Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.95 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU NGUYỆT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN THĂNG BÌNH
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU NGUYỆT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN THĂNG BÌNH
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 8.34.04.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ HỒNG


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.
Quảng Nam, ngày

tháng 8 năm 2019

Tác giả luận văn

TRẦN THỊ THU NGUYỆT


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ................................................... 8
1.1. Các khái niệm ............................................................................................. 8
1.2. Quan điểm về phòng, chống bạo lực gia đình. ........................................ 14
1.3. Nội dung chủ yếu của chính sách phòng, chống bạo lực gia đình của Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 17
1.4. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách Phòng chống
bạo lực gia đình ............................................................................................... 21
1.5. Nội dung cụ thể trong tổ chức thực hiện chính sách Phòng, chống bạo lực
gia đình ............................................................................................................ 22
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách phòng,
chống bạo lực gia đình. ................................................................................... 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ VIỆC TRIỂN
KHAI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH TẠI HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM ..................... 31
2.1. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam ................................................................................................................. 31
2.2. Thực trạng bạo lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam năm
2013-2018........................................................................................................ 36
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam 5 năm qua ....................................................... 37
2.4. Kết quả thực hiện chính sách Phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện
Thăng Bình ...................................................................................................... 47


CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
TẠI HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM ................................ 52
3.1. Quan điểm ................................................................................................ 52
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng chống bạo lực
gia đình ............................................................................................................ 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PCBLGĐ

Phòng chống bạo lực gia đình

BLGĐ


Bạo lực gia đình

Hội LHPN

Hội Liên hiệp phụ nữ

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

BĐG

Bình đẳng giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là nơi trú ngụ của hạnh phúc, cái nôi nuôi dưỡng và giáo dục
trẻ thơ, nơi trở về sau ngày mưu sinh, là bến đỗ bình yên đối với mỗi con
người. Tuy nhiên, mỗi gia đình đều có những nguy cơ và tác động bởi nhiều
các yếu tố khác nhau, nhất là yếu tố về bạo lực gia đình. Dù ở bất cứ nơi đâu,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, bạo lực gia đình không chỉ để lại hậu quả về thể
chất, tinh thần mà còn về mặt kinh tế - xã hội, làm xói mòn các giá trị, chuẩn
mực, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phá vỡ sự bền vững của gia đình.
Bạo lực gia đình có hưởng tiêu cực đối tất cả các thành viên gia đình,
kể cả đối với trẻ em chứng kiến bạo lực cũng như các em lớn lên trong một
môi trường nhiều xung đột, thiếu hạnh phúc. Bạo lực gia đình thường được
che dấu để người ngoài không thấy được và không thể hoặc rất khó khăn
trong việc tác động để bảo vệ nạn nhân. Ngày nay, BLGĐ không phải là vấn
đề mang tính địa phương mà là một vấn nạn toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các

nước nghèo, đang phát triển cho đến giàu có, mọi gia đình thuộc mọi tầng lớp
của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn này. Bạo lực gia đình có thể xảy ra với
bất cứ ai trong gia đình, nhưng chủ yếu là nhóm thành viên là phụ nữ, trẻ em
– đây là nhóm thanh viên bị bạo lực song lại cam chịu, ít chia sẻ, do vậy nên
bạo lực thường kéo dài và để lại hậu quả nặng nề, đặc biệt là hậu quả về mặt
tâm lý.
Trong thời gian gần đây, công tác phòng chống bạo lực gia đình ngày
càng hoàn thiện hơn cả về hệ thống văn bản và cơ chế phòng ngừa. Hầu hết,
các điều khoản chứa đựng các quy định về phòng chống bạo lực gia đình
được đưa vào các Luật gốc, cơ bản: Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn
nhân và Gia đình, Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình, một số luật khác và các văn bản dưới luật có liên quan. Tuy
1


nhiên, trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, gia đình Việt
Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có vấn đề bạo lực gia
đình.
Trong những năm qua, công tác thực hiện chính sách phòng, chống bạo
lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam nhìn chung đã được cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm và thu được một số kết quả bước
đầu đáng ghi nhận. Công tác truyền thông về phòng, chống bạo lực gia đình
được thực hiện dưới nhiều hình thức, thu hút sự quan tâm của quần chúng
nhân dân và tạo dư luận lên án các hành có tính chất bạo lực; các cơ quan
chuyên môn, các phòng, ban và các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực, chủ
động triển khai một cách đồng bộ đã góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phòng chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những kết qủa
đạt được thì việc thực thi chính sách phòng, chống bạo lực gia đình vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập như: Bạo lực trong gia đình vẫn còn tồn tại dưới nhiều
hình thức, từ việc sử dụng sức lực, vật dụng để đánh đập gây thương tích, tổn

hại về thể chất cho các thành viên khác; dùng quyền lực để kiểm soát, khống
chế, cấm đoán các thành viên khác về nhiều mặt… việc bố trí ngân sách cho
công tác phòng, chống bạo lực gia đình chưa nhiều. Bên cạnh đó, việc xử lý
các đối tượng gây bạo lực gia đình của chính quyền cơ sở ở một số địa
phương còn mang yếu tố duy trì, dẫn đến những đối tượng gây bạo lực gia
đình coi nhẹ pháp luật và không chấm dứt hành vi… Cơ chế phối hợp liên
ngành trong việc thực thi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chưa thực sự
chặt chẽ, còn mang tính hình thức.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phòng,
chống bạo lực gia đình; đồng thời xuất phát từ thực tiễn địa phương và lĩnh vực
tôi đang công tác; tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách phòng, chống bạo
lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam” là đề tài nghiên cứu tốt
nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành chính sách công.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội
có tính lịch sử và xuất hiện nhiều nơi trên thế giới. Bạo lực gia đình và phòng,
chống bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều tác giả trong và ngoài nước. Một số công trình nghiên cứu được công
bố về vấn đề này, cụ thể như:
- Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo
lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội;
- Phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng
vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính
trị Quốc gia HCM 2008;
- Nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ- đề xuất giải pháp
của TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình-Trẻ
em Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học

và Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM;
- Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn
Ngọc Điện;
- Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ”
của tác giả Trần Thị Hòe;
- Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân”
của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;
Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các
Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề BLGĐ. Nhìn
chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề BLGĐ dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề
thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình dưới góc độ chính sách
công về phòng, chống bạo lực gia đình ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, để chính sách có thể đi vào cuộc
3


sống; một mặt có thể tạo cơ chế giúp đỡ cho nạn nhân bạo lực gia đình, mặt
khác có giá trị phòng ngừa tình trạng bạo lực gia đình có thể xảy ra.. Xuất
phát từ lý luận và thực tiễn địa phương cũng như phù hợp với yêu cầu thực
tiễn công tác, tôi lựa chọn đề tài trên là thực sự cần thiết về cả mặt lý luận và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá tình hình triển khai các chính sách phòng chống bạo lực gia
đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam nhằm đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình tại địa
phương trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận về chính sách phòng, chống bạo

lực gia đình trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia
đình tại huyện Thăng Bình trong giai đoạn năm 2013 – 2018
- Nhận diện những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân
hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
phòng, chống bạo lực gia đình tại địa phương trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phòng, chống
bạo lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách
phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
4


Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách
phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm
2013 - 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm chỉ đạo Đảng, pháp luật của nhà nước
Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn gồm:
(1) Phương pháp tổng quan tài liệu

- Phương pháp tổng quan tài liệu được sử dụng để phân tích, tổng hợp
nội dung các chính sách và quá trình cụ thể hóa, đưa chính sách phòng, chống
bạo lực gia đình vào thực tiễn tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Các tài liệu được tham khảo gồm có: các văn bản luật pháp, chính sách
về phòng, chống bạo lực gia đình, các nghiên cứu đã có đánh giá về việc thực
hiện các chính sách về phòng, chống bạo lực gia đình.
(2) Phương pháp phân tích số liệu thống kê
- Phương pháp phân tích số liệu thống kê được sử dụng nhằm phân
tích thực trạng bạo lực gia đình ở địa phương, thực trang triển khai các chính
sách, hoạt động phòng chống bạo lực gia đình ở địa phương. Trên cơ sở đó,
cung cấp dữ liệu đánh giá hiệu quả việc thực thi chính sách phòng chống bạo
lực gia đình ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
- Các số liệu thống kê bao gồm: số liệu thống kê cấp huyện và cấp xã
về số vụ bạo lực gia đình, số các hoạt động, dịch vụ phòng chống bạo lực gia
đình, số các văn bản luật pháp có liên quan, lồng ghép bạo lực gia đình,...
(3) Phương pháp phỏng vấn sâu
5


- Phương pháp Phỏng vấn sâu được thực hiên nhằm thu thập thông tin
về tình hình thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở địa
phương, cung cấp thông tin cụ thể lý giải những thuận lợi/ khó khăn gặp phải
trong quá trình thực thi, những yếu tố tác động và những kết quả đạt được.
Đối tượng phỏng vấn sâu;
Cán bộ thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện
Thăng Bình (cấp huyện, xã); cán bộ thực hiện nhiệm vụ Bình đẳng giới tại
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện; Cán bộ văn hóa - xã hội cấp
xã/thị trấn, thu thập thông tin và đánh giá quá trình thực hiện chính sách để có
đánh giá, phân tích từ phía người thực thi chính sách.
Số lượng phỏng vấn: Dự kiến, phỏng vấn Thành viên Ban chỉ đạo Vì sự

tiến bộ phụ nữ huyện; Thành viên Ban chỉ đạo vì sự tiến bộ phụ nữ cấp xã:
Tổng số 18 người.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý thuyết về chính sách công để đánh giá việc thực
hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình; từ đó chỉ ra những bất cập của
quá trình thực hiện chính sách và góp phần hoàn thiện thêm cơ sở lý luận về
xây dựng chính sách phòng, chống bạo lực gia đình.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình nói chung và tại
huyện Thăng Bình nói riêng. Đồng thời, luận văn sẽ góp phần làm phong phú
hơn nguồn tư liệu phục vụ cho hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học, là
một nguồn tài liệu tham khảo cho các đề tài, các nghiên cứu có cùng chủ đề,
cùng đối tượng nghiên cứu với đề tài này..

6


7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1. Các vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống
bạo lực gia đình.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia
đình tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức
thực hiện chính sách phòng, chống bạo lực gia đình tại huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam.

7



CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Các khái niệm
1.1.1.Gia đình
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quan niệm: Gia đình là
tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau
theo quy định của Luật (Chương I, Điều 3, khoản 2) [30].
Gia đình vừa là nơi Không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình
có sự đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa… Những mối liên
hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu,
những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu,
cha mẹ vợ và con rể… Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh
như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của
cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ
này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ
thực tế một cách tự nhiên, tự phát.
Trong thực tế ở mỗi quốc gia, mỗi gia đình có văn hóa và lối sống khác
nhau nên có rất nhiều định nghĩa về gia đình. Khó có thể đưa ra một định
nghĩa chung hoàn hảo. Luận văn này sử dụng khái niệm gia đình được đề cập
trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
1.1.2. Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, Điều 1 Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định bạo lực gia đình là "Bạo lực gia
đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia
8



đình"[29]. Nếu nhìn nhận về hình thức biểu hiện của bạo lực gia đình thì tà có
thể chia thành các hình thức chủ yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia
đình, làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ.
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương
tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế
của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…)
- Bạo lực về tình dục: là hành vi cưỡng dâm, ép sinh con...
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác
nhau. Hiểu một cách thông dụng thì bạo lực gia đình là một thuật ngữ dùng để
chỉ các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Đây là
hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực và bạo lực trong cả một
quá trình để thực hiện hành vi làm cho người khác đau đớn về thể xác, bị
khủng hoảng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục,
khống chế và kiểm soát người đó. Như vậy, chúng ta nhận thấy bạo lực gia
đình có thể xảy ra ở nới văn minh, hiện đại hoặc lạc hậu...
Các đặc điểm chung nhất của hành vi bạo lực gia đình:
+ Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành
viên trong gia đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (người gây ra
bạo lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực
gia đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó.
+ Thứ hai, các hành vi bạo lực gia đình đều được thực hiện cố ý, biết
được hậu qủa xong vẫn mong muốn hậu quả xảy ra...
+ Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương, vùng
miền mà là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, xuất hiện trong mọi gia đình.
9



Đối tượng bạo lực gia đình có cả nam lẫn nữ, nhưng thường là những thành
viên yếu đuối.
1.1.3. Phòng, chống bạo lực gia đình
* Khái niệm phòng bạo lực gia đình
Phòng bạo lực gia đình nhằm mục đích tìm ra được những biện pháp
tác động và quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo bực gia đình, đồng
thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện bạo lực gia đình.
Phòng bạo lực gia đình và sự cần thiết của phòng bạo lực gia đình là để bảo
vệ, duy trì trật sự và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của
cộng đồng, của xã hội.
Bạo lực gia đình phát sinh, tồn tại là do những nguyên nhân và điều
kiện khác nhau, song chúng ta hoàn toàn có khả năng tiến hành phòng ngừa
và ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình khi nó chưa xảy ra. Quan điểm này thể
hiện phương châm rất quan trọng là lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, phòng
ngừa tốt cũng chính là chống bạo lực gia đình tốt. Yêu cầu là phải phòng bạo
lực gia đình ngay từ lúc đầu, làm cho bạo lực gia đình ít xảy ra hơn và tiến tới
không xảy ra bạo lực gia đình hay xử lý bạo lực gia đình chỉ là hãn hữu, là
việc làm bất đắc dĩ.
Do đó, phòng bạo lực gia đình cần lấy việc tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật là quan trọng, hàng đầu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa này thì
phòng bạo lực gia đình được coi là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành và
toàn xã hội.
* Khái niệm chống bạo lực gia đình
Khi bạo lực gia đình đã tiến triển lên mức độ trầm trọng hơn, tần suất
cũng như cường độ mạnh hơn, hoặc ở vào tình thế nguy hiểm thì nạn nhân
thường nhờ cậy các tổ chức đoàn thể, chính quyền, công an, với hy vọng là
các tổ chức này gây áp lực và có biện pháp hữu hiệu cũng như mong muốn
chống lại bạo lực gia đình. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp chống

10


bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa,
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín,
với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia
đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc bạo hành gia
đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại
của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì
khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là
không dễ.
Pháp luật luôn hướng tới việc ngăn chặn các hành vi phạm tội trước khi
xảy ra để giữ gìn trật tự, tránh những tổn thất cho cộng đồng và xã hội. Riêng
trong lĩnh vực chống bạo lực gia đình thì việc phòng ngừa càng có ý nghĩa
quan trọng. Bởi vì, tâm lý của người Việt Nam luôn cho rằng: “Xấu chàng hổ
ai”, hay “Tốt đẹp thì phô ra, xấu xa thì đậy lại”, tố cáo người trong gia đình có
khi lại làm tổn thương, ảnh hưởng người khác, do vậy chính bản thân người bị
bạo lực lại hay che giấu, chịu đựng. Vì vậy, cần phải lấy phòng ngừa là chính
trong hoạt động chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng
kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn thương cho nạn nhân, tổn hại tới mối quan
hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và
xử lý kịp thời. Do đó, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình,
cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình
từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ
gây mất ổn định xã hội, do đó việc chống bạo lực gia đình là trách nhiệm
chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước và những người có liên
quan. Việc chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên
thực tế, do không có nhiều chủ thể tích cực tham gia công tác này vì nhận

thức không đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của nó. Điều đó một lần nữa khẳng
11


định tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách
nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong việc phòng
chống bạo lực gia đình.
1.1.4. Chính sách phòng, chống bạo lực gia đình
Thực tế có rất nhiều các nhìn nhận, định nghĩa về chính sách: Theo từ
điển Bách khoa Việt Nam (1995), “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để
thực hiện đường lối, nhiệm vụ của chủ thể quản lý tác động lên đối tượng
quản lý trong một thời gian nhất định và đạt được mục tiêu nhất định của chủ
thể quản lý…” [24, tr.475]
Hay nói cách khác, CSC là chính sách của nhà nước đối với khu vực
công cộng, phản ánh bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị
trong đó nhà nước tồn tại; đồng thời phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách
xử sự của đảng chính trị phục vụ cho mục đích của đảng, lợi ích và nhu cầu
của nhân dân. Nhà nước dựa trên nền tảng nhân dân, là chủ thể đại diện cho
quyền lực của nhân dân ban hành CSC.
Như vậy đặc trưng của chính sách công là do nhà nước chủ động xây
dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng quản lý một cách tương đối ổn
định, cho thấy bản chất của chính sách công là công cụ định hướng cho hành
vi của các cá nhân, tổ chức phù hợp với thái độ chính trị của nhà nước trong
việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội. Điều kiện tồn
tại của một chính sách công là tổng hoà những tác động tích cực của hệ thống
thể chế do nhà nước thiết lập và tinh thần nghiêm túc thực hiện, tự chủ, sáng
tạo của các chủ thể tham gia giải quyết vấn đề chính sách trong một phạm vi
không gian và thời gian nhất định. Điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại được thể
hiện bằng các nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, môi trường chính trị,
pháp lý, văn hóa xã hội và cả sự bảo đảm bằng nhà nước

Từ các quan niệm trên, chính sách công được xem là một trong những
căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ
12


kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công
như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. Như vậy, bản chất
của chính sách công là công cụ để Nhà nước thực hiện các hoạt động liên
quan đến công dân và can thiệp vào mọi hành vi xã hội trong quá trình phát
triển.
Trên cơ sở đó, khái niệm về chính sách công được dùng trong luận văn
là: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan để lựa chọn
mục tiêu và những giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề
chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”.
Qua các định nghĩa trên, khái niệm “Chính sách Phòng, chống bạo lực
gia đình” được hiểu trong luận văn “Chính sách Phòng, chống bạo lực gia
đình là tập hợp các quyết định, đề án, dự án .. của nhà nước có liên quan để
lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn
đề chính sách Phòng, chống bạo lực gia đình theo mục tiêu tổng thể đã xác
định”.
1.1.5. Tổ chức thực hiện chính sách Phòng chống bạo lực gia đình
Tổ chức thực hiện chính sách PCBLGĐ là quá trình hiện thực hóa đưa
chính sách PCBLGĐ vào thực tiễn cuộc sống.
Tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, chính sách PCBLGĐ nói
riêng là yếu tố khách quan để duy trì công cụ chính sách theo yêu cầu QL của
NN và cũng là để đạt được mục tiêu đề ra của chính sách. Tổ chức thực hiện
chính sách PCBLGĐ là một khâu hợp thành chu trình chính sách PCBLGĐ,
thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách không tồn tại. Tổ chức thực
hiện chính sách PCBLGĐ là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính
sách PCBLGĐ thành một hệ thống, nhất là với bước xây dựng chính sách.

Nếu chính sách PCBLGĐ không được thực hiện đúng sẽ ảnh hưởng đến an
sinh xã hội, dẫn đến thiếu niềm tin, phản ứng tiêu cực của người dân đối với
nhà nước. Nếu sự mất niềm tin kéo dài sẽ dẫn đến sự phản kháng, mất ổn định
13


chính trị, gây khó khăn cho nhà quản lý. Trong quá trình tổ chức thực hiện, từ
hoạt động thực tiễn sẽ sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính
sách cho phù hợp với cuộc sống. Như vậy, tổ chức thực hiện chính sách
PCBLGĐ là yêu cầu, nhiệm vụ tất yếu khách quan, là yếu tố quyết định thành
công hay không của chính sách.
1.2. Quan điểm về phòng, chống bạo lực gia đình.
1.2.1. Quan điểm về phòng, chống bạo lực gia đình của quốc tế
Bạo lực gia đình là một vấn đề toàn cầu và có lẽ là hành vi vi phạm các
quyền con người phổ biến và được xã hội khoan dung nhất. Nó bao gồm tất cả
các hình thức bạo lực về thể chất, tinh thần và kinh tế. Đặc trưng cơ bản của
BLG là nó bắt nguồn từ mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa con người
với nhau dựa trên những quy phạm, cấu trúc và vai trò xã hội đang tồn tại có
ảnh hưởng tới cuộc sống của nam và nữ giới. Mặc dù BLG có thể ảnh hưởng
tới cả nam và nữ, nhưng nó chủ yếu xẩy ra đối với phụ nữ và trẻ em gái.
Trên thế giới, BLG được coi là một vấn đề ưu tiên cơ bản liên quan tới
sức khỏe của người dân với những khía cạnh pháp lý, xã hội, văn hóa, kinh tế
và tâm lý. Nó cần được tất cả các chính phủ quan tâm, phù hợp với những
cam kết của họ về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và
thực hiện các quyền cơ bản của con người được quy định trong các công ước
quốc tế. Kể từ Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển năm 1994 (ICPD) và
Hội nghị Thế giới về Phụ nữ lần thứ 4 năm 1995, xóa bỏ bạo lực đối với phụ
nữ đã trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động của Liên hợp quốc
trên toàn thế giới. Đặc biệt, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) có vai trò
nổi bật trong hệ thống LHQ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới (BĐG), nâng

cao quyền năng cho phụ nữ và phòng, chống BLG, chính là phòng tránh BLG
phải gắn liền với việc cải thiện sức khỏe sinh sản cho phụ nữ, đặc biệt trên hết
là địa vị của họ trong xã hội.
Trọng tâm của UNFPA vẫn là giải quyết vấn đề bạo lực đối với phụ nữ
14


và trẻ em gái, vì tuyệt đại đa số những đối tượng này bị bạo hành. Phụ nữ và
trẻ em gái không chỉ có nguy cơ cao về BLG, mà họ còn phải chịu nhiều hậu
quả nghiêm trọng hơn so với những gì mà nam giới chịu đựng. Do sự phân
biệt giới và địa vị kinh tế-xã hội của họ thấp kém hơn, nên phụ nữ ít có cơ hội
và nguồn lực hơn để có thể giúp họ tránh hoặc thoát khỏi những trường hợp bị
lạm dụng và tìm kiếm công lý. Họ cũng phải chịu những hệ lụy liên quan tới
sức khỏe tình dục (SKTD) và sức khỏe sinh sản (SKSS), bao gồm cả việc
mang thai cưỡng bức và ngoài ý muốn, nạo phá thai không an toàn và tử vong
do những hậu quả liên quan, chấn thương do bị rò âm đạo, các bệnh lây
truyền qua đường tình dục và HIV. UNFPA tập trung nỗ lực xóa bỏ mọi hình
thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt phù hợp với sứ mệnh của
mình là xây dựng chương trình về các vấn đề liên quan đến SKSS như bạo lực
gia đình, bạo lực tình dục và các tập quán có hại.
Tuyên bố của LHQ về Xóa bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ (1993) đưa ra
định nghĩa về bạo lực đối với phụ nữ như sau: “Bất kỳ hành vi bạo lực nào
dựa trên cơ sở giới dẫn tới hoặc có khả năng dẫn tới sự phương hại hoặc gây
ra sự chịu đựng về thể chất, tình dục, tâm lý cho phụ nữ, bao gồm cả những
hành vi đe dọa thực hiện những hành vi trên, sự cưỡng bức, hoặc tước đoạt tự
do một cách tùy tiện, bất kể trong đời sống sinh hoạt công hay cá nhân”. Hành
vi như vậy bao gồm cả hành vi bạo lực trong gia đình, hay còn gọi là bạo lực
gia đình (BLGĐ).
1.2.2. Quan điểm về phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam
Quán triệt tinh thần “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc” đã

được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp nối nhằm khẳng
định một lần nữa quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề gia
đình và xây dựng gia đình văn hóa; thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là
môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về gia đình, trong những
15


năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể hiện
rõ quan điểm này, như: Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam;
Chỉ thị số 49/CT-TW ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số
48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật về dân số, gia đình,
trẻ em và chính sách xã hội. Hiến pháp 2013 quy định các vấn đề chung, có
tính nguyên tắc liên quan đến gia đình tại Điều 16 (mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội) và Điều 26 (công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt;
Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước,
xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai
trò của mình trong xã hội). Bên cạnh đó, một số nội dung liên quan đến gia
đình, bình đẳng giới cũng đã được Hiến định trong một số điều, khoản của
các Chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và
Chương III Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường[32].
Luật Hôn nhân và gia đình được Quốc hội ban hành vào ngày
19/6/2014. Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp
lý cho cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình; trách nhiệm của cá
nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn
nhân và gia đình......

Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Luật quy định biện pháp bảo đảm bình
đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực
hiện bình đẳng giới.
Luật Phòng, chống bạo lưc gia đình được Quốc hội thông qua vào ngày
21/11/2007, có hiệu lực thi hành ngày 01/8/2008.
16


Quyết định số 363/QĐ-TTg ngày 08/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ,
Quyết định tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình.
Chính phủ quy định tháng 11 hằng năm là “Tháng hành động về phòng,
chống bạo lực gia đình.
Chính phủ ban hành Quyết định số 215/QĐ-TTg, Ngày 06/02/2014 phê
duyệt “Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình
đến năm 2020” nhằm mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và
nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã
hội trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình; qua đó, từng bước ngăn
chặn và giảm dần số vụ bạo lực gia đình trên phạm vi toàn quốc.
Trong các văn kiện, văn bản quy phạm pháp luật này, có những điểm,
điều khoản quy định rất cụ thể về quyền được bảo vệ, quyền bình đẳng về mọi
mặt cũng như những điều cấm liên quan đến bạo hành với phụ nữ. Điều 21,
Luật Hôn nhân và gia đình quy định các biện pháp ngăn chặn và xử lý những
hành vi BLGĐ của chồng đối với vợ, con hoặc ngược lại… Nghị định số
08/2008/NĐ-CP ngày 04-02-2009, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Phòng, chống BLGĐ, đã quy định tại Điều 8: không cho
phép người có hành vi BLGĐ thực hiện các hành vi đến gần nạn nhân trong
khoảng cách dưới 30m; trừ trường hợp giữa người có hành vi BLGĐ và nạn
nhân có sự ngăn cách như tường, hàng rào hoặc các vật ngăn cách khác, bảo
đảm đủ an toàn cho nạn nhân; sử dụng điện thoại, fax, thư điện tử hoặc các

phương tiện thông tin khác để thực hiện hành vi bạo lực với nạn nhân…
1.3. Nội dung chủ yếu của chính sách phòng, chống bạo lực gia
đình của Việt Nam hiện nay
1.3.1. Chính sách phòng ngừa bạo lực gia đình
Có thể thấy rằng, phòng ngừa là một biện pháp rất quan trọng và có tác
dụng lớn trong việc ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình. Để ngăn ngừa và
xử lý có hiệu quả về bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chú
17


trọng tới các giải pháp giáo dục tại cộng đồng bởi vì khi ý thức và kiến thức
của các cá nhân trong xã hội về pháp luật hôn nhân và gia đình; về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình được nâng cao sẽ là điều kiện quan trọng nhất
để tránh được bạo lực gia đình xảy ra. Luật còn chú trọng tới việc phát huy
hết khả năng và vai trò của gia đình, dòng họ; bạo lực gia đình cần được phát
hiện và xử lý sớm từ mâu thuẫn xích mích nhỏ, không để phát sinh thành mâu
thuẫn lớn gây bạo lực gia đình. Việc xử lý xích mích mâu thuẫn nhỏ thông
qua các biện pháp hoà giải cơ sở. Tuỳ theo từng sự việc mà việc hoà giải do
gia đình, dòng họ tiến hành hay cơ quan, tổ chức tiến hành hoặc do tổ chức
hoà giải cơ sở tiến hành. Quy định này rất quan trọng nhằm phát huy vai trò
và trách nhiệm của cộng đồng đối với mỗi thành viên trong xã hội, phát huy
được tính dân chủ trong nhân dân, từ đó góp phần thay đổi nhận thức và nâng
cao ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật đặc biệt là pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình. Các hoạt động cụ thể mà Nhà nước đưa ra
nhằm thực hiện hoạt động phòng ngừa bạo lực gia đình, đó là:
Các hình thức thông tin, tuyên truyền. Trong công tác thông tin tuyên
truyền có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau lồng ghép trong việc giảng
dạy, học tập thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và
các loại hình văn hoá quần chúng khác.
Hoạt động hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia

đình cũng là một trong các hoạt ðộng nhằm phòng ngừa bạo lực gia đình xảy
ra mà Luật quy định. Người tham gia hòa giải có thể là thành viên gia đình,
dòng họ, cơ quan, tổ chức, cơ sở tiến hành.
Ngoài ra, còn có hoạt động tư vấn về gia đình để cung cấp kiến thức, kỹ
năng ứng xử phi bạo lực cho các thành viên gia đình. Việc tư vấn về gia đình
ở cơ sở tập trung vào các đối tượng sau đây: a) Người có hành vi bạo lực gia
đình; b) Nạn nhân bạo lực gia đình; c) Người nghiện rượu, ma tuý, đánh bạc;
d) Người chuẩn bị kết hôn. UBND cấp xã chủ trì phối hợp với Ủy ban Mặt
18


trân Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên (hội phụ nữ, hội
nông dân, đoàn thanh niên,…), cộng đồng dân cư tổ chức thực hiện tư vấn về
gia đình ở cơ sở.
1.3.2. Chính sách can thiệp, giải quyết bạo lực gia đình
* Quyền của nạn nhân bị bạo lực gia đình:
Khi xảy ra hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân bị bạo lực gia đình, theo
quy định tại Điều 5 Luật Phòng chống bạo lực gia đình, nạn nhân bị bạo lực
gia đình có thể:
- Yêu cầu được bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi
ích hợp pháp khác của mình.
- Yêu cầu ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật
PCBLGĐ.
Trong trường hợp, hành vi bạo lực gia đình xảy ra thường xuyên với
mức độ ngày càng nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và
tinh thần của nạn nhân, khiến cho cuộc hôn nhân không thể cứu vãn được
nữa, theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình, nạn nhân hoặc
người nhà nạn nhân bị bạo lực gia đình có thể gửi đơn đến Tòa án yêu cầu
giải quyết ly hôn.
Nạn nhân bị bạo lực gia đình rất cần sự giúp đỡ của cộng đồng xã hội.

Hành vi bạo lực đã xảy ra trong gia đình thì những thành viên gia đình vì
những mối quan hệ với người thực hiện hành vi sẽ rất khó có sự can thiệp
mạnh mẽ, dứt khoát cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân cần sự
giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền để bảo vệ, sức khỏe,
tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
* Chính sách ngăn chặn, bảo vệ nạn nhân bị bạo lực gia đình:
Để phòng chống bạo lực gia đình người phát hiện bạo lực gia đình kịp
thời báo tin cho cơ quan gần nhất hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc người
đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra vụ việc. Cơ quan công an, ủy ban nhân
19


×