sinh trong kỳ như chi phí vật liệu dùng
trong đội, công trường xây dựng, lương nhân viên quản lý đội, tiền ăn giữa ca
của nhân viên quản lý đội, của công nhân xây lắp, khoản BHXH, BHYT,
KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả công nhân trực
tiếp xây lắp, nhân viên quản lý đội và nhân viên sử dụng máy thi công thuộc
biên chế doanh nghiệp, khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội,
những chi phí khác có liên quan đến hoạt động của đội và chi phí liên quan
đến sử dụng máy thi công trong trường hợp thi công xây lắp bằng máy
Bên Có:
Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung.
Kết chuyển chi phí sản xuất chung trong kỳ vào TK 154 - chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang.
TK 627 không có số dư.



×