Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.37 KB, 67 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi đến quý Thầy, Cô, Ban lãnh đạo khoa Luật trường Đại học Công
nghệ Tp. Hồ Chí Minh (HUTECH) lời chào trân trọng nhất, kính chúc quý Thầy Cô
sức khỏe và lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất!
Với sự quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình từ quý Thầy Cô đến nay em đã hoàn
thành chương trình học tập của mình với Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về giải
quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn”.
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ
của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Với tình cảm sâu sắc, chân thành, cho phép em
xin được bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tạo điều
kiện giúp đỡ em trong thời gian qua.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô ThS. Lê Thị Minh Thư –
Giảng viên trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Cô đã quan tâm, tận tình
giúp đỡ, không quãng ngại thời gian, công sức để giúp đỡ em hoàn thành khóa luận
này.
Với trình độ kinh nghiệm còn hạn chế, điều kiện khách quan khác ảnh hưởng
nên trong khóa luận tốt nghiệp này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến từ quý Thầy Cô để em có điều kiện bổ sung,
nâng cao khả năng của mình ngày càng tốt hơn, phục vụ cho công tác thực tế sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Trần Thị Ngọc Diệu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên – Trần Thị Ngọc Diệu, MSSV: 1511270023
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng quy định).
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.


Nếu sai sót, Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo quy định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên

Trần Thị Ngọc Diệu


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

STT

Thuật ngữ viết tắt

Thay cho

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

TTDS

Tố tụng dân sự

3

HĐTP


Hội đồng thẩm phán

4

HĐXX

Hội đồng xét xử

5

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

6

TAND

Tòa án nhân dân

7

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

8

VKS


Viện kiểm sát

9

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................................ 2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ............................................................... 2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 4
6. Kết cấu của khóa luận............................................................................................... 4

Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ..................................................... 5
1.1 Khái quát về tài sản chung của vợ chồng.............................................................. 5
1.1.1 Chế độ tài sản của vợ chồng .................................................................................. 5
1.1.2 Các loại tài sản chung của vợ chồng ..................................................................... 8
1.1.3 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung ...................................... 13
1.2 Khái quát về ly hôn ............................................................................................... 14
1.2.1 Khái niệm ly hôn .................................................................................................. 14
1.2.2 Các trường hợp ly hôn theo quy định của pháp luật ........................................... 17
1.2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn ................................................................................. 19
1.3 Khái quát về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .... 20



Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ...... 22
2.1 Nội dung của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .......... 22
2.1.1 Phương thức, nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn....... 22
2.1.2 Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ............... 25
2.1.3Một số trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ........................... 27
2.2 Nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ..................................... 29
2.2.1 Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ........................................................... 29
2.2.2 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ......... 31
2.2.3 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
....................................................................................................................................... 34

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ................................................................... 38
3.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn .......................................................................................................... 38
3.1.1 Bất cập trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án, trình tự thủ tục tố tụng trong
giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ...................................... 38
3.1.2 Bất cập trong việc định giá tài sản, xác định lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng .............................................................................................. 41


3.1.3 Bất cập trong việc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, xác định
công sức đóng góp của vợ chồng trong việc tạo lập duy trì và phát triển tài sản chung
khi ly hôn ...................................................................................................................... 46

3.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .................... 52
3.2.1 Hoàn thiện quy định pháp luật về xác định thẩm quyền của Tòa án, trình tự thủ
tục tố tụng trong giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ........... 52
3.2.2 Hoàn thiện quy định pháp luật về xác định lỗi, về xác định tài sản chung và tài
sản riêng của vợ chồng, xác định công sức đóng góp của vợ chồng trong việc hình
thành và phát triển tài sản chung khi ly hôn ................................................................. 53
3.2.3 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .......................................................................... 55

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 58


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế độ tài sản của vợ và chồng là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam. Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến nay đã có rất nhiều quy định về chế độ
tài sản của vợ chồng. Về cơ bản, tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai yếu
tố: thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo quy định
của pháp luật (chế độ tài sản pháp định).
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tài sản là vấn đề chính yếu của xã hội,
có mối quan hệ mật thiết giữa mọi người nói chung và các thành viên trong gia đình
nói riêng. Trong xã hội hiện đại, đảm bảo đời sống chung của cả gia đình và lợi ích của
cá nhân thì mỗi thành viên trong gia đình, đặc biệt là vợ và chồng cần phải tham gia
vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh cùng nhau tạo lập tài sản chung, từ
đây phát sinh các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng. Các quan hệ tài sản này sẽ là
nghĩa vụ khi các thành viên trong gia đình còn gắn kết với nhau, nhưng khi quan hệ
hôn nhân kết thúc thì tài sản sẽ là quyền lợi của mỗi chủ thể và nếu họ không tự thỏa
thuận được với nhau thì cần phải áp dụng những quy định của pháp luật hôn nhân và

gia đình để giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng là điều cần thiết để đảm
bảo quyền và lợi ích mỗi bên.
Trong những năm gần đây, vấn đề ly hôn ở nước ta ngày càng nhiều và theo đó
phát sinh nhiều vấn đề khác như: tài sản, quyền nuôi con,… Trong đó, việc tranh chấp
chia tài sản chung vợ chồng ngày càng nhiều vì tài sản là thứ quan trọng và mật thiết
đối với mỗi con người. Những tranh chấp này thường kéo dài gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Qua nghiên cứu việc giải quyết
các vụ án về ly hôn có tranh chấp về tài sản chung, có thể thấy việc áp dụng đúng đắn
các quy định của pháp luật của Tòa án đã góp phần nâng cao chất lượng giải quyết
tranh chấp, hạn chế những bất cập khi giải quyết các vụ án ly hôn có tranh chấp về tài
sản chung.
Theo số liệu thống kê của cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, từ
ngày 01/01/2017 đến ngày 01/01/2019, tổng số vụ án được giải quyết tại TAND cấp
huyện là: Hình sự - 33942 vụ án, Dân sự - 27892 vụ án, Hôn nhân và gia đình –
1


107991 vụ án, Kinh doan thương mại – 3020 vụ án, Hành chính – 422 vụ án, Lao động
– 607 vụ án, Quyết định tuyên bố phá sản – 17 quyết định, Quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính – 14516 quyết định.[1] Ví dụ như trong những năm trở lại đây,
tình hình ly hôn tại TAND huyện Chơn Thành ngày càng tăng cao, đặc biệt là khi ly
hôn vợ chồng có tranh chấp về tài sản chung. Nguyên nhân chủ yếu là do người dân
chưa nắm bắt được quy định của pháp luật dẫn đến việc khi ly hôn luôn muốn giành
quyền tài sản đó thuộc về mình, không có được sự thỏa thuận hay thống nhất với nhau.
Theo thống kê của TAND huyện Chơn Thành, tính từ đầu năm 2017 đến tháng 5 năm
2019 có gần khoảng 2759 đơn xin ly hôn được nộp tại Tòa án chiếm khoảng 61,7% số
đơn khởi kiện tại Tòa án. Trong đó, thuận tình ly hôn là 874 vụ chiếm 31,7%, ly hôn có
tranh chấp về quyền nuôi con là 618 vụ chiếm 22,4%, ly hôn có tranh chấp về tài sản
chung là 1062 vụ chiếm 38,5%, ly hôn có tranh chấp khác là 205 vụ chiếm 7,4%.[2]
Tình trạng gia tăng các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cho

thấy quy định của pháp luật còn về vấn đề này còn những hạn chế, bất cập. Vì lý do
nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là phân tích, đánh giá quy định
của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ và chồng khi ly hôn
theo lý luận và thực tiễn. Thông qua đó, khóa luận đưa ra những biện pháp khắc phục
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về thực trạng giải quyết tranh chấp tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, Bộ luật
TTDS năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về giải quyết tranh tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

1

Tòa án nhân dân tối cao (2019), Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết đinh của Tòa án (từ 01/01/2017
đến 01/01/2019). Nguồn download ngày 01/05/2019.
2

Số liệu thống kê tại Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.

2


Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu nội dung của pháp luật
về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – dưới góc độ chế độ tài sản chung của
vợ chồng theo luật định, quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy
định pháp luật về vấn đề này sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Khóa luận không

nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có yếu tố nước ngoài.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn luôn được xã hội
quan tâm cũng như trong giới nghiên cứu học thuật. Thời gian qua, đã có rất nhiều các
công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân, tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn. Ở cấp độ luận văn, có một số
công trình như:
- Nguyễn Thị Hạnh (2012), “ Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật
Việt Nam, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học
viện khoa học xã hội;
- Đinh Thị Minh Mẫn (2014), “Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
Dưới dạng tài liệu chuyên khảo, bài báo trên các tạp chí cũng đề cập đến vấn đề
tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn như:
- Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức, 2018);
- Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam – tập 2: Các quan hệ
tài sản giữa vợ chồng (Nguyễn Ngọc Điện, NXB Trẻ, 2018);
- Bình luận Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Nguyễn Thị Chi, NXB Lao
động, 2018).
Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành có thể kể đến như:
3


- Đoàn Thị Phương Diệp (2006), “Về nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong
pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và Luật dân sự Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu
Khoa học 2006:6, tr.182-185.
- Trần Công Thịnh (2015), Hòa giải trong việc giải quyết vụ việc về hôn nhân
và gia đình theo quy định của Bộ luật TTDS Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN:
Luật học, tập 31-số 1, tr.23-29.

Các công trình nghiên cứu kể trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong
quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể để
nghiên cứu đề tài như: Phương pháp phân tích tổng hợp để phân tích tổng hợp các quy
định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình; Phương pháp diễn giải;
Phương pháp so sánh; Phương pháp đánh giá, thống kê. Trong đó, phương pháp phân
tích được sử dụng hiệu quả trong quá trình nghiên cứu làm đề tài khóa luận nhằm đánh
giá những điều còn bất cập theo quy định của pháp luật hiện hành.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

4


Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1 Khái quát về tài sản chung của vợ chồng
1.1.1 Chế độ tài sản của vợ chồng
Tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của Luật HN&GĐ.
Sau khi kết hôn, xuất hiện sự phức tạp trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng
vợ chồng cũng như các lợi ích và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với
khối tài sản này. Tài sản giữa vợ chồng khi đó bao gồm khối tài sản được người vợ

hoặc người chồng tạo lập trước thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được vợ chồng tạo lập
trong thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được tặng cho riêng, được tặng cho chung và các
hoa lợi lợi tức phát sinh từ các khối tài sản này.
Khác với Luật HN&GĐ năm 2000, mặc dù thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng
theo thỏa thuận là cần thiết và đem lại nhiều lợi ích nhưng chỉ quy định duy nhất một
chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định hai cách
thức xác lập chế độ tài sản vợ chồng: Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài
sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. [3]
Chế độ tài sản theo thỏa thuận: là chế độ tài sản do vợ chồng tự thoản thuận với
nhau về các loại tài sản như: tài sản giữa vợ và chồng bao gồm cả tài sản chung và
riêng; giữa vợ và chồng không có tài sản riêng mà tất cả tài sản vợ chồng có được
trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung; giữa vợ và
chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn
và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó; xác
định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.[4]
Trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, ý thức tự chủ và độc lập
của mỗi cá nhân ngày càng cao, đặc biệt là đối với phụ nữ, họ muốn khẳng định mình
cũng có thể tham gia vào các mối quan hệ xã hội, tự mình làm việc và tìm kiếm tài sản
3

Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014.
Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
HN&GĐ năm 2014.
4

5


do chính mình tạo ra, họ không còn phụ thuộc vào gia đình hay chồng giống như trong
xã hội cũ. Khi quan hệ hôn nhân được xác lập, để rõ ràng trong các quan hệ tài sản của

cá nhân thì vợ hoặc chồng có quyền tự thỏa thuận về quyền sở hữu tài sản trong gia
đình và tự giác thực hiện các quyền, nghĩa vụ đã thỏa thuận. Khi vợ, chồng muốn xác
định quan hệ tài sản của mình trên cơ sở tự thỏa thuận thì áp dụng quy định về chế độ
tài sản thỏa thuận. Trường hợp vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản thỏa thuận thì phải
lập bằng văn bản và được công chứng, chứng thực trước khi kết hôn. Chế độ tài sản
này được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Trong văn bản ghi nhận sự thỏa thuận
của vợ, chồng phải có đầy đủ các nội dung: thỏa thuận về vấn đề sở hữu tài sản; quy
định về cách thức xác định tài sản chung, riêng của vợ, chồng; thỏa thuận không được
trái với đạo đức và trật tự xã hội; văn bản chỉ thỏa thuận về vấn đề tài sản của vợ,
chồng; điều kiện, thỏa thuận và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài
sản. Thỏa thuận phải có chữ ký của cả nam và nữ chuẩn bị kết hôn và được xác nhận
tính hợp pháp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Chế độ tài sản pháp định: là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước
về căn cứ, nguồn gốc, thành phần, các loại tài sản chung và riêng; quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với từng loại tài sản; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung
vợ, chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ
chồng.[5] Xuất phát từ điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống của mỗi quốc
gia mà chế độ tài sản pháp định được hiểu như sau:
Thứ nhất, chế độ tài sản cộng đồng bao gồm chế độ cộng đồng toàn sản, chế độ
cộng đồng động sản và tạo sản, chế độ cộng đồng tạo sản. Chế độ cộng đồng toàn sản
được hiểu là chế độ xác định tất cả tài sản tạo lập trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân
đều là tài sản chung của vợ, chồng. Ở chế độ này, trong quan hệ tài sản không tồn tại
tài sản riêng của vợ, chồng. Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản cũng thừa nhận
trong hôn nhân bao gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng như trong chế
độ cộng đồng tạo sản. Tuy nhiên, chế độ cộng đồng động sản và tạo sản lại xác định tài
sản của vợ chồng dựa trên việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất
động sản. Theo đó, khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có
trước và trong thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ, chồng mua lại
5


Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng và hướng
hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6


bằng tài sản chung. Vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với bất động sản có trước khi
kết hôn và bất động sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong
thời kỳ hôn nhân. Chế độ cộng đồng toàn sản không thừa nhận quyền sở hữu riêng của
vợ, chồng mà chỉ thừa nhận quyền sở hữu chung, theo đó toàn bộ tài sản vợ, chồng có
trước và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung. Quy định đó xuất phát từ
quan niệm nhu cầu chung, lợi ích chung của gia đình là tối cao, tài sản của vợ chồng
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên tất cả tài sản vợ, chồng có
trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung, quyền có tài sản riêng
không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích của gia đình. Với đặc điểm trên, chế độ
cộng đồng toàn sản chỉ phù hợp với quan hệ hôn nhân gia đình trong xã hội truyền
thống. Trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, khi quyền tự do cá nhân
luôn được đề cao, chế độ cộng đồng toàn sản đã bộc lộ những hạn chế cơ bản, vì không
đảm bảo quyền tự định đoạt của người có tài sản, đặc biệt khi tài sản đó do vợ, chồng
làm ra trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng; nó cũng
không đảm bảo được sự độc lập của vợ, chồng do họ không có tài sản riêng để tham
gia các quan hệ xã hội khác ngoài quan hệ gia đình; mặt khác, việc chế độ cộng
đồng toàn sản được áp dụng trong giai đoạn hiện nay có thể khuyến khích cho các quan
hệ hôn nhân thực dụng.
Thứ hai, chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn không có cộng đồng tài sản
hay còn gọi là chế độ phân sản. Chế độ phân sản là một hình thức của chế độ tài sản
pháp định, trong đó giữa vợ chồng không tồn tại chế độ tài sản chung, mà mỗi bên vợ,
chồng có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản do mình làm ra trước và trong thời
kỳ hôn nhân, pháp luật chỉ qui định nghĩa vụ của vợ, chồng về đóng góp vào chi tiêu
chung của gia đình. Ngoài ra, chế độ phân sản còn có cách gọi khác là chế độ hồi môn.

Chế độ tài sản này có nguồn gốc từ pháp luật La Mã cổ đại, theo đó những tài sản
thuộc của hồi môn của người vợ sẽ giao cho người chồng để người này quản lý và sử
dụng. Như vậy, hoa lợi từ tài sản riêng của người chồng và từ của hồi môn của người
vợ thuộc về người chồng. Đặc điểm của chế độ hồi môn là tài sản hồi môn không thể
được chuyển nhượng. Không những người chồng không có quyền bán tài sản hồi môn
vì người chồng không phải là chủ sở hữu, người vợ cũng không có quyền chấp thuận
để người chồng bán. Cho dù có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng, tài sản hồi
môn cũng không thể bán được.
7


Về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ năm 2014 quy định
tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật gồm: Quyền tài sản đối
với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ; Tài sản mà vợ,
chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có
thẩm quyền khác; Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của
pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân
thân của vợ, chồng. Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân
gồm: Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp (trừ khoản trợ cấp, ưu
đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với
cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng); Tài sản mà vợ,
chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của BLDS năm 2015 đối với vật vô
chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất
lạc, vật nuôi dưới nước; Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, Nghị định 126/2014/NĐ-CP
ngày 31/12/2014 nêu rõ, trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội
dung: Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng

có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung; Giữa
vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi
kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
1.1.2 Các loại tài sản chung của vợ chồng
Thông thường việc xác định tài sản chung vợ chồng chỉ áp dụng khi vợ chồng
có tranh chấp về tài sản và vợ, chồng không có áp dụng chế độ tài sản thỏa thuận. Tài
sản là một trong những yếu tố quan trọng duy trì cuộc sống gia đình. Căn cứ xác định
tài sản chung vợ chồng là “thời kỳ hôn nhân” và “nguồn gốc tài sản”.
Theo Khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “thời kỳ hôn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
8


chấm dứt hôn nhân”. Nghĩa là việc kết hôn từ khi được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận (thời điểm quan hệ hôn nhân có hiệu lực) cho đến ngày Tòa án tuyên
bố vợ, chồng ly hôn, vợ, chồng chết thì quan hệ hôn nhân kết thúc. Mặc dù không có
căn cứ xác định việc đóng góp vào tài sản chung vợ, chồng ai nhiều hơn ai nhưng đối
với sở hữu chung vợ, chồng thì vợ, chồng có quyền ngang nhau về sử dụng, định đoạt
khối tài sản này. Khắc phục những bất cập của Luật HN&GĐ năm 1959 và năm 1986
về tình trạng “hôn nhân thực tế”, Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014
quy định quan hệ hôn nhân gia đình xác lập trước ngày luật này có hiệu lực thì áp dụng
pháp luật về hôn nhân gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết, nhằm hạn chế tình
trạng nam, nữ kết hôn, có tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống nhưng chưa
đăng ký kết hôn. Quy định này phần nào giúp được Tòa án giải quyết các tranh chấp về
tài sản vợ, chồng. Trong quá trình thực tiễn xét xử, TANDTC đã ban hành một số văn
bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề này như: Thông tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972
TANDTC hướng dẫn xử lý về dân sự những tranh chấp về việc kết hôn vi phạm điều
kiện kết hôn theo Luật HN&GĐ năm 1959; Thông tư số 81-DS ngày 27/4/1981
TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, đã công nhận “hôn nhân

thực tế” thì giữa vợ, chồng vẫn được hưởng thừa kế di sản của nhau theo Luật định;
Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của HĐTP TANDTC hướng dẫn TAND
các cấp một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986. Do thực tế của xã hội nước
Việt Nam lúc bây giờ, nên các văn bản Luật HN&GĐ trước đây đều công nhận “hôn
nhân thực tế”.
Kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực và Luật HN&GĐ hiện hành Nhà
nước đã xóa bỏ tình trạng “hôn nhân thực tế” của xã hội cũ, kể từ thời điểm này nam,
nữ muốn được pháp luật công nhận quan hệ vợ chồng phải tiến hành đăng ký kết hôn.
Bên cạnh đó, để giải quyết tình trạng những cặp vợ, chồng vẫn còn trong tình trạng
“hôn nhân thực tế” trong quá khứ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc khi giải quyết cá tranh
chấp của vợ, chồng có “hôn nhân thực tế” nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban
hành một số văn bản hướng dẫn như: Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014;
Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016
Hướng dẫn thi hành quy định của Luật HN&GĐ năm 2014. Như vậy, ta có thể xác
nhận “thời kỳ hôn nhân” theo quy định của pháp luật được xác định dựa trên “hôn nhân

9


thực tế” (được áp dụng khi còn hiệu lực của Luật HN&GĐ các năm 1959, 1986) và tại
thời điểm nam, nữ “đăng ký kết hôn”.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật
HN&GĐ năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định quy định của pháp luật để phù
hợp hơn với thực tế của xã hội. Theo quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định như sau:
Một là, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Hành vi tạo ra tài sản là một trong
những chức năng chính để nuôi sống gia đình.[6] Nam và nữ sau khi kết hôn (quan hệ
hôn nhân được xác lập) họ phải cùng nhau làm việc để tạo lập tài sản cho riêng mình.

Tài sản do vợ, chồng tạo ra có thể là tài sản do tự tay vợ, chồng tạo ra để phục vụ cho
nhu cầu của mình như: xây nhà, trồng trọt, chăn nuôi,…hoặc cũng có thể là vợ, chồng
sử dụng tiền bạc của mình để mua tài sản, nhận chuyển quyền sở hữu của người khác
sang sỡ hữu chung vợ chồng như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sỡ hữu
nhà, mua sắn bàn ghế, tivi,…[7] Thu nhập của vợ, chồng được hiểu là thu nhập của vợ
chồng do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, theo tính chất nghề
nghiệp, công việc chuyên môn của vợ, chồng mội cách hợp pháp trực tiếp hoặc gián
tiếp. Thu nhập chủ yếu thường là tiền lương, tiền công, thu nhập thu được qua quá
trình sản xuất, chăn nuôi, lợi nhuận thu được thông quá quá trình sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh đó, pháp luật còn liệt kê những khoản thu nhập khác ngoài những khoản thu
nhập nêu trên vẫn được xem là thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân của vợ,
chồng. Tại Điều 9 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định: “Khoản
tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3
Điều 11 của Nghị định này. Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy
định của BLDS năm 2015 đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị
đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước. Thu nhập hợp
pháp khác theo quy định của pháp luật.” Như vậy, các khoản thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng có thể là khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng số
6

Lã Thị Tuyền (2014), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7
Trương Thị Lan (2016), Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2014, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10


xố, tiền trợ cấp; tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của

BLDS đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên,
gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước. Ngoài ra, tại Nghị định số
126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 đã bổ sung thêm về căn cứ xác định tài sản chung
vợ chồng đó là: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ
hôn nhân thì cũng được xem là tài sản thuộc sỡ hữu chung của vợ, chồng; những lợi
tức phát sinh từ việc khai thác tự nhiên mà thuộc tài sản riêng của vợ, chồng thì cũng
được xem là tài sản chung vợ, chồng. Điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 so với
Luật HN&GĐ năm 2000 là mặc dù các hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ,
chồng nhưng tài sản thu được vẫn được xem là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ,
chồng, luật không xác định những thu nhập đó có được trong thời kỳ hôn nhân thì sẽ
được xác định là tài sản chung của vơ, chồng.
Hai là, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung. Thông
thường, tài sản được xem là thành quả do một quá trình lao động có được. Nhưng khác
với các loại tài sản khác, tài sản được tặng cho hay thừa kế được phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể sở hữu tài sản hoặc do pháp luật quy định về thừa kế. Nói cách khác, tài
sản mà vợ chồng được tặng cho, thừa kế là một loại tài sản đặc biệt, tài sản này có
được không dựa vào quá trình làm việc, không phát sinh từ các nguồn tài sản khác, tài
sản này có được nhờ vào ý chí của chủ thể thứ ba. Việc cha mẹ tặng cho con cái tài sản
hoặc thừa kế chung tài sản từ cha mẹ là điều phổ biết trong cuộc sống. Ở đây, ta cần
hiểu rõ việc tặng cho và thừa kế là hai trường hợp khác nhau. Về mặt hình thức, tặng
cho hay thừa kế thì đều là việc vợ chồng sẽ được nhận tài sản từ chủ thể khác để trở
thành tài sản của mình. Nhưng xét về nội dung, phạm trù của hai hình thức này là khác
nhau. Việc tặng cho có thể là do cha mẹ cho con cái của mình một số tài sản hoặc cũng
có thể là từ một chủ thể khác, việc tặng cho sẽ được lập thành hợp đồng và sẽ có hiệu
lực khi người tặng cho đó ký vào hợp đồng đó. Thừa kế là việc con cái, vợ, chồng, cha
mẹ được hưởng thừa kế từ người đã mất mà người đó không để lại di chúc hoặc trong
di chúc của người mất có thể hiện được sự thừa kế để lại cho vợ, chồng được hưởng
thừa kế. Ví dụ: Án lệ số 03/2016/AL được HĐTP TANDTC thông qua ngày

11



06/04/2016 và được công bố theo Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06/04/2016 của Chánh
án TANDTC.[8]
Ba là, tài sản là quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn. Đất
đai là một loại tài sản đặc biệt do Nhà nước thống nhất quản lý. Theo quy định tại
Khoản 2 Điều 54 Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức,
cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người
sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Các loại quyền sử dụng
đất được sau khi kết hôn bao gồm: Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc của
riêng vợ, chồng được Nhà nước giao trong trường hợp: Nhà nước giao đất nông nghiệp
để trồng cây lâu năm, trồng cây hằng năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, giao đất để
nuôi trồng thủy sản, đất làm muối,… Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà được Nhà
nước giao cho vợ, chồng hoặc một bên vợ và chồng cũng được xem là tài sản chung vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được tặng cho, thừa kế chung hoặc có được
thông qua giao dịch từ tài sản chung của vợ chồng.
Bốn là, tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung. Đây là nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 213 BLDS năm 2015
và được cụ thể hóa trong Luật HN&GĐ năm 2014. Một gia đình muốn hạnh phúc, bền
vững thì việc phát triển kinh tế, tạo lập tài sản sẽ được chú trọng. Khi cuộc sống gia
đình không xảy ra sự mâu thuẫn thì việc phân định tài sản chung hay riêng, do ai làm
ra nhiều hơn không được chú trọng, ở đây vợ và chồng chỉ cùng nhau cố gắng làm việc
để tích góp tài sản chung cho mình. Vì lẽ đó, sẽ có nhiều trường hợp vợ, chồng muốn
nhập chung tài sản riêng của mình vào tài sản chung của vợ chồng, và mặc nhiên tài
sản đó được xem là tài sản chung của vợ chồng có thể do thỏa thuận hoặc được lập
bằng văn bản. Việc này dẫn đến hậu quả đó là khó xác định tài sản này là tài sản riêng
của vợ chồng hay tài sản chung vợ chồng khi có tranh chấp.
Năm là, tài sản chung được xác định do nguyên tắc suy đoán. Khoản 3 Điều 33
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định trường hợp tài sản đang tranh chấp mà không có

chứng cứ xác định được đây là tài sản riêng của vợ hay chồng thì tài sản đó mặc định
8

Án lệ số 03/2016/AL được HĐTP TANDTC thông qua ngày 06/04/2016 và được công bố theo Quyết định
220/QĐ-CA ngày 06/04/2016 của Chánh án TANDTC.

12


được xem là tài sản chung của vợ chồng.Vấn đề xác định tài sản chung, riêng của vợ
chồng được quy định tương đối cụ thể trong Luật HN&GĐ năm 2014, tuy nhiên khi
đời sống chung giữa vợ, chồng càng kéo dài thì các tài khó tránh khỏi lẫn lộn với nhau,
đặc biệt là khi vợ chồng xác lập nhiều giao dịch liên quan đến tài sản. Do đó, không
phải lúc nào cũng có thể xác định được nguồn gốc của tài sản. Trong bối cảnh đó, quy
định về nguyên tắc suy đoán có ý nghĩa định hướng trong việc giải quyết các tranh
chấp giữa vợ chồng với nhau về nguồn gốc tài sản.[9] Nguyên tắc suy đoán tài sản
chung của vợ chồng được đặt ra như một công cụ pháp lý hữu hiệu để giải quyết tranh
chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Để có thể phát huy hết vai trò của mình
trong thực tiễn, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay,
nguyên tắc này cần có một cơ chế pháp lý đảm bảo thực hiện phù hợp hơn trong thực
tiễn.
1.1.3 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt lao động trong gia
đình và lao động có thu nhập.[10] Quy định của Luật nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu
của gia đình và nuôi dưỡng con cái. Luật còn quy định không phân biệt giữa các lao
động trong gia đình nhằm đảm bảo lợi ích cho những ai không tham gia lao động để
kiếm thu nhập, mà thực hiện công việc chăm lo gia đình, nội trợ, đặc biệt là những
người phụ nữ trong gia đình, đảm bảo quyền lợi của họ được ngang bằng với người
tham gia lao động. Luật quy định không phân biệt lao động trong gia đình và lao động

có thu nhập nhằm thể hiện rõ hơn quan điểm của nhà nước bảo vệ những người vợ,
chồng không trực tiếp lao động tạo ra thu nhập cho gia đình mà thực hiện công việc nội
trợ, chăm sóc gia đình và con cái, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc
sống, đảm bảo sự công bằng giữa vợ và chồng, đây là điểm mới của Luật HN&GĐ
năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung Luật HN&GĐ năm 2014 quy định như sau: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự
thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: Bất động
9

Đoàn Thị Phương Diệp (2006), “Về nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong pháp luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam và Luật dân sự Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:6, tr.182-185.
10
Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2014.

13


sản; Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; Tài sản
đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.” Như vậy, không thể một bên vợ
hoặc chồng có thể tự ý chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung mà phải có sự thỏa
thuận và bình đẳng giữa vợ và chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng tự ý định đoạt tài sản
chung mà không có ý kiến của người còn lại thì người đó có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.
Nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng phải
bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Điều 37 Luật HN&GĐ 2014 quy
định: “Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách
nhiệm; Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình; Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; Nghĩa

vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc
để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con
gây ra mà theo quy định của BLDS thì cha mẹ phải bồi thường; Nghĩa vụ khác theo
quy định của các luật có liên quan.” Nhìn chung, nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài
sản đó là: nghĩa vụ thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; nghĩa vụ
phát sinh từ các giao dịch do vợ chồng xác lập; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật mà vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; nghĩa vụ phát sinh từ việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản
riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra thu nhập chủ yếu của gia
đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra theo quy định của BLDS năm 2015.
Ngoài ra, tránh các trường hợp thực tế mà luật không thể liệt kê hết, luật cũng quy định
vợ chồng vẫn phải chịu các nghĩa vụ chung về tài sản theo quy định của luật khác có
liên quan. Điều này có nghĩa là văn bản luật nào có liên quan quy định về nghĩa vụ của
vợ chồng thì vợ chồng có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ đó.
1.2 Khái quát về ly hôn
1.2.1 Khái niệm ly hôn
Ly hôn là một hiện trượng xã hội, khi cuộc sống vợ chồng không còn sự sẻ chia,
hôn nhân không đạt được mục đích như lúc ban đầu thì vợ chồng có quyền tìm ra cách
14


thức giải quyết tình trạng hôn nhân của mình, ly hôn là một trong những cách giải
quyết đó. Dưới góc độ pháp luật, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân khi hai bên
chủ thể của quan hệ hôn nhân yêu cầu hoặc cả hai thuận tình, được Tòa án công nhận
cho ly hôn. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.[11] Như vậy, chấm dứt hôn nhân do ly hôn là kết quả của
hành vi có ý chí của một hoặc cả hai bên vợ chồng thông qua quyết định của Tòa án.
Căn cứ cho ly hôn là những quy định của pháp luật quy định những điều kiện,
căn cứ pháp lý để giải quyết việc ly hôn của vợ chồng. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly
hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn

cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.[12] Luật HN&GĐ
năm 2014 quy định căn cứ để xác định nguyên nhân giải quyết ly hôn tuy nhiên quy
định vẫn còn chung chung, chưa cụ thể trong thực tiễn dẫn đến việc xem xét và áp
dụng luật còn nhiều khó khăn và hạn chế. Theo quy định của của Luật HN&GĐ năm
2014, có hai căn cứ để xác định là căn cứ ly hôn:
Căn cứ thứ nhất, Tòa án sẽ xem xét yêu cầu cho ly hôn của vợ hoặc chồng nếu
xét thấy có hành vi bạo lực gia đình, hôn nhân rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống
hôn nhân không thể kéo dài. Hành vi bạo lực gia đình bao gồm các hành vi: hành hạ,
ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng
mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;Cô lập, xua đuổi hoặc gây
áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; Ngăn cản việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con;
giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; Cưỡng ép quan hệ tình dục; Cưỡng ép
tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm
đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; Cưỡng ép
thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm
soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

11
12

Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.
Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

15



Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.[13] Bạo lực, bạo hành
gia điǹ h là mô ̣t khái niê ̣m chỉ viê ̣c người thân trong cùng mô ̣t gia đin
̀ h mâu thuẫn với
nhau tới mức dùng tới vũ l ực như: chửi nhau, thâ ̣m chí đánh nhau , giế t nhau... Như ba
mẹ đánh đâ ̣p con cái , chồ ng đánh đâ ̣p, giằ ng xéo vơ ̣ không lý do , con cái đánh đâ ̣p cha
mẹ già ...Những biể u hiê ̣n đó đề u đã nêu lên tính phi đa ̣o đức
, vô đa ̣o đức của hiê ̣ n
tươ ̣ng ba ̣o lực gia điǹ h , bạo hành gia đình . Gia đình mà có xuất hiện hành vi bạo lực
gia đình thì cuộc sống gia đình chắc chắn sẽ không còn bình yên, hạnh phúc. Vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong
việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật
này và các luật khác có liên quan.14 Theo tinh thần của Hiến pháp về quyền con người
cũng như quy định về quyền và nghĩa vụ trong Luật HN&GĐ năm 2014, vợ chồng
bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình, việc gia đình có biểu hiện trọng nam
khinh nữ hay quyền của vợ và chồng không tương xứng với nhau sẽ ảnh hưởng đến
tinh thần và quyền lợi của bên bị xâm phạm, làm ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân,
hôn nhân không thể hiện được múc đích của hôn nhân.
Căn cứ thứ hai, trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích xin ly hôn. Mất tích là khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp
dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật TTDS
nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình.[15] Pháp luật quy định như vậy là do mục đích của hôn nhân “gia đình
ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”, việc một người mất tích từ hai năm

trở lên dẫn đến việc mục đích trong quan hệ hôn nhân không đạt được, quy định này
giúp người còn lại giải thoát được tình trạng hôn nhân của mình.
13

Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007.
Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2014.
15
Khoản 2 Điều 68 BLDS năm 2015.
14

16


1.2.2 Các trường hợp ly hôn theo quy định của pháp luật
Trường hợp thuận tình ly hôn. Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn,
nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính
đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận
được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì
Tòa án giải quyết việc ly hôn.[16] Tự nguyện ly hôn là việc vợ và chồng đều có nguyện
vọng, không bị cưỡng ép yêu cầu Tòa án để giải quyết được thuận tình ly hôn. Điều
này được pháp luật cho phép và phù hợp với đạo đức xã hội. Khi bản thân vợ và chồng
xét thấy cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục, không còn hạnh phúc, mục đích của
hôn nhân không đạt được và nhận thấy ly hôn là cách giải quyết tốt nhất để giải thoát
thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Bên cạnh đồng thuận ly hôn thì vợ và
chồng phải có sự thỏa thuận về chia tài sản, nuôi dưỡng và chăm sóc con. Về vấn đề tài
sản: khi thuận tình ly hôn, vợ chồng sẽ tự thỏa thuận việc phân chia tài sản chung dựa
trên quy định của Luật HN&GĐ năm 2014. Về con chung: Việc ai là người nuôi con
sau khi ly hôn phải được ghi nhận trong quyết định thuận tình ly hôn của Tòa án. Sau
khi ly hôn mặc dù con sẽ do vợ hoặc chồng chăm sóc theo quyết định của Tòa, người

còn lại vẫn có quyền thăm nom, cấp dưỡng cho con theo thỏa thuận hoặc theo điều
kiện kinh tế của mình khi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị mất
năng lực hành vi dân sự. Vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con:
Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi,
người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực
hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.[17] Bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và trẻ em được nhà nước ghi nhận. Trẻ em có
vai trò quan trọng đối với gia đình, xã hội và đất nước. Vì vậy, việc bảo vệ quyền và
lợi ích của trẻ em phải được đặc biệt quan tâm. Trường hợp vợ chồng không tự thỏa
thuận được về quyền nuôi con sau khi ly hôn thì Tòa án có thể xem xét, quyết định vợ
hoặc chồng được quyền nuôi con dựa trên lợi ích của con.

16

Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014.

17

Khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014.

17


Trường hợp ly hôn theo yêu cầu một bên. Ly hôn theo yêu cầu của một bên là
khi vợ hoặc chồng, cha mẹ hoặc người thân thích của vợ chồng yêu cầu được chấm dứt
quan hệ hôn nhân. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không
thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo
lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được.[18] Quy định này chi tiết, cụ thể hơn Luật HN&GĐ năm

2000. Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 có những điểm mới phù hợp hơn với thực tế
hiện nay. Khi có yêu cầu ly hôn của một bên theo quy định, Tòa án phải xác minh tình
trạng thực tế của quan hệ hôn nhân, áp dụng căn cứ theo quy định của pháp luật để giải
quyết. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi
một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng,
vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
họ. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một
bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ
của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
họ.[19] Việc luật quy định cha, mẹ hoặc người thân thích khác có quyền yêu cầu giải
quyết ly hôn khi nhận thấy có căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ
năm 2014 là điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014. Ta có thể nhận thấy ngoài vợ và
chồng thì những người thân thích của vợ và chồng có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
nếu quan hệ hôn nhân của vợ và chồng rơi vào quy định tại Khoản 2 Điều 51 Luật
HN&GĐ 2014. Ly hôn là quyền của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên pháp luật dựa vào
thực tiễn cuộc sống đã đưa ra những trường hợp mở rộng quyền yêu cầu ly hôn cho
những người thân thích. Khoản 3 Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014 có giải thích
“Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu
về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.” Tuy nhiên, người thân thích chỉ được
yêu cầu ly hôn nếu một bên vợ chồng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến
không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia
đình do chồng hoặc vợ họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
18
19

Khoản 1 điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.
Khoản 2 điều 51Luật HN&GĐ năm 2014.


18


khỏe, tinh thần của họ. Như vậy, trong trường hợp vợ,chồng không rơi vào trường hợp
bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình
đồng thời không là nạn nhân của bạo lực gia đình thì người thân không thể yêu cầu ly
hôn thay họ.
Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly
hôn. Trong quan hệ hôn nhân, việc vợ hoặc chồng mất tích sẽ làm ảnh hưởng đến quan
hệ hôn nhân, cuộc sống của người còn lại. Do đó, cần phải có giải pháp để họ thoát
khỏi hoàn cảnh đặc biệt này. Quy định này cũng được kế thừa từ Luật HN&GĐ năm
2000, trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của người bị vợ hoặc chồng đã bỏ đi. Quyết
định tuyên bố một người mất tích là căn cứ để người còn lại được phép ly hôn theo quy
định của pháp luật. Một người bị coi là mất tích khi biệt tích hai năm liền trở lên, mặc
dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của Bộ luật
TTDS năm 2015 nhưng vẫn không có tin tức người đó còn sống hay đã chết thì vợ
hoặc chồng, người có quyền lợi liên quan với người mất tích đó có thể yêu cầu Tòa án
tuyên bố người đó mất tích.
1.2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn
Khi Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bản án xét xử ly hôn
của vợ và chồng điều đó cũng có nghĩa là quan hệ hôn nhân chấm dứt. Ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án.[20] Hậu quả pháp lý của việc ly hôn là nội dung quan trọng của ly hôn. Về quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng. Khi quyết định, bản án của Tòa án giải quyết ly hôn có
hiệu lực thì quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt. Họ không còn quyền và
nghĩa vụ đối với nhau như yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Họ sẽ là hai chủ thể
độc lập, và kể từ quyết định hoặc bản án của Tòa án có hiệu lực, họ có quyền xác lập
mối quan hệ hôn nhân mới với người khác. Về quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly
hôn. Trong quan hệ hôn nhân của vợ và chồng có con chung, thì sau khi ly hôn cha mẹ
vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con cái chưa thành niên hoặc đã

thành niên nhưng bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để nuôi bản thân. Quan hệ của cha mẹ với con cái không mất
20

Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.

19


×