VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THANH BÌNH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THANH BÌNH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THANH HÀ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả, dẫn chứng nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đảm
bảo tính khách quan, khoa học và dựa vào những nguồn gốc rõ ràng của các tài liệu
được nghiên cứu.
Tác giả
Mai Thanh Bình
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được gửi đến lời cảm ơn chân thành đến cô hướng dẫn
luận văn của tôi là TS. Phan Thanh Hà, suốt thời gian qua, từ khi bắt đầu xây dựng
khung đề cương, đến khi triển khai các bước dự thảo và hoàn thành luận văn, cô đã
hết sức nhiệt tình và đầy trách nhiệm hướng dẫn cho tôi rất kỹ lưỡng, để tôi hoàn
thành nội dung luận văn. Sự hiểu biết sâu rộng và kinh nghiệm của cô chính là tiền
đề, là cơ sở để tôi hoàn thành tốt luận văn với những kết quả và đặc biệt đã trang bị
thêm cho bản thân những kinh nghiệm và kiến thức quý báu.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa luật-Học viện khoa học Xã hội, các thầy cô giảng
viên của Học viện đã tạo điều kiện và chuyển tải những nội dung chương trình suốt
khóa học, trang bị cho tôi thêm được những kiến thức để vận dụng vào việc hoàn
thành luận văn cũng như trong công tác và thực tiễn cuộc sống.
Tôi cũng xin được gửi đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã
luôn sát cánh, cổ vũ, động viên và giúp đỡ để tôi được hoàn thành chương trình học
và hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ ..............................................................................................8
1.1. Khái niệm, nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở .................................................8
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở 14
1.3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ...................................19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ...........21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ
SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................29
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa
bàn quận Sơn Trà ......................................................................................................29
2.2. Thực trạng triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận
Sơn Trà ......................................................................................................................33
2.3. Đánh giá thực trạng những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Sơn Trà .............................36
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIẾN ĐỊA BÀN
QUẬN SƠN TRÀ ....................................................................................................55
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ cơ sở .....55
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa
bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng .....................................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1
CBCC
Cán bộ công chức
2
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3
CNXH
Xã hội chủ nghĩa
4
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
5
DCCS
Dân chủ cơ sở
6
HĐND
Hội đồng nhân dân
7
MTTQ
Mặt trận Tổ quốc
8
QCDCCS
Quy chế dân chủ cơ sở
9
TTND
Thanh tra nhân dân
10
TTNN
Thanh tra nhà nước
11
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là một giá trị xã hội, gắn liền với lịch sử loài người từ khi xuất hiện
giai cấp, nhà nước và pháp luật, bắt đầu từ xã hội chiếm hữu nô lệ, với chế độ "dân
chủ chủ nô". Ngày nay, dân chủ là một vấn đề mang tính thời đại, là thước đo đánh
giá mọi xã hội văn minh, tiến bộ.
Ở Việt Nam, dân chủ là bản chất của Nhà nước, đánh dấu bằng sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945. Vấn đề dân chủ cũng là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, theo đó, Người khẳng định: “Dân là chủ”
và “Dân làm chủ”. Quán triệt tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng ta
đã đề ra những chủ trương, chính sách đề cao và phát huy dân chủ trong Nhân dân
và từ đó Nhà nước ta đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về dân chủ
thành pháp luật và đảm bảo thi hành trong thực tế của đời sống xã hội. Thực hiện
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-02-1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “về xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày
07/7/2003 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ủy Ban
Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11
(sau đây gọi tắt là Pháp lệnh số 34) ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, gần đây là Nghị định 04/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ
(thay cho Nghị định 71) “về thực hiện dân chủ trong trong cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lâp”. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng,
đánh dấu một bước phát triển về thực hiện dân chủ và sự thể chế hoá phương châm
''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân ngay từ cơ sở. Nếu như thực hiện tốt pháp luật về dân chủ ở cơ sở sẽ
góp phần tích cực vào việc thúc đẩy, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an
ninh trật tự ở cơ sở.
Việc thực hiện công khai, dân chủ đã trở thành phương thức quản lý, điều
hành của các cơ quan nhà nước và nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công
1
chức đối với Nhân dân; đồng thời, khuyến khích Nhân dân tích cực tham gia xây
dựng, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, góp ý cho cán bộ công chức về
đạo đức lối sống, phong cách làm việc và tôn trọng Nhân dân hơn. Quá trình thực
hiện dân chủ ở cơ sở đã làm chuyển biến rõ rệt nhận thức của cả hệ thống chính trị
ở cơ sở, phát huy được quyền làm chủ của cán bộ công chức, góp phần tích cực,
hiệu quả vào công tác xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan,
đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở
từng địa phương còn có những hạn chế, bất cập nhất định. Có nơi, quyền làm chủ
của Nhân dân chưa được tôn trọng, chưa được phát huy, có khi còn mang tính hình
thức. Các chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa thực sự làm tròn vai
trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Hiện nay, các văn bản triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở khá hệ thống
trên các mặt, phương diện, nhưng vẫn còn khoảng trống ở một số lĩnh vực. Còn
những quy định vẫn chưa sát với thực tế, trong khi việc bổ sung, điều chỉnh thường
chậm trễ. Còn vấn đề đang đặt ra liên quan trực tiếp đến dân chủ và thực hiện dân
chủ cơ sở như vấn đề giám sát, phản biện xã hội, dân chủ cơ sở trong những ngành,
lĩnh vực đặc thù v.v…
Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng là địa phương tập trung cho việc quy hoạch
phát triển đô thị, du lịch. Sau khi thành lập quận (1997) đến nay đã có trên 20.000
hộ dân chấp hành chủ trương di dời giải tỏa với nhiều dự án trọng điểm. Trong
những năm qua, đặc biệt từ năm 1998 đến nay có Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-021998 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa VIII) “về xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở”, Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH “về thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn”; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính
phủ “về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước” và
các văn bản chỉ đạo của các cấp về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Các địa phương trên
2
địa bàn quận đã tích cực triển khai thực hiện dân chủ nhằm góp phần dân chủ hóa
đời sống xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặc biệt
là sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy đảng có lúc, có nơi chưa quyết liệt, nhận thức
chưa đầy đủ của đội ngũ cán bộ công chức và Nhân dân ở cơ sở. Việc triển khai
thực hiện dân chủ ở cơ sở còn hạn chế nhất định. Do vậy, quyền và lợi ích hợp pháp
của một bộ phận Nhân dân chưa được đảm bảo. Trong phạm vi và điều kiện thực
tiễn của địa phương cơ cở, tôi chỉ tập trung vào việc nghiên cứu sâu vấn đề thực
hiện pháp luật về dân chủ cơ sở theo Pháp lệnh 34 của UBTVQH.
Với những lý do đó, tôi đã chọn vấn đề "Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ
sở từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng" làm đề tài luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Luật Hiến pháp-Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài luận văn, ở Việt Nam đã có nhiều công trình được công
bố, trong đó đáng chú ý là:
Các công trình nghiên cứu về dân chủ của TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại
diện, dân chủ trực tiếp và quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”.
- GS. TS. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở nông thôn trong tiến trình
đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Trong công trình này tác giả đã
nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là tầm quan trọng của
thực hiện dân chủ ở nông thôn; thực trạng và những hạn chế trong thực hiện dân
chủ ở nông thôn trong thời gian qua. Qua đó tác giả đề ra các giải pháp thực hiện
dânchủ trong tiến trình đổi mới ở nông thôn.
- PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - Th.s. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp ở
Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2010. Đây là kỷ
yếu Hội thảo Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về dân chủ và dân chủ trực tiếp của một số nước và Việt Nam, các tác giả đã
đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ trực tiếp và nêu ra các giải pháp nhằm phát
huy các hình thức dân chủ trực tiếp.
- Đào Trí Úc (Chủ biên), Trịnh Đức Thảo, Vũ Công Giao...: “Một số vấn đề lý
3
luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam”,
Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014; Trình bày một loạt vấn đề về lý luận,
thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế
giới và Việt Nam. Đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật và các cơ chế bảo đảm dân chủ trực tiếp và dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời
gian tới.
Các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cấp cơ sở, Phạm Ngọc Trâm: “Nhìn
lại quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở1998 - 2012”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 11/2012.
Đối với quận Sơn Trà, việc triển khai các văn bản thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở trong những năm đã được các ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống
chính trị vào cuộc và thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ và cso hiệu quả từ
quận đến cơ sở các phường. Công tác quán triệt, thường xuyên các văn bản chỉ đạo
của các cấp về thực hiện pháp luật về quy chế dân chủ cơ sở như Pháp lệnh 34 của
UBTVQH; Nghị định 04/NĐ-CP; Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, Kết luận 120KL/TW, ngày 07-01-2016 của Bộ Chính trị và các kết luận, chỉ đạo của Thành ủy
để thực hiện tốt hơn dân chủ ở cở trở thành công tác thường xuyên của cấp ủy trong
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc nghiên cứu, vẫn còn những vấn
đề đang đặt ra liên quan trực tiếp đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay
vẫn còn chưa được giải quyết thấu đáo, như cơ chế phản biện xã hội, giám sát xã
hội, luật về hội, cơ chế dân chủ trong hoạt động lý luận và khoa học xã hội v.v…
Bên cạnh đó, triển khai các văn bản chỉ đạo của các cấp về thực hiện pháp luật dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn quận Sơn Trà vẫn còn những hạn chế cần phải tiếp tục quán
triệt và triển khai mạnh mẽ hơn đó là, một số cấp ủy đảng, nhất là các cấp ủy chi bộ
ở khu dân cư chưa thật sự quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu triển khai thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Việc nghiên cứu quán triệt của cán bộ đảng viên về
các văn bản thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa sâu, kỹ, dẫn đến việc triển
khai thực hiện chưa kịp thời, thường xuyên, hiệu quả chưa cao, có nơi còn làm
4
mang tính hình thức. Công tác tuyên truyền đến với người dân về thực hiện dân chủ
chưa được sâu rộng, từ đó một số người dân ít quan tâm đến việc này.
Vì vậy, trong đề tài này, tác giả muốn đánh giá lại thực trạng thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Sơn Trà và đồng thời đưa ra những giải
pháp để tiếp tục thực hiện tốt hơn pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, từ
thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, nhằm rút ra những kinh nghiệm,
phương hướng, giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu quả, thực hiện tốt hơn pháp luật
về dân chủ cơ sở trên địa bàn địa phương (Sơn Trà) nói riêng và vấn đề thực hiện
pháp luật về dân chủ, trong đó có dân chủ cơ sở ở Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
- Phân tích đánh giá thực tiễn pháp luật về dân chủ cơ sở và việc thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
- Trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp để tiếp tục thực hiện tốt
hơn pháp luật về dân chủ cơ sở (ở Sơn Trà nói riêng và ở Việt Nam nói chung)
trong tình hình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn từ quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở, trong đó tập trung vào nghiên cứu các vấn đề gồm:
+ Các quan điểm khoa học về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
+ Các chủ trương của Đảng, quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
5
+ Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở địa bàn quận Sơn Trà – Đà Nẵng.
- Phạm vi không gian: Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2008 đến 2018.
- Phạm vi đối tượng của chính sách: Các đơn vị hành chính, các ủy đảng, cán
bộ công chức, viên chức, đảng viên và các dân cư trên địa bàn quận Sơn Trà.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa
duy vật biện chứng; lý luận về nhà nước và pháp luật (tư tưởng Hồ Chí Minh); quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng dân chủ và Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử lôgic, phân tích và tổng hợp,
so sánh, thống kê để làm rõ hơn các vấn đề cần nghiên cứu…Ngoài ra, còn sử dụng
kết hợp các phương pháp của các ngành khoa học khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết luận, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực góp phần
bổ sung và hoàn thiện những vấn đề lý luận về dân chủ nói chung, về dân chủ cơ sở
nói riêng, pháp luật về dân chủ cơ sở và việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở
nước ta.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Các kết luận, các giải pháp, kiến nghị đề xuất rút ra từ việc nghiên cứu đề tài
luận văn có ý nghĩa thực tiến thiết thực góp phần hoàn thiện các giải pháp thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn cả nước nói chung và quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng nói riêng.
- Có giá trị tham khảo trong việc nghiên cứu chính sách, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
6
văn được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở từ thực tiễn địa bàn quận Sơn Trà.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở
1.1.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở
- Khái niệm dân chủ
Cùng với sự hoàn thiện dân chủ với tinh cách là một giá trị to lớn của văn
minh nhân loại, một phương thức tồn tại của xã hội hiện đại, dân chủ được vận
dụng vào hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định. Trong đó,
dân chủ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, để cho mọi lĩnh
vực hoạt động đều phát huy tính dân chủ, chúng ta cần phải thực hiện dân chủ hóa,
và dân chủ sẽ được thực hiện ngay từ cơ sở. Như vậy, ta có thể hiểu dân chủ ở nước
ta theo hai nghĩa sau đây:
Dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng: Là một hiện tượng lịch sử - xã hội, một
giá trị xã hội, một nguyên tắc, phương pháp quản lý nhà nước, quản lý xã hội; là
một chế độ chính trị cầm quyền là một hiện tượng chính trị gắn liền với Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã
hội dựa trên việc thừa nhận Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận
nguyên tắc bình đẳng và tự do.
Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức
và thiết chế xã hội nhất định” [73,tr. 89]. Từ góc độ khái quát nhất, có thể hiểu dân
chủ là một phương thức cầm quyền cho phép cá nhân, tổ chức và các nhóm chủ thể
khác nhau trong xã hội có những cơ hội bình đẳng để tham gia vào tiến trình hoạt
động chính trị một cách đầy đủ và thực sự.
Dân chủ được hiểu như mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước ta “Thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những mục tiêu này
đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể hiểu dân có giàu thì nước với mạnh,
có dân chủ thực sự thì xã hội mới công bằng.
8
Dân chủ được hiểu theo nghĩa hẹp: Dân chủ có thể hiểu là cách thức để người
dân được quyền tham gia vào các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội với tư cách là
người làm chủ.
Như vậy, dân chủ vừa là bản chất của chế độ, vừa là đặc trung cơ bản của
một xã hội tiến bộ, văn minh. Dân chủ vừa là chính trị, vừa là văn hóa. Nếu một xã
hội không có dân chủ thì xã hội đó sẽ không tiến bộ. Nói đến dân chủ có thể có
nhiều cách hiểu và cách làm khác nhau. Song, nước ta là nước xã hội chủ nghĩa, thì
nhất định phải có một nền dân chủ thực sự đúng nghĩa và tiến bộ và dân chủ là bản
chất, đặc trưng của xã hội nước ta.
Đúc kết từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới toàn diện của đất nước ta, cho thấy,
nếu xác định dân chủ là mục tiêu, là động lực để phát triển đất nước thì dân chủ cơ
sở là thực hiện căn bản và trực tiếp của mục tiêu và động lực đó.
-Khái niệm về dân chủ cơ sở
Dân chủ cơ sở có nghĩa là phát huy tính dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của
Nhân dân ở tại nơi người dân sinh sống và làm việc với phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Có thể hiểu theo cách khác, dân chủ ở cơ sở có nghĩa
là người dân được thực hiện các quyền tham gia vào các vấn đề của địa phương,
được quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân của tổ chức chính quyền cơ sở thực thi các
chính sách đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như của cộng đồng.
Cơ sở là đơn vị xã hội nhỏ nhất mà Nhân dân tổ chức nên, cơ sở là nơi trực
tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là nơi
thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Hay nói
cách khác, dân chủ cơ sở là quá trình hiện thực hóa các văn bản pháp luật về dân
chủ trong đời sống xã hội, nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của công dân được thực
thi trong thực tế. Dân chủ cơ sở được thực hiện qua hệ thống chính trị ở cơ sở và
trình độ, nhận thức đúng đắn và khả năng thực hiện của đội ngũ cán bộ công chức
trong hệ thống chính trị ở cơ sở, cũng như quyền được tham gia của Nhân dân trong
quá trình thực thi pháp luật về dân chủ cơ sở.
Quan tâm đến dân chủ cơ sở, thực chất đó là quan tâm đến mọi mặt đời sống
9
xã hội của người dân, đảm bảo đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ mà được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ. Những quyền lợi của người dân phải được gắn liền với trách
nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận công dân đối với Nhà nước, với xã hội. Quyền lợi của
người dân phải được nằm trong khuôn khổ của pháp luật và không đi ngược lại lợi ích
của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, dân chủ phải được thể hiện qua mối quan hệ xã hội
giữa con người với con người và ngược lại giữa con người với xã hội, giữa công dân
với Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, thông qua tổ chức và thể chế.
Nói đến dân chủ cơ sở chính là phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ngay tại
nơi họ đang sinh sống, làm việc và học tập. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà ta
luôn coi trọng việc phát huy dân chủ ở cơ sở, cụ thể bằng những Chỉ thị, Nghị
quyết, Kết luận chỉ đạo và các văn bản pháp luật về dân dân chủ cơ sở đã được ban
hành và thực thi đồng bộ.
- Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở
Dân chủ chính là thước đo giá trị của pháp luật, phản ánh mức độ phát triển,
văn minh của một quốc gia. Ngược lại, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong công
tác quản lý nhà nước, bởi vì pháp luật chính là công cụ quan trọng, chủ yếu, phổ
biến và hiệu lực nhất của quản lý nhà nước. Đồng thời, nó là phương tiện để ghi
nhận và thực hiện nền dân chủ xã hội. Bản thân pháp luật đã chứa đựng nội dung
của nền dân chủ, quy định các quyền tự do dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Cụ thể là, pháp luật là phương tiện để xác lập cơ chế làm chủ cho các tổ
chức và cá nhân, quy định các biện pháp củng cố, mở rộng và thực hiện dân chủ
trên thực tế. Pháp luật với thuộc tính vốn có quy định chặt chẽ, chính xác nhiệm vụ,
quyền hạn của các thiết chế quyền lực, hạn chế tình trạng lạm quyền, độc đoán
chuyên quyền, vi phạm các quyền tự do dân chủ của các chủ thể cầm quyền, các tổ
chức nhà nước trong việc thực thi các chính sách liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của người dân.
Từ những trình bày ở trên, ở mức độ chung nhất, có thể hiểu pháp luật về dân
chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong việc thực
10
hiện quyền làm chủ của Nhân dân trên các lĩnh vực an ninh - chính trị, kinh tế, văn
hóa-xã hội. Pháp luật về dân chủ cơ sở là một nội dung quan trọng của pháp luật
về dân chủ, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thừa nhận hoặc ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ giữa chính quyền ở
cơ sở, các tổ chức và cá nhân đảm bảo thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời quyền
làm chủ của Nhân dân trong đời sống xã hội trên địa bàn ở cơ sở.
1.1.2. Nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Ngay từ rất sớm, đặc biệt trong những năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức một
cách sâu sắc: vấn đề dân chủ trước tiên và trọng yếu là xuất phát từ cơ sở. Ngày 206-1996, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra Chỉ thị 69-CT/TW yêu cầu sớm
nghiên cứu thể chế hóa phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định rõ một nhiệm vụ để thực hiện định hướng về
Đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân, là: xây dựng cơ chế
cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với
các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước...
Ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30-CT/TW “về xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, khẳng định: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt
là phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở. Tiếp đó, Quốc hội và Chính phủ
đã thể chế hóa bằng nhiều văn bản pháp quy về thực hiện Quy chế dân chủ cho một
số loại hình cơ sở, như: Nghị quyết số 45/1998/NQ UBTVQH của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ; Chính phủ ban hành Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP (ngày 11/5/1998) về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Nghị
định số 07/1999/NĐ-CP (ngày 13/2/1999) về thực hiện dân chủ cơ sở trong các
doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan hành chính, v.v…
Ngày 07/7/2003, Chính phủ ra Nghị định số 79/NĐ-CP, ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/NĐ-CP. Ngày 18/4/2005
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ban hành Quy chế Giám
sát đầu tư của cộng đồng. Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
11
Pháp lệnh này quy định rõ 11 nội dung phải công khai để nhân dân biết (Điều 5,
Chương 2); những nội dung, hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp (Điều
10, Mục 1, Chương 3); những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp
có thẩm quyền quyết định (Mục 2, Chương 3); trách nhiệm (của Ủy ban nhân dân
cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, của Trưởng thôn. Tổ trưởng tổ dân phố)
tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định (Mục 3, Chương 3);
những nội dung, hình thức để nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định (Điều 19, Điều 20, Chương 4); những nội dung nhân dân giám sát
(Điều 23; Chương 5), trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực
hiện giám sát của nhân dân (Điều 25, Chương 5). Pháp lệnh này cũng quy định rõ
những nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã (Điều 2); Trách nhiệm tổ chức thực
hiện dân chủ ở cấp xã (Điều 3); và Các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 4)...
Có thể thấy, từ Chỉ thị 30-CT/TW (ngày 18-02-1998) của Bộ Chính trị (về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được cụ thể bằng Nghị định 29/NĐ-CP
(ngày 1/15/1998) và Nghị định số 79/NĐ-CP (ngày 7/7/2003) của Chính phủ, đến
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 (ngày 20/4/2007) của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội là những bước phát triển trong nhận thức về dân chủ cơ sở và quá trình
thể chế hóa quan điểm đúng đắn, tư tưởng chiến lược của Đảng về dân chủ ở cơ sở.
Nội dung pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo quy định tại Pháp
lệnh số 34 của UBTVQH 11 gồm:
- Những nội dung công khai để dân biết:
+ Chính quyền cơ sở thực hiện công khai các nội dung như kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của địa phương; phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình
trên địa bàn, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy
hoạch khu dân cư trên địa bàn; nhiệm vụ, quyền hạn của CBCC ã trực tiếp giải
quyết các công việc của Nhân dân; quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư,
tài trợ, các khoản huy động từ Nhân dân đóng góp; kế hoạch vay vốn cho Nhân dân
để phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, phương thức và kết quả bình xét hộ
12
nghèo được vay vốn; đề án thành lập mới, sáp nhập, chia đơn vị hành chính, điều
chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới địa phương; kết quả thanh tra, kiểm
tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của CBCC; kết quả lấy phiếu tín
nhiệm các chức danh chủ chốt; nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của Nhân dân
đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền địa phương
Nhân dân; các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
Nội dung đó được công khai bằng các hình thức như niêm yết tại trụ sở
HĐND, UBND; trên hệ thống loa truyền thanh của cấp xã; công khai thông qua Tổ
trưởng tổ dân phố.
- Những nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
+ Nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp như chủ trương và mức đóng
góp xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Nội dung, hình thức Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết
định như hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổ
trưởng tổ dân phố; thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng
đồng dưới hình thức như tổ chức cuộc họp cử tri, hoặc cử tri đại diện hộ gia đình; phát
phiếu lấy ý kiến tới từng cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
- Những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định: dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất; dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi
tiết và phương án điều chỉnh, việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã… thể hiện
dưới hình thức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ
dân phố; phát phiếu lấy ý kiến; thông qua hòm thư góp ý.
- Những nội dung Nhân dân giám sát: là những nội dung công khai để dân
biết; những nội dung Nhân bàn và quyết định trực tiếp; nội dung Nhân dân bàn,
biểu quyết và những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến được thực hiện dưới hình
thức thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của
cộng đồng; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị.
13
- Quy định trách nhiệm của chính quyền, CBCC xã, phường thị trấn; của cán
bộ thôn, của tổ dân phố, khu phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của
Nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở
1.2.1. Khái niệm
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý bắt buộc. Quá
trình thực hiện pháp luật được diễn ra tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật của Nhà nước. Về phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là khái niệm
hiện nay đang có những cách hiểu ít nhiều khác nhau.
Theo Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học
Luật Hà Nội, “Thực hiện pháp luật được quan niệm là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [72, tr.463].
Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước
và pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Thực hiện
pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy phạm của pháp
luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế
của các chủ thể pháp luật [58, tr.270].
Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội: Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [60, tr.494]
Các định nghĩa nêu trên đều có nội hàm tương đối giống nhau, theo đó thực
hiện pháp luật là hoạt động, nhằm thực hiện những quy định của pháp luật, làm cho
những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Trong quan
hệ với cơ sở, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở đi vào cuộc sống
nhằm mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà
14
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở được thực hiện theo nguyên tắc: đảm
bảo kỷ cương pháp luật, đảm bảo quyền của Nhân dân được biết, được bàn, được
tham gia ý kiến, được quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cơ
sở để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân; công
khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở; đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
1.2.2. Đặc điểm
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở bên cạnh những đặc điểm chung, còn
có đặc điểm riêng, đó là:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện: Thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở được tiến
hành bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó Nhân dân là một chủ thể đặc biệt và
quan trọng. Không ít người dân hiện nay vẫn chưa hiểu rõ về quy chế dân chủ, dân
chủ ở cơ sở và cho đó là việc của chính quyền, Mặt trận, đoàn thể và của cán bộ. Từ
những quyết định của UBND phường ban hành, chưa kể đến những cấp cao hơn
người dân luôn tự nhìn nhận mình với vị trí là “người phải chấp hành”. Khác với
nhiều quan hệ pháp luật khác, trong đó chủ thể thực hiện chủ yếu là các cơ quan nhà
nước thì pháp luật về dân chủ ở cơ sở được thực hiện bởi nhiều chủ thể. Đó chính là
hệ thống chính trị ở cơ sở và quan trọng hơn là những người dân sống tại địa bàn cơ
sở. Chính họ sẽ quyết định hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở.
Thứ hai, phạm vi thực hiện: việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở được
triển khai trên địa bàn rộng lớn nhất, sát với thực tiễn đời sống. Điều này lý giải bởi
hệ thống chính quyền cơ sở là hệ thống quyền lực có địa bàn rộng lớn nhất, phục vụ
lợi ích trực tiếp của Nhân dân, là cấp trực tiếp đưa chủ trương, Nghị quyết của
Đảng, pháp luật Nhà nước vào cuộc sống. Do đó “dân chủ ở cơ sở” phải được hiểu
là dân chủ ở cấp thấp nhất, rộng nhất, là nơi người dân thể hiện trực tiếp quyền làm
chủ của mình. Đó là khu dân cư, tổ dân phố được hình thành bằng một cộng đồng
dân cư chặt chẽ. Vì thế, tất cả các tổ chức quyền lực nhà nước, muốn làm tốt công
15
tác quản lý xã hội đều phải thông qua vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở.
Thứ ba, nội dung thực hiện: pháp luật về dân chủ ở cơ sở gồm tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân nơi họ cư trú, nó có mối quan hệ mật thiết với nhau, chất lượng của việc
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần đảm bảo sự tồn tại, phát triển của
pháp luật nói chung và pháp luật về dân chủ nói riêng.
Thứ tư, tính chất thực hiện: thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là hoạt
động diễn ra thường xuyên, liên tục gắn liền với các hoạt động trên địa bàn khu dân
cư. Thực hiện dân chủ không chỉ tập trung ở cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể của phường mà nó phải đi xuống khu dân cư là nơi cố kết cộng
đồng bền chặt. Hơn nữa, dân chủ không chỉ là thực hiện những quy định trong các
quy chế dân chủ, mà thể hiện thường xuyên, liên tục bằng tất cả các hoạt động kinh
tế - xã hội của chính người dân sinh sống tại đây. Chính quyền địa phương với vai
trò là đại diện cho Nhà nước, kiểm tra, giám sát cũng là chủ thể thực hiện dân chủ,
của cấp cơ sở mang tính chất định hướng cho khu dân cư phát triển.
Thứ năm, thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở là thực hiện các quy định cụ thể
trong các văn bản do Nhà nước ban hành. Điều này là hoàn toàn cần thiết để tránh
các trường hợp lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn, không có kỷ cương pháp luật, vì
động cơ cá nhân để chống đối các chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước. Dân
chủ phải được hiểu là sự tự do nhưng phải nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật. Dân chủ phải gắn với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng
thời Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật để bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ
những lợi ích của Nhân dân, chống lại những tổ chức, cá nhân đi ngược lại lợi ích
của Nhân dân, đi ngược lại chế độ dân chủ của Nhân dân. Xã hội dân chủ là một xã
hội có trật tự kỷ cương, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Để tránh tình trạng mất dân
chủ hoặc lợi dụng dân chủ, đòi hỏi phải có các quy định mang tính quyền lực nhà
nước cũng như các cơ chế để đảm bảo thực hiện được trên thực tế. Hơn nữa, thực
hiện dân chủ với Nhân dân không chỉ là các quy định trong Pháp lệnh 34 của
UBTVQH là đủ, mà đòi hỏi chính quyền cơ sở phải thể hiện được vai trò tích cực
16
của mình trên tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội theo các quy định có liên quan
của pháp luật.
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở còn liên quan tới mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện tốt ở địa phương cơ sở. Hơn
nữa, pháp luật về dân chủ còn quy định việc xây dựng hương ước, quy ước mang
tính xã hội, tính cộng đồng, do đó pháp luật về dân chủ không chỉ là công cụ để
quản lý nhà nước mà còn là công cụ để Nhân dân xây dựng nếp sống văn hóa, văn
minh, trách nhiệm tự quản trong cộng đồng dân cư, góp phần không nhỏ trong việc
bảo vệ an ninh, trật tự tại cộng đồng dân cư.
1.2.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Căn cứ vào tính chất hoạt động thực hiện pháp luật, có thể xác định thực hiện
pháp luật bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng
pháp luật, áp dụng pháp luật. Trong đó, thi hành pháp luật là một hình thức thực
hiện pháp luật mà chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình
bằng hành động tích cực, chính xác, kịp thời. Sử dụng pháp luật là hình thức trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình là những hành vi mà
pháp luật cho phép. Ở hình thức này, các chủ thể pháp luật có thể thực hiện hay
không thực hiện quyền được pháp luật cho phép.
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở được sử dụng chủ yếu ở hình thức sử
dụng pháp luật (đối với chủ thể là công dân) và chấp hành pháp luật (đối với chủ thể
là chính quyền và các tổ chức chính trị, xã hội ở cơ sở). Việc thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở được thực hiện thông qua các hình thức sau:
- Hình thức thi hành pháp luật về dân chủ:
+ Đối với chính quyền cấp xã: công khai những việc Nhân dân được biết bằng
việc niêm yết công khai tại trụ sở UBND, thời gian niêm yết; công khai trên hệ
thống truyền thanh của xã, phường; hoặc thông qua thôn, tổ dân phố, là những hình
thức cụ thể mà chính quyền cấp xã phải thực hiện để công khai hóa toàn bộ nội
dung phải được công khai cho Nhân dân biết tại mục 2, Pháp lệnh số 34 của
UBTVQH.
17
Công khai, minh bạch các nội dung nêu trên vừa là yêu cầu khách quan, cũng
vừa là hình thức thi hành quyền lực nhà nước một cách kịp thời, chính xác, là điều
kiện đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, là cơ sở để Nhân dân giám
sát các cơ quan nhà nước, cũng như giám sát hoạt động của CBCC nhà nước. Thực
hiện tốt việc công khai góp phần khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, tránh
được tình trạng cục bộ địa phương, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân. Để làm tốt điều
này, đòi hỏi chính quyền địa phương cơ sở phải thực hiện tốt các công việc từ việc
lựa chọn, bố trí CBCC đảm bảo có đạo đức, đủ năng lực, trình độ chuyên môn đến
việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện một cách chi tiết, cụ thể, đảm bảo tính
hợp pháp và tính hợp lý để thực hiện công khai cho mọi người dân biết, có như vậy
mục đích của công khai mới đạt được hiệu quả.
+ Đối với Nhân dân: hình thức chấp hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở thể
hiện trong việc tự giác thực hiện tích cực các nghĩa vụ công dân của mình như đóng
các khoản phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác do chính UBND phường trực
tiếp thu theo quy định của pháp luật; các khoản đóng góp tự nguyện đã được thống
nhất trong Nhân dân để xây dựng các công trình phúc lợi, công trình công cộng;
nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phê
duyệt như giải phóng mặt bằng theo phương án đã được cấp có thẩm quyền quyết
định; quyết định giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo.
- Hình thức tuân thủ pháp luật dân chủ:
Đây là hình thức thực hiện pháp luật yêu cầu các chủ thể tự kiềm chế không
thực hiện những điều mà pháp luật không cho phép.
+ Đối với chính quyền cấp xã : trong quan hệ với Nhân dân không được giải
quyết các vụ việc vượt quá thẩm quyền quy định; không được bao che, dung túng
cho những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật như vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tài chính, xây dựng, đất đai, tư pháp-hộ tịch..., thu các khoản trái
pháp luật và đặc biệt không được cản trở hoặc vi phạm các quyền tự do dân chủ của
công dân, không được có những hành vi, thái độ gây phiền hà, sách nhiễu, thiếu tôn
trọng Nhân dân.
18
+ Đối với Nhân dân: khi thực hiện tuân thủ pháp luật về dân chủ ở cơ sở được
biểu hiện qua việc không lợi dụng các quyền tự do dân chủ của công dân để gây rối
trật tự công cộng, chống đối chính quyền làm ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước của chính quyền xã, phường gây mất an ninh trật tự
địa phương…
- Hình thức sử dụng pháp luật về dân chủ:
Đây là một trong những hình thức quan trọng nhất của Nhân dân được pháp
luật về dân chủ ở cơ sở quy định chi tiết, cụ thể tại Pháp lệnh 34, chính là cơ sở
pháp lý để buộc chính quyền cấp xã phải tôn trọng và phải tạo mọi điều kiện cho
Nhân dân sử dụng đầy đủ quyền dân chủ của mình. Đó là các quyền được bàn về
chủ trương đóng góp xây dựng hạ tầng kỹ thuật, công trình phúc lợi ở địa phương,
đóng góp ý kiến vào quy hoạch, kế hoạch, quy định kế hoạch sử dụng đất đai; bàn
bạc xây dựng hương ước, quy ước của của tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
tổ trưởng tổ dân phố; bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám
sát đầu tư của cộng đồng… Trên cơ sở đó Nhân dân được quyền thể hiện ý chí,
nguyện vọng, quan điểm của mình một cách chủ động, phù hợp với điều kiện, khả
năng của bản thân và của địa phương góp phần thực hiện dân chủ ở cơ sở đúng với
bản chất của dân chủ XHCN.
- Hình thức áp dụng pháp luật về dân chủ:
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở tác động đến các quan hệ xã hội, vào cuộc sống
mang lại lợi ích thiết thực cho người dân chỉ khi tất cả những quy định của pháp
luật về dân chủ đều được thực hiện đồng bộ, thường xuyên, chính xác, kịp thời và
triệt để trong thực tế. Vì vậy, phải có hình thức áp dụng pháp luật về dân chủ ở cơ
sở, đây là hình thức mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua chính
quyền hoặc CBCC nhằm hiện thực hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp
cụ thể, như theo thẩm quyền chính quyền mà pháp luật quy định
1.3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Thứ nhất, Quy chế dân chủ cơ sở ra đời để giải quyết một cách cơ bản những
vấn đề cụ thể đối với việc triển khai và thực hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở. Quy
19