Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm ở việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.71 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THANH TUẤN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9 38 01 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2019


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Thị Huyền
TS. Nguyễn Văn Cương

Phản biện 1: GS.TS. Lê Hồng Hạnh
Phản biện 2: GS.TS. Hoàng Thế Liên
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Ngọc Cường

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại:
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,
477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.


Vào hồi……giờ……phút, ngày…..…tháng…...năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định, thủ tục tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết các vụ
án kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao động và dân sự. Trong những
năm gần đây, tranh chấp về kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao
động và dân sự đều tăng mạnh cả về số lượng và tính phức tạp. Điển hình là
các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà hệ thống Tòa án phải thụ lý, giải
quyết. Không chỉ tăng về số lượng các vụ án, tính phức tạp về nội dung ngày
càng biểu hiện rõ nét. Các tranh chấp không chỉ đơn thuần nằm trong một lĩnh
vực nhất định mà liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau, như tranh chấp trong
hoạt động đầu tư, tài chính, ngân hàng, mua bán hàng hóa, tranh chấp liên quan
đến quyền sử dụng đất, nhà ở,... Điều đó gây không ít khó khăn, vướng mắc
cho hoạt động giải quyết vụ án của hệ thống Tòa án.
Hoạt động của hệ thống Tòa án được thể hiện chủ yếu thông qua hoạt
động xét xử của Thẩm phán. Khi giải quyết vụ án, Thẩm phán tham gia vào tất
cả các giai đoạn tố tụng, trong đó xét xử theo thủ tục sơ thẩm theo BLTTDS có
vai trò và ý nghĩa quan trọng. Khi giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục
thông thường, ngoài Thẩm phán, còn có sự tham gia của các HTND, nhưng vai
trò của Thẩm phán vẫn có ý nghĩa quyết định hàng đầu đối với chất lượng giải
quyết vụ án dân sự sơ thẩm. Đặc biệt, trong vụ án dân sự sơ thẩm giải quyết
theo thủ tục rút gọn, xét xử không có sự tham gia của HTND, Thẩm phán là
người duy nhất đưa ra phán quyết đối với tranh chấp dân sự.
Thực tế cho thấy, quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm có nhiều tình

huống, vướng mắc và bất cập, gây không ít khó khăn cho Thẩm phán khi tiến
hành tố tụng. Trong khi đó, địa vị pháp lý của Thẩm phán chưa được pháp luật
quy định đầy đủ, rõ ràng. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong việc thu
thập tài liệu, chứng cứ được đề cao hơn đương sự; nhiều đương sự chưa ý thức
được việc chứng minh cho yêu cầu của mình; trình tự thủ tục tố tụng giải quyết
vụ án dân sự sơ thẩm chưa hợp lý....Mặt khác, Thẩm phán giải quyết các vụ án
dân sự vẫn còn nhiều sai sót, tình trạng vi phạm TTDS còn nhiều, tỷ lệ bản án
dân sự sơ thẩm bị hủy, sửa do lỗi chủ quan vẫn cao, một số vụ án còn để quá
hạn luật định; tính chủ động, sáng tạo của Thẩm phán còn hạn chế; sự phối hợp
giữa Thẩm phán với HTND, Thư ký chưa thực sự hiệu quả. Cơ chế bảo đảm
hoạt động TTDS của Thẩm phán chưa thực sự được quan tâm, hoàn thiện. Nói

1


cách khác, địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTDS nói chung và trong giải
quyết vụ án dân sự sơ thẩm còn nhiều điểm chưa rõ cả về khía cạnh nhận thức lý
luận và thực tiễn. Những nguyên nhân này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng xét
xử của Tòa án trong lĩnh vực dân sự, ảnh hưởng không có lợi đến quyền, lợi ích
của Nhà nước và nhân dân. Vì vậy, nghiên cứu để nhận thức cho đúng địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm phù hợp với yêu cầu của
tình hình mới, qua đó, đề xuất hoàn thiện các quy định và cơ chế bảo đảm thực hiện
hiệu quả địa vị pháp lý của Thẩm phán cùng các thủ tục giải quyết vụ án dân sự có
liên quan, góp phần thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước là
hết sức cần thiết. Do vậy, một công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ về “Địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện
nay” là thực sự cần thiết ở cả khía cạnh lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn
thực hiện.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống các khía cạnh

lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân
sự sơ thẩm theo nghĩa rộng (gồm các vụ án kinh doanh, thương mại; hôn nhân
gia đình; lao động và dân sự); đề xuất hoàn thiện pháp luật địa vị pháp lý của
Thẩm phán.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
à hệ thống các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm ở iệt Nam và một số nước
trên thế giới, các vụ việc giải quyết thực tế; các báo cáo, tổng kết tình hình thực
thi pháp luật địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm ở Việt Nam;
Phạm vi nghiên c u: Luận án nghiên cứu địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm theo nghĩa rộng (gồm các vụ án kinh doanh,
thương mại; hôn nhân gia đình; lao động và dân sự) theo pháp luật Việt Nam hiện
hành. Cụ thể, địa vị pháp lý của Thẩm phán được xác định sau khi thụ lý vụ án và
được lãnh đạo Tòa án phân công giải quyết vụ án theo quy định. Đồng thời xem xét
thực tiễn việc thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự
sơ thẩm. Ngoài ra, để phục vụ cho việc so sánh, đối chiếu cơ sở pháp lý và thực
tiễn về địa vị pháp lý của Thẩm phán, luận án sẽ tìm hiểu các quan niệm, quy định
pháp luật một số nước về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân

2


sự sơ thẩm.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như hương pháp
tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp phân tích lịch sử, phương pháp

so sánh và thống kê.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Ngoài việc kế thừa một số vấn đề liên quan đến luận án của các công
trình khoa học đã công bố, luận án có những đóng góp mới về các nội dung
sau:
- Về cách tiếp cận: Luận án không chỉ tiếp cận vấn đề địa vị pháp lý của
Thẩm phán ở Việt Nam hiện nay nói chung, mà tập trung nghiên cứu địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm. Địa vị pháp lý
của Thẩm phán được nghiên cứu một cách toàn diện ở các khía cạnh Nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm.
- Luận án đưa ra khái niệm, những thành tố cơ bản và làm rõ đặc điểm
của địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm ở Việt
Nam hiện nay.
- Luận án đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực trạng thực hiện
pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những hạn chế, bất cập của pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân
sự sơ thẩm c ng như những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng pháp
luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm.
- Luận án đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao địa vị pháp lý của Thẩm phán, qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả giải
quyết vụ án sơ thẩm của Thẩm phán. Những giải pháp đưa ra, một mặt hoàn
thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán, mặt khác hoàn thiện thủ tục tố tụng giải
quyết các vụ án dân sự sơ thẩm theo hướng khoa học nhằm giải quyết vụ án
nhanh chóng và đúng pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận, luận án đưa ra góc nhìn toàn diện về vấn đề địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm; xây dựng, hoàn thiện


3


địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự và thủ tục giải quyết vụ án
dân sự sơ thẩm.
- Về mặt thực tiễn, những giải pháp mà luận án đưa ra sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích cho quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm nói riêng, hoàn thiện pháp luật địa
vị pháp lý của Thẩm phán nói chung. uận án có thể dùng làm tài liệu giảng
dạy và học tập trong chuyên ngành luật tố tụng dân sự, luật kinh tế.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được chia thành 4 chương
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài luận án
Qua việc điểm lại các công trình nổi bật liên quan đến chủ đề nghiên
cứu, có thể thấy được những kết quả đã đạt được của hoạt động nghiên cứu, cụ
thể như sau
Th nhất, bước đầu đưa ra khái niệm và tầm quan trọng của địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự là thực hiện việc xét xử, giải
quyết các loại vụ việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình, dân
sự, lao động, kinh doanh thương mại.
Th hai, xác định được nội dung địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm và các yếu tố thể hiện, xác định địa vị pháp lý
của Thẩm phán. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân
sự sơ thẩm không chỉ trên cơ sở quy định cụ thể của B TTDS, mà còn căn cứ
vào vị trí vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện chức năng xét xử - yếu tố
quan trọng của quyền tư pháp.
Th ba, đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện
trên thực tế về địa vị pháp lý của Thẩm phán. Đã đưa ra các giải pháp xây dựng tiêu

chuẩn, quy trình để quy hoạch, tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đảm bảo tốt nhất quyền và nghĩa vụ của nhân
dân; giải pháp về sự độc lập của Thẩm phán
1.2. Những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo
Th nhất, các khái niệm được xây dựng trên cơ sở Thẩm phán là một
chủ thể của pháp luật TTDS, với những quyền và nghĩa vụ nhất định, chưa

4


nghiên cứu để xác định trách nhiệm khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, bao
gồm trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán về hành chính (kỷ luật), hình sự và
trách nhiệm hoàn trả khi giải quyết vụ án không chính xác, gây thiệt hại… Do
đó, khái niệm này sẽ được nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu làm rõ trong
luận án của mình.
Th hai, các công trình nghiên cứu trên cơ bản đã đưa ra các tiêu chí và
các yếu tố thể hiện, chi phối rộng, hẹp khác nhau để xác định địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, các công trình
chỉ mới dừng lại ở việc đưa ra các “yếu tố chung” để xác định địa vị của Thẩm
phán hoặc của Thẩm phán trong TTDS. Các nghiên cứu chưa hệ thống một
cách đầy đủ các yếu tố thể hiện, xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm.
Th ba, về thực trạng, các nghiên cứu mới chỉ bước đầu phân tích các
quy định pháp luật mà thiếu sự đánh giá toàn diện. Đặc biệt các nghiên cứu còn
chưa phân tích sâu về các quy định xác định trách nhiệm pháp lý của Thẩm
phán với tư cách là một trong những nội dung quan trọng trong địa vị pháp lý
của Thẩm phán. Thêm vào đó, hiện nay các quy định pháp luật về quyền hạn,
nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý và vị trí vai trò của Thẩm phán có nhiều thay đổi
theo Hiến pháp năm 2013, uật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, B TTDS năm
2015…

Th
, các nghiên cứu cơ bản đã đưa ra những hạn chế khi Thẩm phán
thực hiện việc giải quyết các vụ án dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, chưa đánh giá thực
trạng thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán với vụ án dân sự sơ thẩm, hơn nữa
các nghiên cứu hầu hết được thực hiện trước thời điểm ban hành Hiến pháp năm
2013 và các đạo luật về tổ chức Tòa án, về tố tụng ban hành năm 2014 và 2015. Do
đó, các nghiên cứu trước đây chưa có điều kiện để đánh giá thực trạng những quy
định của Hiến pháp và các đạo luật có liên quan mới được ban hành, có thực sự cải
thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử các vụ án dân sự sơ thẩm như thực
tiễn yêu cầu hay không.
Th ăm, các nghiên cứu c ng đề xuất nhiều giải pháp khác nhau để
hoàn thiện các quy định về quyền đối với bất động sản liền kề ở Việt Nam. Tuy
nhiên, chưa có nghiên cứu nào đề cập sâu đến giải pháp hoàn thiện trách nhiệm
pháp lý. Đồng thời các giải pháp chưa phù hợp với xu thế của thế giới, của
cuộc cách mạng 4.0….

5


1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Th nhất, luận án sẽ đưa ra khái niệm “địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết vụ án dân sự sơ ẩm ở Việt Nam hiệ ay” phù hợp với quan
niệm mới của Hiến pháp năm 2013 về vai trò, vị trí của Tòa án và Thẩm phán,
quan niệm mới về quyền tư pháp. uận án c ng hướng tới việc xác định được
nội hàm về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Th hai, luận án sẽ đưa ra các yếu tố thể hiện, xác định địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm theo pháp luật Việt
Nam hiện hành. Các yếu tố này quy định vị trí, vai trò của Thẩm phán, c ng
như nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết

vụ án dân sự sơ thẩm. Đồng thời so sánh với địa vị của Thẩm phán trong việc
giải quyết vụ án dân sự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và vụ án hình sự và
của những người tiến hành tố tụng khác.
Th ba, luận án sẽ phân tích cụ thể các quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án
dân sự sơ thẩm. Từ đó, sẽ đánh giá ưu điểm, c ng như nhược điểm của quy
định pháp luật, thực trạng pháp luật trong việc Thẩm phán giải quyết vụ án dân
sự sơ thẩm và so sánh nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm với Thẩm phán của
một số quốc gia khác.
Luận án c ng tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về địa
vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm theo pháp luật.
Làm rõ các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi Thẩm phán thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm.
Th
, luận án đưa ra một số giải pháp mới nhằm hoàn thiện hơn các
quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, đồng thời kiến nghị một quy trình giải
quyết vụ án dân sự phù hợp với từng loại vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, kinh doanh thương mại…

6


CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM
2.1. Khái niệm và những thành tố cơ bản của địa vị pháp lý Thẩm
phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
2.1.1. Khái niệm thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự
Qua nghiên cứu, có thể hiểu thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự như sau Thủ tục
sơ ẩm vụ án dân sự là việ á â , ơ q a , ổ ch c có tranh chấp ó đơ y
cầ và đ c Tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải quyế làm ă

phát sinh quyền,
ĩa vụ của mình hoặc của á â , ơ q a , ổ ch c khác.
2.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán
Từ những phân tích, đánh giá về địa vị pháp lý của Thẩm phán, có thể
đưa ra khái niệm như sau ịa vị pháp lý của Thẩm phán là tổng thể các nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán do pháp luậ q y định, thể hiện
vị trí của Thẩm phán trong m i quan hệ với các chủ thể trong bộ máy Nhà
ớc và quan hệ pháp luật t tụng.
2.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án
dân sự theo thủ tục sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở xem xét tổng thể nội hàm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm, có thể đưa ra khái niệm: ịa vị pháp lý của
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ ẩm là tổng thể á
ĩa vụ, quyền
hạn và trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán trong m i quan hệ với các chủ thể
khác khi tiến hành các thủ tục t tụng, áp dụ
á q y định pháp luật nội dung
nhằm giải quyết vụ án dân sự theo thủ tụ sơ ẩm í xá , đú p áp l ật,
đồng thờ xá định hậu quả pháp lý khi Thẩm phán không thực hiệ đú q y
định pháp luật.
2.1.4. Những thành tố cơ bản của địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
- Nhiệm vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Toà án cấp
sơ thẩm là công việc Thẩm phán phải thực hiện từ khi được phân công giải quyết
vụ án đến khi ban hành bản án, quyết định sơ thẩm và các công việc khác có liên
quan đến vụ án theo quy định của tố tụng dân sự.
- Quyền hạn của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục sơ thẩm là quyền quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng, ban hành các
quyết định tố tụng của Thẩm phán từ khi được phân công giải quyết vụ án đến


7


khi ban hành bản án, quyết định sơ thẩm và các quyền khác có liên quan đến vụ
án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự
tại Toà án cấp sơ thẩm là việc Thẩm phán phải chịu những chế tài theo quy
định của pháp luật do không thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2.2. Các yếu tố thể hiện, xác định địa vị pháp lý Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
Các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp lý luôn tác động đến
hệ thống Tòa án nói chung và địa vị pháp lý của các chủ thể tố tụng nói riêng,
trong đó có Thẩm phán. Khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm, các
yếu tố thể hiện, xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán được thể hiện thông qua
các yếu tố sau:
2.2.1. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hệ thống Tòa án và trong bộ
máy Nhà nước
Tòa án nhân dân với chức năng xét xử - là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền tư pháp, là cơ quan có vị trí độc lập và là bộ phận quan trọng, không thể
thiếu trong bộ máy Nhà nước. Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án là cơ quan
xét xử và là cơ quan có vị trí, vai trò quan trọng nhất.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước thì Thẩm phán là công chức,
làm việc trong TAND, trực tiếp tiến hành tố tụng xét xử các loại vụ án. Với tư
cách là người được giao thực hiện chức năng xét xử của Tòa án, Thẩm phán có
vị trí quan trọng và trung tâm không thể thay thế trong việc thực hiện một trong
những quyền lực Nhà nước.
2.2.2. Tính độc lập khi xét xử thể hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán
Bất kỳ quốc gia trên thế giới c ng coi nguyên tắc độc lập xét xử của
Thẩm phán là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất, bảo đảm cho một
nền pháp chế, sự ổn định và công lý. Đó là những yếu tố cần thiết để có được

thủ tục xét xử và phán quyết công minh. Trên cơ sở Bộ quy tắc đạo đức và ứng
xử của Thẩm phán ngày 04/7/2018, nội dung cơ bản và quan trọng là yếu tố
độc lập xét xử của Thẩm phán, bao gồm: Thẩm phán tự quyết định trên cơ sở
đánh giá của mình về tình tiết vụ án, chứng cứ và chỉ tuân theo pháp luật; thẩm
phán phải giữ gìn bản lĩnh nghề nghiệp, không bị tác động bởi bất kỳ sự can
thiệp nào; ba là, Thẩm phán phải độc lập với các thành viên HĐXX và độc lập
với những người tiến hành tố tụng khác; đặc biệt Thẩm phán phải độc lập với
các yếu tố tác động từ trong nội bộ và bên ngoài Tòa án. Đó là những yếu tố

8


cần thiết để Thẩm phán đưa ra được phán quyết công minh, công lý.
2.2.3. Mô hình tố tụng dân sự Việt Nam
Vai trò của Thẩm phán trong mỗi hình thức tố tụng là khác nhau dẫn đến
việc quy định khác nhau nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán.
Mô hình tố tụng dân sự ở Việt Nam, Thẩm phán tham gia vào các hoạt động tố
tụng, từ việc thu thập tài liệu chứng cứ đến việc xét xử vụ án. Khi giải quyết vụ
án dân sự, một mặt Thẩm phán phải bảo đảm hai yếu tố là tranh tụng và xét hỏi
theo đúng trình tự quy định của BLTTDS, mặt khác phải áp dụng chính xác và
đầy đủ các quy định pháp luật nội dung để đưa ra “sản phẩm” cuối cùng là bản
án, quyết định đúng pháp luật.
2.2.4. Tính chất vụ án dân sự thể hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán
Th nhất, bản chất của quan hệ pháp luật là cơ sở để quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán khi giải quyết mỗi loại vụ án. Thẩm phán tuân thủ
các thủ tục tố tụng tương ứng với loại việc đó, phụ thuộc vào phạm vi xét xử và
giới hạn xét xử của từng loại quan hệ tố tụng mà pháp luật quy định. Trong thủ
tục TTDS, vai trò của Thẩm phán được thể hiện rõ nét hơn, xét xử các vụ án liên
quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Thẩm phán trực tiếp lập hồ sơ vụ án bằng
cách thu thập tài liệu, chứng cứ; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; tổ

chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải; chuẩn bị
hồ sơ vụ án, trực tiếp xét xử và ban hành bản án, quyết định.
Th hai, xét dưới góc độ giai đoạn tiến hành tố tụng theo trình tự sơ
thẩm, phúc thẩm, thủ tục xét lại bản án có hiệu lực pháp luật (giám đốc thẩm;
tái thẩm), Thẩm phán xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm dân sự phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ, quyền hạn hơn so với Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ ở các
giai đoạn tố tụng khác. Bên cạnh đó là trách nhiệm rất nặng nề khi giải quyết
vụ án không phù hợp, đặc biệt là vi phạm các thủ tục TTDS.
Th ba, xem xét địa vị pháp lý của Thẩm phán trong mối quan hệ với
các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm. Thẩm phán là người tiến hành tố tụng cùng với Kiểm sát viên, HTND, Thư
ký tòa án...nhưng là người tiến hành tố tụng quan trọng nhất
2.3. Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với các chủ thể
khác khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
- Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với Chánh án Tòa án
cùng cấp;
- Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với địa vị pháp lý của

9


Hội thẩm nhân dân;
- Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân;
- Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký, Thẩm tra viên Tòa án;
- Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với địa vị pháp lý của
đương sự;
- Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ;

- Đánh giá địa vị pháp lý của Thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục sơ
thẩm với Thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm; xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
3.1. Thực trạng quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn của
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn khởi kiện, thụ lý
vụ dân sự
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
vụ án dân sự sơ thẩm bao gồm:
Một là, xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; xác
định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
Hai là, lập hồ sơ vụ án dân sự; tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, tổ
chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết;
Ba là, đề nghị Chánh án Tòa án phân công Thẩm tra viên hỗ trợ thực
hiện hoạt động tố tụng;
B n là, ban hành các quyết định tố tụng;
Năm là, giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền
được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý;
Sáu là, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

10


chứng cứ và hòa giải, ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
Bảy là, quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử và triệu tập người tham gia

phiên tòa;
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự:
Bao gồm các quy định phần thủ tục bắt đầu phiên tòa; quy định về thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa; quy định phần thủ tục nghị án và tuyên án;
- Thẩm phán đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật;
- Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp
luật;
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán sau khi kết thúc phiên tòa dân sự
sơ thẩm bao gồm vấn đề sửa chữa, bổ sung bản án; Thẩm phán thực hiện việc
cấp trích lục bản án; giao, gửi bản án; Thẩm phán thực hiện việc hủy bỏ
BPKCTT;
- Tiến hành hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ án dân sự theo quy
định của BLTTDS;
- Địa vị pháp lý của Thẩm phán khi giải quyết theo thủ tục rút gọn.
3.1.2. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm
- Trách nhiệm của Thẩm phán khi có hành vi vi phạm chưa đến mức
phải xử lý kỷ luật: Bên cạnh quy định về trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân
sự (bồi hoàn) và trách nhiệm hình sự thì TAND tối cao có quy định về việc xử
lý người giữ chức danh tư pháp trong TAND có hành vi vi phạm do thiếu trách
nhiệm hoặc vi phạm trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao nhưng chưa đến
mức phải xử lý kỷ luật theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19/6/2017
của Chánh án TAND tối cao.
- Trách nhiệm kỷ luật: Hành vi vi phạm của Thẩm phán trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm nói riêng và hoạt động công vụ nói chung, tùy
theo mức độ mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc phải
chịu cả hai trách nhiệm. Thẩm phán là công chức Nhà nước nên việc xem xét ra
quyết định kỷ luật đối với Thẩm phán c ng thực hiện theo các quy định chung
đối với công chức. Luật Cán bộ, công chức quy định sáu hình thức kỷ luật công

chức là: Khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; hạ ngạch; cách chức; buộc thôi
việc. Tùy vào mức độ và tính chất của hành vi sai phạm, Thẩm phán có thể bị áp
dụng các hình thức xử lý kỷ luật nêu trên.

11


- Trách nhiệm hình sự:
Trách nhiệm hình sự áp dụng đối với Thẩm phán là loại trách nhiệm
nghiêm khắc nhất đối với hành vi Thẩm phán xâm phạm sự đúng đắn của hoạt
động tố tụng. Bộ luật hình sự hiện hành quy định về các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp, nhiều hành vi phạm tội đối với các chủ thể tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng. Trường hợp Thẩm phán phạm tội bị Tòa án kết án và
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; trường hợp bị Tòa án phạt tù mà không được
hưởng án treo thì đương nhiên bị thôi việc.
- Thẩm phán phải có trách nhiệm hoàn trả ngân sách Nhà nước:
Quá trình thi hành công vụ, Thẩm phán có hành vi trái pháp luật, gây thiệt
hại về vật chất, tinh thần cho cá nhân, tổ chức thì phải xem xét trách nhiệm bồi
thường nếu người bị thiệt hại có đơn yêu cầu. Trách nhiệm bồi thường được thực
hiện trước tiên thuộc về Tòa án nơi quản lý trực tiếp Thẩm phán. Sau đó, Thẩm
phán có lỗi gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách Nhà nước một phần
hoặc toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị hại.
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
3.2.1. Những kết quả đã đạt được
Th nhất, sự độc lập của Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự ngày
càng được đảm bảo;
Th hai, số lượng và chất lượng Thẩm phán được củng cố và tăng
cường;

Th ba, kết quả giải quyết các vụ án dân sự của Thẩm phán ngày càng
đảm bảo chất lượng;
3.2.2. Những tồn tại khi thực hiện quy định về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đã đạt được, việc thực hiện địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm còn nhiều
tồn tại, khó khăn, vướng mắc.
- Chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán,
c ng như chưa xác định đúng vị trí, vai trò của Thẩm phán: Th nhất, Thẩm
phán, HĐXX bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tác động bên ngoài; th hai,
nguyên tắc độc lập khi giải quyết vụ án của Thẩm phán bị ảnh hưởng tiêu cực
bởi chính bản thân Thẩm phán. Nguyên tắc độc lập khi giải quyết vụ án của

12


Thẩm phán bị vi phạm còn có nguyên nhân do chính các Thẩm phán “cho
phép” mà không có sự phản kháng lại hoặc không dám phản kháng.
- Thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự chưa hợp lý:
Th nhất, từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán
phải thực hiện rất nhiều các thủ tục thông báo, giao nhận cho các đương sự,
nhiều thủ tục không cần thiết, gây lãng khí tài chính và thời gian;
Th hai, quy định thời hiệu khởi kiện không phù hợp;
Th ba, quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải không phù hợp;
- Thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự chưa đáp ứng được yêu cầu của
cuộc cách mạng công nghệ Các lĩnh vực khác trong cuộc sống trong đó có lĩnh
vực thuế, tài chính, ngân hàng, thủ tục hành chính công... đã và đang áp dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ, công nghệ 4.0 vào hoạt động
của mình. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp vụ án dân sự tại Tòa

án nhân dân vẫn tồn tại với thủ tục tố tụng cứng nhắc, không linh hoạt. Pháp
luật chưa có quy định về việc sử dụng điện thoại, mail, zalo, facebook... trong
vấn đề thông báo thụ lý, triệu tập đương sự, thông báo hòa giải, công khai....
- Tình trạng Thẩm phán vi phạm thủ tục tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong quá trình giải quyết vụ án dân sự:
Th nhất, Thẩm phán thực hiện việc thu thập tài liệu, chứng cứ không
chính xác;
Th hai, Thẩm phán (Hội đồng xét xử) đánh giá chứng cứ không phù
hợp, không khách quan;
Th ba, sai sót do đưa thiếu người tham gia tố tụng của vụ án;
Th
, Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm có sai sót do thủ tục
thu thập chứng cứ không bảo đảm;
Th ăm, Thẩm phán nhầm lẫn về thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của
bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
Th sáu, nhiều bản án dân sự sơ thẩm tuyên không chính xác về nội
dung, không phù hợp về hình thức;
Ngoài ra, vẫn còn trường hợp Thẩm phán gây sách nhiễu, đòi hỏi về vật
chất của đương sự; trình độ năng lực kém gây cản trở hoạt động TTDS, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với đường lối chính sách pháp luật.
- Phân loại án và cơ chế phân công giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm chưa
phù hợp, chưa bảo đảm yếu tố ngẫu nhiên, khách quan và công bằng.

13


CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM
PHÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật địa vị pháp lý của Thẩm

phán trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
4.1.1. Phương hướng hoàn thiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Trong lĩnh vực TTDS, phương hướng hoàn thiện địa vị pháp lý của
Thẩm phán với nội dung nhiệm vụ, quyền hạn cần được xây dựng cho phù hợp
với bản chất của TTDS. Theo đó, cần hạn chế, bỏ bớt một số nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán trong việc tự thu thập tài liệu, chứng cứ. Đồng thời đề cao
vai trò của đương sự trong việc tìm và cung cấp chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Thông qua đó, đương sự tiếp cận, biết được nội
dung tài liệu, chứng cứ là cơ sở quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc
tranh tụng.
Bổ sung một số quyền cho Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm như quyền tống đạt theo phương thức bằng điện thoại, thư điện tử,
internet... hoặc thực hiện một số thủ tục tố tụng trực tuyến có sự tham gia của
đại diện VKSND, chính quyền địa phương...nhằm giải quyết vụ án nhanh
chóng, chính xác vụ án phù hợp với đòi hỏi của đất nước về công nghiệp 4.0,
nhưng vẫn đảm bảo quyền tranh tụng, quyền tiếp cận công khai chứng cứ của
đương sự.
Nghiên cứu để xây dựng thủ tục tố tụng có thể xét xử trực tuyến các vụ
án về tranh chấp liên quan đến mua bán hàng hóa, dịch vụ trực tuyến với thủ
tục đơn giản với thời gian tố tụng ngắn.
4.1.2. Phương hướng hoàn thiện trách nhiệm của Thẩm phán
Hiện nay trách nhiệm của Thẩm phán bao gồm: Trách nhiệm của Thẩm
phán có hành vi vi phạm chưa đến mức phải xử lý kỷ luận; trách nhiệm kỷ luật;
trách nhiệm bồi thường thiệt hại; trách nhiệm hình sự. Đánh giá về các quy
định trách nhiệm của Thẩm phán, bên cạnh những ưu điểm là nâng cao trách
nhiệm của Thẩm phán và bảo đảm chức năng xét xử của Tòa án, thì việc quy
định trách nhiệm của Thẩm phán quá chi tiết với nhiều chế tài có thể ảnh hưởng
đến sự nghiệp, dẫn đến sự “thận trọng thái quá” của mỗi Thẩm phán khi giải
quyết vụ án.
Phương hướng hoàn thiện trách nhiệm của Thẩm phán trong giải quyết vụ


14


án dân sự sơ thẩm cần đề cao hai nội dung, th nhất xây dựng hệ thống văn bản
pháp luật về trách nhiệm của Thẩm phán đầy đủ và thống nhất, tránh chồng chéo
giữa các biện pháp xử lý; th hai, xây dựng hệ thống phân loại án thống nhất toàn
quốc theo hướng ngẫu nhiên, công bằng; xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực trách
nhiệm của Thẩm phán căn cứ vào cả quá trình giải quyết các loại án, tiêu chí về tỷ
lệ các vụ án bị sửa, hủy cần được xây dựng lại theo hướng cao hơn.
4.2. Hoàn thiện quy định pháp luật địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
4.2.1. Hoàn thiện quy định liên quan đến xác định vị trí, vai trò của
Thẩm phán
Xác định đúng vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hệ thống cơ quan Nhà
nước nói chung và Tòa án nói riêng là cần thiết, cần coi Thẩm phán là một
nghề, tạo điều kiện cho Thẩm phán độc lập xét xử, yên tâm làm việc, học tập
nâng cao trình độ. Bên cạnh đó quy định cơ chế kiểm tra định kỳ về chất lượng
xét xử, tính chất và mức độ vi phạm hoặc sức khỏe để miễn nhiệm những Thẩm
phán không còn đủ tiêu chuẩn.
4.2.2. Hoàn thiện quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán
Pháp luật Việt Nam cần phải nghiên cứu và quy định thống nhất nhiệm
kỳ của tất cả các Thẩm phán; tăng thời gian nhiệm kỳ của Thẩm phán, c ng
như tuổi nghỉ hưu để Thẩm phán yên tâm công tác và là cơ sở xác định vị thế
của Thẩm phán so với các công chức khác. Thực tế, những Thẩm phán nghỉ
hưu là những người có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm xét xử. Sau khi
nghỉ hưu, đa số các Thẩm phán tiếp tục làm luật sư, công chứng viên, tham gia
giảng dạy…
4.2.3. Hoàn thiện thủ tục TTDS liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán khi giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm

- Hoàn thiện thủ tục TTDS liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán khi giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm:
Một là, để giải quyết vướng mắc, bất cập khi Thẩm phán tiến hành phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cập, công khai chứng cứ đối với những vụ án dân
sự phức tạp, liên quan đến nhiều chủ thể, nhiều lĩnh vực, khối lượng tài sản
lớn…số tài liệu, chứng cứ đến hàng nghìn bút lục, thời gian tổ chức phiên họp kéo
dài cả ngày hoặc nhiều ngày. Pháp luật cần quy định cho Thẩm phán chỉ phải thông
báo tên đề mục các tài liệu, nếu đương sự có yêu cầu nội dung cụ thể của tài liệu
nào thì Thẩm phán mới phải công khai tài liệu đó….

15


Hai là, pháp luật tố tụng cần quy định cho Thẩm phán có quyền ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận một phần khi tiến hành hòa giải trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử: Quá trình chuẩn bị xét xử một vụ án, Thẩm phán có thể ra
nhiều quyết định công nhận sự thỏa thuận một phần khác nhau. Quyết định đó
có hiệu lực pháp luật ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị.
Ba là, pháp luật cần quy định Thẩm phán có quyền ban hành quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án một phần đối với những yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập thuộc trường hợp đình chỉ giải quyết theo Điều 217
BLTTDS. Phần yêu cầu bị đình chỉ giải quyết không liên quan đến những yêu
cầu còn lại. Quyết định đình chỉ giải quyết một phần được xem xét phần án phí
tương ứng.
B n là, hoàn thiệ á q y định về thủ tụ
ô báo o đ ơ sự: Để
đương sự thực hiện đầy đủ, đúng quyền và nghĩa vụ của mình, ngay khi thụ lý
vụ án, cần phải có quy định Thẩm phán thông báo bằng văn bản cho đương sự
biết về quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng. Khi Thẩm phán ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử, đồng thời thông báo bằng văn bản quyền và nghĩa vụ

cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác khi tham gia tố tụng tại
Tòa án. Mục đích của việc thông báo để đương sự có thể thực hiện đầy đủ các
quyền của mình như Yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; cung
cấp các tài liệu, chứng cứ; đề nghị triệu tập thêm người làm chứng... trước khi
phiên tòa được diễn ra tránh việc phải hoãn phiên tòa.
- Hoàn thiện thủ tục giải quyết vụ án dân sự khi đương sự vắng mặt:
Th nhất, đối với trường hợp nếu một bên đương sự cố ý vắng mặt:
BLTTDS cần có quy định cụ thể về trình tự thủ tục giải quyết đối với đương sự
cố ý vắng mặt, không hợp tác. Theo đó, Thẩm phán chỉ cần thông báo một lần
hoặc niêm yết một lần bằng văn bản yêu cầu đương sự phải có mặt tại Tòa án
với thời gian cụ thể để tham gia các thủ tục tố tụng như tự khai, công khai
chứng cứ, hòa giải, xét xử...Nếu đương sự đến Tòa án để tham gia thì Thẩm
phán thực hiện theo trình tự tố tụng thông thường; trường hợp đương sự vẫn cố
ý vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng mà không phải
hoãn hoặc triệu tập, niêm yết lại.
Th hai, đối với trường hợp vụ án chỉ có một bên đương sự có mặt tại
phiên tòa, cần quy định thủ tục đơn giản, bỏ nội dung thủ tục tranh luận tại
phiên tòa; trường hợp cả hai bên đương sự đều vắng mặt thuộc trường hợp vẫn
phải xét xử thì Thẩm phán, HĐXX chỉ cần Đại điện KS, cơ quan, tổ chức, cá

16


nhân khác (nếu có) đưa ra ý kiến, sau đó Thẩm phán, HĐXX nghị án và đưa ra
quyết định.
- Quy định cho Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử có quyền về sửa chữa bổ
sung bản án theo hướng mở rộng hơn, đương sự có quyền kháng cáo phần sửa
chữa, bổ sung kể từ ngày nhận được văn bản sửa chữa, bổ sung. Như vậy, vẫn đảm
bảo quyền của đương sự và tránh trường hợp vụ án bị hủy để xét xử lại.
Đặc biệt, pháp luật tố tụng cần quy định cho Thẩm phán, HĐXX có

quyền sửa chữa, bổ sung quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự; sửa
chữa, bổ sung quyết định đình chỉ và các quyết định khác, những nội dung này
chưa được pháp luật quy định.
4.2.4. Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của Thẩm phán khi tiến
hành tố tụng
Bên cạnh việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, BLTTDS cần
thiết phải quy định cụ thể hơn nữa trách nhiệm của Thẩm phán, của HĐXX. Cụ
thể, trách nhiệm của Thẩm phán tiến hành thụ lý đơn khởi kiện; trách nhiệm của
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án là chủ tọa; trách nhiệm của Thẩm
phán giải quyết vụ án không phải là chủ tọa; trách nhiệm của Thẩm phán dự
khuyết; trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân.
Hiện nay, Thẩm phán có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi
hoàn (dân sự) và trách nhiệm hình sự khi giải quyết các loại vụ án khi có vi phạm.
Ngoài ra, theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC đưa ra căn cứ để xử lý trách
nhiệm của Thẩm phán trong trường hợp vi phạm chưa đến mức phải bị kỷ luật bao
gồm nhiều mức xử lý khác nhau như kiểm điểm trước cơ quan, đơn vị; tạm dừng
thực hiện nhiệm vụ được giao; bố trí làm công việc khác; chưa xem xét đề nghị bổ
nhiệm lại Thẩm phán; không xem xét đề nghị bổ nhiệm lại Thẩm phán…. Tuy
nhiên, quyết định trên có thể là một rào cản đối với việc thực hiện công cuộc cải
cách tư pháp trong hệ thống Tòa án, ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập của Thẩm
phán. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu, xem xét để sửa đổi, bổ sung quy định của quyết
định số 120/QĐ-TANDTC theo hướng chỉ xử lý bằng hình thức rút kinh nghiệm;
không xét thi đua; buộc học tập bổ sung kiến thức, đạo đức nghề Thẩm phán….Đối với
các vi phạm khác thuộc sự điều chỉnh của Luật cán bộ công chức; luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước và Bộ luật hình sự.
4.2.5. Tòa án trực tuyến với thủ tục xét xử, giải quyết trực tuyến
Đổi mới thủ tục hành chính, thủ tục giải quyết các vụ án cho phù hợp với
xu thế của công nghệ, của thế giới là đòi hỏi và yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn

17



hiện nay, khi mà số lượng các vụ án ngày một tăng, đặc biệt trong lĩnh vực thương
mại điện tử và Internet. Do đó, cần thiết thành lập Tòa án xét xử trực tuyến hoặc
xây dựng thủ tục xét xử trực tuyến ở Việt Nam để áp dụng ở một số lĩnh vực nhất
định và thực hiện thí điểm ở một số Tòa án với cách thức và thủ tục đơn giản so với
thủ tục thông thường để bảo đảm tính nhanh chóng, chính xác.
4.3. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
4.3.1. Đổi mới trong tư duy và nhận thức pháp luật về địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
Hiện nay, cách nhìn nhận về Tòa án nhân dân các cấp của nhiều cơ quan,
nhiều người như là một cơ quan trực thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan
Đảng. Đối với các đương sự, người tham gia tố tụng khác trong nhiều vụ án có
tâm lý cho rằng chỉ là vụ án dân sự nên khi được Thẩm phán triệu tập có thái độ
không hợp tác hoặc trốn tránh gây mất thời gian c ng như chi phí tố tụng. Điều
đó ảnh hưởng đến vị trí vai trò của Tòa án các cấp, đồng thời ảnh hưởng đến địa
vị pháp lý của Thẩm phán. Pháp luật tố tụng chưa có một cơ chế phù hợp để
Thẩm phán có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, để bảo vệ công
lý, các quyền và lợi ích của nhân dân.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân phải có ý thức tuân thủ pháp
luật, tôn trọng sự uy nghiêm, bảo vệ công lý của đội ng Thẩm phán. Điều đó
đòi hỏi không chỉ các cơ quan Nhà nước mà cả người dân phải nâng cao sự
hiểu biết về pháp luật; thái độ đối với pháp luật và khả năng thực hiện c ng như
áp dụng các quy định của pháp luật.
4.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và quản lý đội ngũ
Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm
Th nhất, tăng cường hơn nữa vai trò của cơ quan quản lý Thẩm phán,
Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia trong việc đảm bảo nguyên
tắc độc lập xét xử, quản lý chất lượng xét xử của Thẩm phán. Xác định rõ

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong giải quyết các loại
vụ án, trong đó có các vụ án dân sự sơ thẩm. Định kỳ thực hiện việc kiểm tra
trình độ, chuyên môn và năng lực của Thẩm phán. Đối với những Thẩm phán
có vi phạm cần nghiêm túc việc xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Thẩm
phán giải quyết án dân sự nhiều sai sót, bị hủy án, sửa án nhiều, việc giải quyết
các vụ án dân sự, gây bức xúc trong dư luận hoặc trong thời gian ngắn không

18


hoàn thành nhiệm vụ thì cần thiết phải tạm dừng hoặc không cho làm nhiệm vụ
xét xử.
Th hai, thường xuyên tập huấn có cơ chế bổ sung kiến thức, trình độ
nghiệp vụ cho các Thẩm phán. Hệ thống Tòa án cần thường xuyên thực hiện
công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ
chính trị cho Thẩm phán, trong đó chú trọng việc tập huấn các văn bản pháp
luật mới, kỹ năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền mới, rút kinh nghiệm về
công tác xét xử phúc thẩm cho đội ng Thẩm phán và tập huấn các kiến thức
liên quan tới công tác xét xử các vụ án dân sự và đặc biệt chú ý tới một số loại
án dân sự phức tạp. Để có được phán quyết chính xác, khách quan, công bằng,
đòi hỏi Thẩm phán không chỉ nắm vững pháp luật mà còn phải trang bị cho
mình những hiểu biết nhất định về nhiều chuyên ngành khác Như y tế, tài
chính – ngân hàng, kế toán, môi trường, đất đai, xây dựng…
Th ba, thực hiện và triển khai có hiệu quả đề án việc làm, xác định
Thẩm phán là công chức đặc biệt so với các công chức, viên chức khác trong
cơ quan Nhà nước, từ đó có chính sách tăng lương và chế độ đãi ngộ, bảo vệ để
Thẩm phán yên tâm công tác và độc lập. Đồng thời tiếp tục triển khai cơ chế
tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với
chức danh Thẩm phán.
Xây dựng chiến lược phát triển đội ng Thẩm phán trong hệ thống Tòa

án nhân dân. Thường xuyên rà soát, nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện về phẩm
chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ đối với
Thẩm phán. Thực hiện đúng và hiệu quả việc kê khai tài sản, thu nhập của
Thẩm phán.
4.3.3. Bảo đảm việc phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự
theo nguyên tắc vô tư, khách quan và ngẫu nhiên
Quy định về nguyên tắc phân công vụ án vô tư, khách quan và ngẫu
nhiên lần đầu tiên được quy định tại BLTTDS. Về nguyên tắc, một người đã
được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì có thể giải quyết các loại vụ án. Trên thực
tế, việc phân công vụ án còn nhiều bất cập, vẫn tồn tại việc Thẩm phán lựa
chọn vụ án dễ dàng, hoặc lựa chọn những vụ án có quan hệ thân quen. Việc
phân công vụ án dân sự sơ thẩm nói riêng và các vụ án dân sự nói chung phải dựa
trên nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên góp phần bảo đảm nguyên tắc độc

19


lập, công bằng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi lãnh đạo Tòa án phải
công tâm, vì công việc không vì tình cảm, tài chính. Hệ thống Tòa án nhân dân
cần xây dựng hệ thống toàn quốc về việc phân công vụ án trên cơ sở dữ liệu về
nội dung khởi kiện; quan hệ tranh chấp; gia trị tài sản; số lượng đương sự…để
đảm bảo sự công bằng giữa các Thẩm phán với nhau trong cùng đơn vị hoặc giữa
Thẩm phán giữ chức vụ quản lý với các Thẩm phán khác.
4.3.4. Chế độ thỉnh thị án và báo cáo án
Trên thế giới, chế độ thỉnh thị án và báo cáo án của Thẩm phán trước
lãnh đạo và cơ quan quản lý là một trong những yếu tố xác định có hay không
sự độc lập trong xét xử. Khi đó, quyết định của Hội đồng xét xử, Thẩm phán
không phải là ý chí của họ, không dựa trên quá trình tranh tụng giữa các bên
đương sự, mà phụ thuộc vào ý chí chủ quan của một vài cá nhân lãnh đạo. Một
nền tư pháp của quốc gia phát triển, bảo đảm công lý, quyền con người luôn

gắn với sự độc lập trong xét xử.
Ở nước ta, một số Tòa án vẫn còn tình trạng thỉnh thị án, báo cáo án
trước khi xét xử. Đây là một thực trạng đã và đang diễn ra trong hệ thống Tòa
án nhân dân. Chúng ta không phủ nhận mặt tích cực của việc thỉnh thị án, báo
cáo án của Thẩm phán trực tiếp giải quyết, xét xử vụ án dân sự đối với lãnh đạo
Tòa án của đơn vị và lãnh đạo Tòa án cấp trên trực tiếp, đó là sự thống nhất áp
dụng pháp luật; thống nhất định hướng giải quyết vụ án mang tính ổn định giữa
các vụ án khác nhau, của nhiều Thẩm phán; tranh thủ được trí tuệ của nhiều
người, đặc biệt là những Thẩm phán có nhiều kinh nghiệm. Người đứng đầu cơ
quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm chính về quản lý đối với các mặt công tác,
đặc biệt là chất lượng xét xử, không được lạm dụng việc tổ chức công tác xét
xử, trao đổi ý kiến về chuyên môn nghiệp vụ để hình thành chế độ duyệt án, áp
đặt quan điểm cá nhân trái với nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp
luật trong việc giải quyết các loại vụ án. Do đó, để Thẩm phán, HĐXX có thể
độc lập xét xử, độc lập trong nhận thức và phán quyết là một đòi hỏi cấp bách
cần phải được tôn trọng thực hiện.
4.3.5. Hoàn thiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ
thể khác tác động đến địa vị pháp lý của Thẩm phán
Th nhất, nhiệm vụ, quyền hạn Thẩm phán dự khuyết: BLTTDS lần đầu
tiên quy định việc phân công Thẩm phán dự khuyết cùng với Thẩm phán giải

20


quyết vụ án tại Điều 197. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán dự khuyết trong hoạt động chuẩn
bị xét xử; không quy định Thẩm phán dự khuyết có quyền hạn hoặc ý kiến, đề
xuất đối với hoạt động thu thập tài liệu chứng cứ của Thẩm phán giải quyết vụ
án. Thực tiễn có trường hợp, khi vụ án đưa ra xét xử, Thẩm phán giải quyết vụ
án không thể tiến hành nhiệm vụ thì Thẩm phán dự khuyết thay, nhưng Thẩm

phán dự khuyết cho rằng tài liệu, chứng cứ đó chưa đầy đủ, thiếu người tiến
hành tố tụng hoặc việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Thẩm phán giải quyết vụ
án là vi phạm tố tụng cần phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ, bổ sung thêm
người tham gia tố tụng, dẫn đến vụ án kéo dài, lãng phí về thời gian và kinh
tế… Những bất cập đó B TTDS năm 2015 chưa giải quyết được.
Th a , đ i với Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán
là những người tiến hành tố tụng khi xét xử vụ án dân sự. Giữa Thẩm phán và
HTND có sự độc lập nhưng có mối quan hệ tố tụng khăng khít. ì vậy, hoàn
thiện các quy định về HTND có ý nghĩa quan trọng để Thẩm phán thực hiện tốt
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm. Pháp luật tố tụng dân sự cần quy định
HTND tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án, để HTND có thể chủ động thời
gian nghiên cứu những tài liệu do Thẩm phán đã thu thập, cùng với Thẩm phán
đưa ra những vấn đề cần làm tiếp theo, những nội dung còn mâu thuẫn. Đồng
thời c ng để HTND có thời gian để nghiên cứu các văn bản pháp luật, vì đa số
HTND kiêm nhiệm các công việc khác, trình độ hiểu biết pháp luật chưa sâu,
rộng. Từ đó, khi xét xử và ban hành bản án, quyết định được chính xác, đúng
pháp luật. Đồng thời thể hiện vị trí, vai trò của người “đại diện nhân dân” đưa ý
kiến trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Hàng năm phải tập huấn nghiệp vụ cho HTND đầy đủ và thiết thực hơn.
Đồng thời, bên cạnh trách nhiệm của Thẩm phán, pháp luật phải quy định trách
nhiệm của HTND đầy đủ và cụ thể hơn nữa để HTND tiến hành tố tụng có
“trách nhiệm” nhiều hơn đối với những phán quyết của mình. Đồng thời cần có
những chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với HTND.
Th ba, đ i với Kiểm sát viên: Điều 58 B TTDS quy định Kiểm sát viên
tham gia các phiên tòa xét xử vụ án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự
chưa quy định để làm nổi bật vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng.
Pháp luật chưa quy định cho Kiểm sát viên có yêu cầu, kiến nghị bằng văn bản

21



sau khi đọc hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển sang. Theo chúng tôi, bổ sung quy
định này là cần thiết để Thẩm phán xem xét và sửa chữa những thiếu sót (nếu
có) trước khi phiên tòa diễn ra, tránh trường hợp tại phiên tòa, Kiểm sát viên
kiến nghị những sai sót trong quá trình chuẩn bị xét xử, sau đó HĐXX phải
hoãn phiên tòa để làm lại, mất thời gian và chi phí tố tụng. Đồng thời, pháp luật
tố tụng dân sự cần quy định cho Thẩm phán được thực hiện các biện pháp thu
thập chứng cứ sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử (chỉ đối với trường
hợp do Kiểm sát viên kiến nghị) và tại phiên tòa.
Th
, đ i vớ
ời bảo vệ quyền và l i ích của đ ơ sự: Sự tham gia
của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong
việc lập hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa góp phần quan trọng
thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị. Đa số người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự là luật sư - hiểu pháp luật nên việc giải quyết vụ án sẽ kịp thời và
chính xác.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng khi
có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 75 B TTDS). Tòa án không có nghĩa vụ
phải nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tuy nhiên, trong điều
kiện các vụ án dân sự ngày càng tăng, đối tượng tranh chấp phức tạp, đương sự
chưa chủ động thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, chất lượng
xét xử của Thẩm phán chưa cao... thì cần thiết quy định sự tham gia của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bắt buộc trong một số loại vụ án như
tranh chấp quyền sử dụng đất, sở hữu nhà, tranh chấp về kinh doanh thương mại,
những vụ án có tỷ lệ hủy, sửa hàng năm cao… Thực tế các vụ án có sự tham gia
của người bảo vệ quyền và lợi ích giúp cho việc thu thập chứng cứ của Thẩm phán
đầy đủ hơn, hạn chế vi phạm tố tụng của Thẩm phán, các đương sự ít gây “khó

khăn” khi Thẩm phán tiến hành tố tụng.
4.3.6. Thực hiện đúng quy định về nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng
cứ của đương sự; cá nhân, cơ quan, tổ chức
Đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự vừa là quyền vừa là
nghĩa vụ. Quá trình giải quyết các vụ án dân sự sơ thẩm, Thẩm phán phải thực
hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời hướng dẫn, giải thích để

22


các đương sự, người tham gia tố tụng khác thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của
họ. Đối với các đương sự, Thẩm phán cần yêu cầu đương sự tự thu thập tài liệu
chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đối với trường hợp yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ, Thẩm
phán phải ban hành Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ để bảo đảm giá trị
pháp lý về thủ tục tố tụng, nghĩa vụ, thời gian cung cấp chứng cứ của cơ quan,
tổ chức được yêu cầu. Trường hợp, người có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ
cố tình không cung cấp chứng cứ cho Tòa án, thì Thẩm phán căn cứ các quy
định tại Điều 489 B TTDS để xử lý hành chính về hành vi từ chối cung cấp tài
liệu mà không có lý do chính đáng.

KẾT LUẬN
Thẩm phán có vị trí, vai trò quan trọng không chỉ đối với hệ thống Tòa
án mà đối với cả hoạt động tư pháp nói chung. Hoạt động tố tụng của Thẩm
phán là nhân danh Nhà nước để xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, vì
vậy việc làm rõ và hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán là
đòi hỏi quan trọng có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn
Trên cơ sở xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu, luận án đã lần
lượt giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu để đạt được mục đích đã đề ra. Kết
quả nghiên cứu của luận án thể hiện qua một số điểm sau đây

1. Luận án đã đưa ra được khái niệm về địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết vụ án dân sự sơ ẩm là tổng thể á
ĩa vụ, quyền hạn và
trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán trong m i quan hệ với các chủ thể khác khi
tiến hành các thủ tục t tụng, áp dụng các q y định pháp luật nội dung nhằm giải
quyết vụ án dân sự theo thủ tụ sơ ẩm í xá , đú p áp l ậ , đồng thời xác
định hậu quả pháp lý khi Thẩm phán không thực hiệ đú
á q y đị đó, qua
đó, góp phần nhận diện chính xác và đầy đủ về địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm. Đồng thời, luận án c ng phân tích những
căn cứ pháp lý để xác định các thành tố cơ bản của địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay gồm: Nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm; trách
nhiệm của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm. Từ đó, luận án đề

23


×