BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngành:
LUẬT KINH TẾ
Giảng viên hướng dẫn : ThS. ĐOÀN TRỌNG CHỈNH
Sinh viên thực hiện
: DIỆP TIỂU LAM
MSSV: 1511270880
Lớp: 15DLK10
TP. Hồ Chí Minh, 2019
LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp từ người khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập tại giảng đường đại học – Trường Đại học Công
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ từ quý thầy cô, bạn bè và gia đình. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin
gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh, đặc biệt là Quý Thầy Cô khoa Luật đã tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành
chương trình học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Đoàn Trọng Chỉnh đã nhiệt tình hướng dẫn
em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp. Thầy đã cùng với tri thức và tâm huyết của
mình để truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt thời gian học tập tại
trường, đã tận tâm hướng dẫn em qua từng buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài em
đã chọn. Nếu không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của thầy thì em nghĩ bài báo
cáo của em rất khó hoàn thiện được. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỷ thương
Việt Nam – Techcombank Chi nhánh Nguyễn Duy Trinh đã tạo điều kiện cho em
được thực tập nghiên cứu thực tiễn. Khóa luận này của em được thực hiện trong
khoảng thời gian hơn 10 tuần. Bước đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về đề tài, kiến thức
của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Đồng thời, do trình độ lý luận vũng như
kinh nghiệm thực tiễn của em còn nhiều hạn chế nên khóa luận không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp để em có thêm nhiều kinh
nghiệm và để hoàn thiện tốt bài khóa luận tốt nghiệp này.
Sau cùng, em xin kính chúc thầy Đoàn Trọng Chỉnh và Quý Thầy Cô trong
Khoa Luật dồi dào sức khỏe, vững chắc niềm tin để tiếp tục sứ mệnh cao đẹp là
truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Sinh viên
Diệp Tiểu Lam
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: DIỆP TIỂU LAM, MSSV: 1511270880
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng quy định).
Nội dung trong khóa luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu có sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo quy định của nhà
trường và pháp luật.
Sinh viên
Diệp Tiểu Lam
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.................................................................................1
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu..........................................................................2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 3
6. Kết cấu của đề tài................................................................................................ 4
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG.........5
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG........................................................................................... 5
1.1 Lịch sử hình thành pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng.......................................................................................................................... 5
1.1.1 Trước khi có luật Các tổ chức tín dụng đến năm 1997............................... 5
1.1.2 Từ năm 1997 đến năm 2010......................................................................... 6
1.1.3 Từ năm 2010 đến nay................................................................................... 8
1.2 Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng......9
1.2.1 Khái niệm giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng..............................9
1.2.2 Đặc điểm của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng...................... 11
1.2.3 Rủi ro đối với giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng...................... 13
1.3 Vai trò và ý nghĩa của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.........14
1.3.1 Vai trò giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng................................. 15
1.3.2 Ý nghĩa giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng................................ 18
Chương 2: CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG......................................................................................... 20
2.1 Chủ thể và đối tượng giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.......... 20
2.1.1 Chủ thể giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng................................20
2.1.2 Đối tượng giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng............................22
2.2 Trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm và trình tự
thủ tục thực hiện giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng....................... 25
2.2.1 Trường hợp phải đăng kí giao dịch bảo đảm............................................ 26
2.2.2 Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng............................................ 28
2.2.3 Trình tự thủ tục thực hiện giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng...37
2.3 Điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực và mối quan hệ giữa hợp đồng
bảo đảm với hợp đồng tín dụng...........................................................................38
2.3.1 Điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực..............................................39
2.3.2 Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng.................... 40
Chương 3: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN................................ 44
3.1 Thực tiễn thực hiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng........................................................................................................................ 44
3.1.1 Kết quả đạt được trong việc thực hiện pháp luật về giao dịch bảo đảm
trong hợp đồng tín dụng...................................................................................... 44
3.1.2 Hạn chế, bất cập còn tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật về giao
dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng............................................................... 49
3.2 Kiến nghị hoàn thiện về việc thực hiện pháp luật giao dịch bảo đảm trong
hợp đồng tín dụng................................................................................................. 54
3.2.1 Phát huy kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật đối với
giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.......................................................54
3.2.2 Giải pháp khắc phục hạn chế còn tồn tại khi thực hiện pháp luật đối với
giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.......................................................55
KẾT LUẬN................................................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 61
I. VĂN BẢN PHÁP LUẬT...................................................................................... 61
2. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị Quốc
gia, Hà Nội................................................................................................................. 61
3. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội.............................................................................................................................. 61
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với một đất nước được đánh giá là đang phát triển thì phải đi kèm với nền
kinh tế tăng trưởng cao. Kinh tế phát triển thì đất nước mới lớn mạnh, xã hội mới
không ngừng giàu đẹp. Ngày nay, là thời kì hội nhập, do tính chất của xã hội và sự
tăng trưởng không ngừng của thế giới, các hoạt động kinh tế luôn đóng vai trò hết
sức quan trọng trong sự phát triển của đất nước, đặc biệt là khi nước ta gia nhập vào
tổ chức thương mại thế giới – WTO.
Hàng loạt các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính đã được thành lập
và đi vào hoạt động. Hệ thống các ngân hàng thương mại và công ty tài chính ở
nước ta đã có nhiều bước phát triển vượt bậc và không ngừng phát triển lớn mạnh
về quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt động cũng như sự mở rộng các chi nhánh rải
khắp trên nhiều khu vực. Đối tượng khách hàng của các ngân hàng thương mại
không chỉ hướng tới các cá nhân mà còn có các doanh nghiệp, công ty, và các hộ
kinh doanh cá thể.
Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng đã góp phần tích cực cho các dịch
vụ huy động vốn, tài trợ vốn hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút vốn đầu tư của
nước ngoài. Chính vì thế mà các ngân hàng thương mại đã trở thành kênh cung ứng
vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Con người sẽ chú ý nhiều hơn nữa đến lĩnh vực ngân
hàng, vì đây có thể được xem là một nơi an toàn, tiện dụng và nhanh chóng nhất
trong lĩnh vực tiền tệ. Chúng ta đã và đang đến các ngân hàng thường xuyên hơn, sử
dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng thường xuyên hơn, đặc biệt là sử dụng
nguồn vốn từ ngân hàng nhiều hơn và tham gia nhiều vào các hợp đồng tín dụng có
đảm bảo hoặc không đảm bảo.
Xuất phát từ ý nghĩa của giao dịch đảm bảo trong hợp đồng tín dụng, em chọn
đề tài “Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng” để làm đề tài cho
khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Thông qua đề tài này em muốn làm rõ hơn về các giao dịch đảm bảo trong hợp
đồng tín dụng và đứng ở góc độ pháp luật Việt Nam nhìn nhận các vấn đề việc áp
1
dụng pháp luật vào các giao dịch đảm bảo trong hợp đồng tín dụng. Từ đó đề xuất
ra một số kiến nghị khắc phục các vấn đề còn bất cập, nâng cao hiệu quả trong các
giao dịch đảm bảo trong hợp đồng tín dụng cũng như góp phần hoàn thiện pháp luật
liên quan đến các vấn đề về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng hiện nay.
Thứ nhất, đánh giá thực trạng của pháp luật liên quan đến các vấn đề về giao
dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng tại Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, tìm hiểu nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật liên quan đến các vấn đề về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đối với các giao dịch đảm bảo trong hợp đồng tín
dụng, thì đây là lĩnh vực rộng, cần phải nghiên cứu và quan sát từ nhiều khía cạnh,
nhiều nguồn. Chính vì thế, em đã tìm hiểu vấn đề này tại một số ngân hàng trong
nước. Hơn nữa, lĩnh vực này đã xuất hiện từ rất lâu đời tồn tại và phát triển đến
ngày hôm nay. Để đạt được mục đích nghiên cứu này, khóa luận đã chọn các vấn đề
về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng trong quá trình thực hiện dựa trên cơ
sở các quy định của pháp luật hiện hành.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật điều chỉnh
các vấn đề về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng. Cụ thể như các vấn đề về
lý luận chung, chế định pháp luật đã điều chỉnh đến vấn đề đó và thực tiễn của việc
thực hiện pháp luật, từ đó thấy được những hạn chế bất cập còn tồn đọng nhằm đưa
ra giải pháp khác phục.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều đề tài viết về các vấn đề liên quan đến giao dịch bảo đảm trong
hợp đồng tín dụng, cụ thể như sau:
- Nguyễn Trí Đức (2008), Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong
hoạt động của Ngân hàng thương mại Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp của Đại học
Luật Hà Nội. Đề tài làm rõ về các vấn đề lý luận chung về giao dịch bảo đảm tiền
vay, hệ thống hóa các quy định về bảo đảm tiền vay. Từ đó phân tích và đánh giá về
thực trạng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
2
- Nguyễn Trung Dương (2014), Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong
hoạt động tín dụng ngân hàng, khóa luận tốt nghiệp của trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh. Đề tài làm rõ về vấn đề lý luận chung về đăng ký giao dịch bảo
đảm và thực trạng áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề.
- Đoàn Đức Lương, Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2015), Pháp luật về
giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam, tài liệu nghiên cứu của
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu đề cập về các vấn đề liên quan
đến các giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm và các vấn đề pháp lý khác xoay
quanh vấn đề về giao dịch bảo đảm.
Nhìn chung, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến giao
dịch bảo đảm và hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, các đề tài chỉ dừng lại ở một số vấn
đề cụ thể và nhìn nhận trên cơ sở các văn bản pháp luật đã lỗi thời, hết hiệu lực.
Cho đến nay, nhằm đáp ứng tình hình thực tế hiện tại và đưa ra cái nhìn khác hơn
dựa trên cơ sở áp dụng các văn bản pháp luật hiện hành, đề tài “Giao dịch bảo đảm
trong hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật” sẽ là công trình đầu tiên được
nghiên cứu và không trùng lặp với bất kì công trình nghiên cứu khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, em đã áp dụng và tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp đánh giá và nhận định các vấn đề liên quan.
Có không ít tác giả đã đưa ra những quan điểm về các vấn đề liên quan đến đề tài.
Thông qua đó giúp em nhìn nhận vấn đề từ nhiều khía cạnh nhằm đưa ra những
nhận định mang tính khách quan nhất.
- Phương pháp so sánh, thống kê số liệu. Từ những số liệu đã thu thập được
qua việc nghiên cứu đề tài, em có thể nắm bắt được tình hình thực tế của đề tài và
đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề này. Điều này có nghĩa là
đánh giá được những điều đã làm được và những hạn chế bất cập còn tồn động, từ
đó mà đề ra những giải pháp phù hợp để khắc phục.
- Phương pháp diễn dịch và quy nạp. Đây là hai phương pháp trình bày khóa
luận tốt nghiệp được em sử dụng trong đề tài. Giúp dễ dàng nhìn nhận được vấn đề
và nắm bắt được nội dung của từng mục.
3
Từ đó rút ra những nhận xét và kết luận về các vấn đề liên quan đến giao dịch
bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung bài
khóa luận tốt nghiệp gồm có ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.
Chương 2: Chế định pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.
Chương 3: Thực hiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
và kiến nghị hoàn thiện.
4
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1 Lịch sử hình thành pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng
Lịch sử hình thành và phát triển của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng gắn liền với sự hình thành và phát triển của tiền tệ. Khi nền kinh tế hàng hóa
phát triển, đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa người ta đã “sáng tạo” ra
tiền tệ đóng vai trò là vật ngang giá chung.
Trước đây, đối với nền kinh tế hàng hóa giản đơn, phương thức trao đổi sơ
khai là “hàng đổi hàng” được các bên áp dụng. Tuy nhiên phương thức này, chỉ khả
thi khi cả hai bên đều có nhu cầu về hàng hóa của nhau tương thích. Do vậy, nhiều
trường hợp phương thức “hàng đổi hàng” trở nên không hữu hiệu khi nhu cầu trao
đổi của các bên vẫn có nhưng không tương thích với nhau. Theo thời gian, hoạt
động lưu thông trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển thành một phương thức trao
đổi tiến bộ hơn đó là “hàng – vật ngang giá chung – hàng”. Tuy nhiên, đặc trưng
mỗi vùng miền, tập quán có vật ngang giá khác nhau. Do đó, nhu cầu chuyển đổi
tiền tệ phù hợp với tùng vùng, nơi mà các thương nhân đến trao đổi đã nảy sinh
nhằm thỏa mãn nhu cầu về lưu thông và trao đổi hàng hóa. Để xác nhận dịch vụ trao
đổi tiền đã được thực hiện, các thương nhân nhận chuyển đổi tiền sẽ phát hành
chứng thư mang bản chất biên nhận về gửi giữ tài sản. Chính vì sự phát triển đó đã
nảy sinh những mâu thuẫn về cung, cầu liên quan đến việc sử dụng tiền tệ. Ngân
hàng hay nói khác hơn là tổ chức tín dụng và các loại hình tín dụng đã ra đời từ đó
và giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng cũng là một trong số đó.1
1.1.1 Trước khi có luật Các tổ chức tín dụng đến năm 1997
Trong quan hệ dân sự và kinh tế thông thường, các biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ dân sự là do các bên liên quan hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận. Riêng đối với tín
dụng ngân hàng, thì đã từng có thời kì các biện pháp bảo đảm tiền vay được quy
Phạm thị Như Bình (2017), Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng tại tòa án cấp sơ thẩm
theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đại học Luật – Đại học Huế.
1
5
định như là một trong những điều kiện bắt buộc, thậm chí là nguyên tắc để ngân
hàng cho vay vốn.
Vào năm 1989 (trước khi có Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Pháp lệnh
hợp đồng dân sự năm 1991 và Bộ luật Dân sự năm 1995), sau khi đã chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các ngân hàng đã chuyển
sang mô hình hai cấp (tách các ngân hàng thương mại ra khỏi Ngân hàng Nhà nước),
pháp luật ngân hàng đã quy định: “Các hợp tác xã, tổ chức sản xuất kinh doanh, các
hộ tư doanh, cá thể và tổ chức liên doanh tập thể tư nhân sản xuất dịch vụ, cán bộ
công nhân viên làm kinh tế gia đình (gọi tắt là bên vay) khi vay vốn ngân hàng phải
có tài sản làm thế chấp cho mỗi lần vay” theo Điều 1 “Quy định về thế chấp tài sản
vay vốn ngân hàng”, ban hành theo Quyết định số 156/NH-QĐ ngày 18-11-1989
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước việt Nam. Hoặc quy định một trong những
điều kiện để được vay vốn là “phải thế chấp tài sản hoặc được bảo lãnh của người
thứ ba dủ thẩm quyền” theo điểm 4.1.5 khoản 4.1 Điều 4 “Thể lệ tín dụng ngắn hạn
đối với các tổ chức kinh tế”, ban hành kèm theo Quyết định số 198-QĐ/NH ngày
16-9-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Vào ngày 23/5/1990 Hội đồng nhà nước ban hành “Pháp lệnh Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và Pháp lệnh Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính” có hiệu lực
từ ngày 01/10/1990, đã đánh dấu bước ngoặc đổi mới hệ thống ngân hàng và hoạt
động tiền tệ tín dụng ngân hàng.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung lần đầu tiên được quy
định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật dân sự 1995. Bộ luật Dân
sự 1995 có 53 điều (từ Điều 324 đến Điều 376) quy định về biện pháp bảo đảm,
kèm theo 70 điều của hai Nghị định hướng dẫn và 39 điều hướng dẫn riêng cho tổ
chức tín dụng.
1.1.2 Từ năm 1997 đến năm 2010
Sau Bộ luật Dân sự 1995, việc ban hành các nghị định về giao dịch bảo đảm,
đăng ký giao dịch bảo đảm là các mốc quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đến năm 1997 pháp luật về ngân hàng và các
tổ chức tín dụng vẫn còn quy định tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở có bảo đảm
bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và việc
6
cho vay có tài sản bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và việc cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng được thực hiện theo quy định
của Chính phủ (theo các khoản 2 và khoản 3 Điều 52 về “Bảo đảm tiền vay”, Luật
các tổ chức tín dụng năm 1997 khi chưa được sửa đổi, bổ sung vào năm 2004). Cho
đến năm 1999, bắt đầu có sự thay đổi bằng quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐCP ngày 29-12-1999 của Chính phủ về “Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng”.
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 4 về “Nguyên tắc bảo đảm tiền vay” của nghị định này Tổ
chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo bảo đảm bằng tài
sản hay cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo
chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho
vay này được Chính phủ xử lý. Sau đó, năm 2000, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đã quy định giới hạn, tỉ lệ cho vay không có tài sản bảo đảm đối với các tổ chức tín
dụng cùng với quy định “Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện theo quy định của
Chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước”, theo khoản 3 Điều 6 về
“Nguyên tắc vay vốn”, “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”,
ban hành kèm theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN ngày 25-8-2000 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước.
Đến năm 2004, Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 mới được sửa đổi, bổ
sung một số điều và quy định về bảo đảm tiền vay được sửa thành: “Tổ chức tín
dụng có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có
bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp, của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ
ba và chịu trách nhiệm về quyết định của mình”. Luật này cũng quy định “Tổ chức
tín dụng Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ.
Tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này được Chính phủ xử lý”,
theo khoản 2 và 4 Điều 52 về “Bảo đảm tiền vay”, Luật Các tổ chức tín dụng năm
1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004).
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các văn bản này đã bộc lộ không ít bất
cập như: mâu thuẫn trong quy định về giao dịch bảo đảm giữa Bộ luật dân sự và
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, sự song hành tồn tại của hai quy chế về giao dịch bảo
đảm áp dụng đối với các chủ nợ nói chung và đối với các tổ chức tín dụng nói riêng
gây khó khăn khi lựa chọn luật áp dụng; các hạn chế đối với tổ chức tín dụng khi
nhận tài sản bảo đảm là động sản, tài sản hình thành trong tương lai; quyền tự do
thỏa thuận của các bên trong giao dịch chưa thực sự được tôn trọng; thứ tự ưu tiên
7
thanh toán không rõ ràng… Để khắc phục phần nào các bất cập và hoàn thiện hơn
pháp luật về giao dịch bảo đảm, Bộ luật dân sự 2005 có 70 điều quy định về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 318 đến Điều 387), Nghị định
163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/12/2006 được ban hành.
1.1.3 Từ năm 2010 đến nay
Năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 được ban hành và được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 quy định, tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng không có bảo
đảm cho một số đối tượng như: tổ chức kiểm toán; Kiểm toán viên đang kiểm toán,
thanh tra viên đang thanh tra tại tổ chức tín dụng; kế toán trưởng của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; cổ đông lớn (sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ
5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên), cổ đông sáng lập; người thẩm định,
xét duyệt cấp tín dụng; các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc
doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát; tổ chức kiểm toán, kiểm
toán viên đang kiểm toán và thanh tra viên đang thanh tra tại tổ chức tín dụng.2 Như
vậy, ngoài các trường hợp này thì tổ chức tín dụng hoàn toàn có quyền quyết định
cấp tín dụng có hoặc không có biện pháp bảo đảm.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước đã quy định, tổ chức tín dụng phải ban hành
quy định nội bộ về cho vay, quản lý tiền vay, trong đó phải tối thiểu có các nội dung
cụ thể về việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay, thẩm định tài sản bảo đảm tiền
vay, việc quản lý, giám sát, theo dõi tài sản bảo đảm tiền vay phù hợp với biện pháp
bảo đảm tiền vay, đặc điểm của tài sản bảo đảm tiền vay và khách hàng, theo điểm
d khoản 2 Điều 22 về “Quy định nội bộ”, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 3012-2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước “Quy định về hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng”.
Cho đến cuối năm 2010, các biện pháp bảo đảm vẫn đặc biệt quan trọng đối
với hoạt động của tổ chức tín dụng. Với tư cách bên nhận bảo đảm thì tổ chức tín
dụng áp dụng năm loại giao dịch bảo đảm là cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bảo lãnh và
tín chấp để cấp tín dụng (gồm cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, bao thanh toán, cho
thuê tài chính và các hình thức cấp tín dụng khác). Với tư cách doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ ngân hàng thì tổ chức tín dụng áp dụng ba loại giao dịch bảo đảm có sự
tham gia của người thứ ba là tổ chức tín dụng, đó là ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp.
Theo khoản 1 Điều 127 về “Hạn chế cấp tín dụng”, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017).
2
8
Trong giao dịch ký quỹ thì tổ chức tín dụng tham gia với tư cách là bên trung gian
giữ tài sản ký quỹ và thực hiện thanh toán theo chỉ định của các bên. Còn trong giao
giao dịch bảo lãnh thì tổ chức tín dụng là người cung cấp dịch vụ tín dụng bảo lãnh
và chịu trách nhiệm trả thay.
Đến năm 2015, Bộ luật Dân sự 2015 được ban hành và có 59 điều quy định về
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 292 đến Điều 350), kèm theo là các
Nghị định hướng dẫn sửa đổi bổ sung đã được ban hành và áp dụng. Các văn bản
này đã giải quyết các khúc mắt bởi các quy định tiến bộ vè trình tự thủ tục thiết lập
bảo đảm; quyền tự do thỏa thuận giữa các chủ thể được mở rộng;… Tuy nhiên, đến
nay trong quá trình áp dụng pháp luật vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắt
xoay quanh các vấn đề về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng từ nhiều
nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
1.2 Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Trong cuộc sống thường ngày không khó để nghe được người ta nhắc đến hợp
đồng tín dụng và giao dịch bảo đảm. Từ khi xuất hiện nền sản xuất hàng hóa thì nhu
cầu về vốn của các chủ thể là nhu cầu mang tính khách quan. Tuy nhiên, xét trong
cùng một thời điểm thì có những người thừa vốn tạm thời lại có những người thiếu
vốn tạm thời. Nếu không có sự luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn
thì nền sản xuất sẽ bị ngưng trệ. Để giải quyết mâu thuẫn nội tại giữa người thừa
vốn và người thiếu vốn tạm thời thì hoạt động tín dụng đã ra đời và bắt đầu phát
triển đến ngày hôm này.
Qua quá trình phát triển và thay đổi thì ngày nay hoạt động tín dụng ấy đã có
sự đảm bảo, được xã hội thừa nhận và được pháp luật bảo vệ bởi các quy định của
pháp luật. Nội dung phần này sẽ cho thấy được khái niệm cũng như đặc điểm của
giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng, giao dịch bảo đảm đảm trong hợp đồng
tín dụng và những điểm khác biệt so với giao dịch bảo đảm thông thường. Giúp
hiểu rõ hơn về giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng.
1.2.1 Khái niệm giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Hợp đồng là một chế định pháp lý quan trọng và phổ biến nhất để mọi chủ thể
thực hiện các hoạt dộng dân sự, kinh doanh, thương mại, hành chính. Vì vậy, Bộ
luật Dân sự 2015 chỉ gọi là “hợp đồng”, thay vì “hợp đồng dân sự” như trước đây.
9
Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2015 Chương XVI, Mục 4. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng
trong trường hợp bên cho vay là tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân
hàng.
Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 có thể rút ra được, Hợp đồng
tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với
khách hàng là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do luật định (bên vay), nhằm xác lập
quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó bên
cho vay chuyển giao một khoản tiền cho bên vay sử dụng vào mục đích xác định
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.
Việc bảo đảm nghĩa vụ dân sự luôn gắn với trách nhiệm dân sự về tiền, tài sản
và việc trả nợ, nên trong nhiều trường hợp còn gọi là bảo đảm nghĩa vụ tài chính,
bảo đảm nghĩa vụ tài sản hay bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng. Khái niệm
giao dịch bảo đảm ngoài việc bao hàm biện pháp bảo đảm mang tính chất truyền
thống còn rộng hơn cả những giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ như thuê tài chính, gửi bán thương mại, bảo lưu quyền sở hữu trong
mua trả chậm, trả dần, chuyển nhượng quyền đòi nợ v.v... Như vậy, giao dịch bảo
đảm chính là sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận
bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ xác định mà các
bên đã thiết lập trong các quan hệ kinh tế, dân sự cụ thể. Trường hợp bên có nghĩa
vụ trong quan hệ kinh tế, dân sự không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa
thuận, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo phương thức mà
các bên đã thỏa thuận để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Giao dịch bảo đảm là
hợp đồng dân sự do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Giao dịch bảo
đảm là giao dịch phát sinh giữa tổ chức tín dụng với người vay hoặc giữa tổ chức
tín dụng với người vay và người thứ ba trong trường hợp người thứ ba dùng tài sản
của mình để đảm bảo nghĩa vụ cho người vay. Thỏa thuận về biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dù được thành lập bằng văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp
đồng tín dụng thì nó vẫn là một thỏa thuận mang tính độc lập tương đối với hợp
đồng tín dụng.
Từ những khái niệm trên, có thể rút ra được giao dịch bảo đảm trong hợp
đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và người vay hoặc giữa tổ
chức tín dụng và người vay với người thứ ba dùng tài sản hoặc uy tín của mình để
bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán số tiền mà tổ chức tín dụng đã giao cho người vay,
10
xác lập quyền xử lý tài sản bảo đảm hoặc quyền yêu cầu của người thứ ba phải thực
hiện nghĩa vụ này thay cho người vay khi người vay không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Giao dịch bảo
đảm trong hợp đồng tín dụng hay còn gọi là giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho
vay thực chất là một loại hình cụ thể của giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự.
1.2.2 Đặc điểm của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Từ khái niệm trên có thể phân biệt hợp đồng tín dụng với các hợp hồng khác
trong dân sự và thương mại qua một số đặc trưng cơ bản sau đây.
- Về chủ thể: một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có
đủ điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia là bên vay có
thể là tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.
- Về đối tượng: đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền (bao
gồm tiền mặt và bút tệ). Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ
cũng là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản
hợp đồng.
- Về tính rủi ro: hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn đối
với quyền lợi của bên cho vay. Sở dĩ như vậy là vì cam kết kết trong hợp dồng tín
dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Nếu
thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro càng lớn. Vì thế mà các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với đa số
các loại hợp đồng khác.
- Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: trong hợp dồng tín dụng, nghĩa vụ
chuyễn giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng được thực
hiện trước, làm cơ sở, tiền đề, cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
Do đó, chỉ khi nào bên có vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay
theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên
vay phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình (bao gồm các nghĩa vụ chính như sử dụng
tiền vay đúng mục đích; nghĩa vụ hoàn tiền vay đúng hạn cả gốc và lãi…).
Qua những khái niệm đã nêu trên thì giao dịch bảo đảm có các đặc điểm riêng
sau đây:
11
- Giao dịch bảo đảm được xác lập dựa trên sự thỏa thuận của các bên và trên
cơ sở các quy định của pháp luật. Về bản chất, giao dịch bảo đảm là giao dịch dân
sự, do đó phải dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện và bình đẳng của Bộ luật Dân
sự, các giao dịch này phải được lập trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên.
- Giao dịch bảo đảm tạo ra nghĩa vụ bảo đảm là nâng cao trách nhiệm của bên
chủ thể có nghĩa vụ trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Thông thường, các bên
tham gia một quan hệ nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ sẽ tự giác thực hiện nghĩa vụ nghĩa
vụ của mình đáp ứng yêu cầu của bên có quyền.
- Đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là tài sản. Biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng một hoặc một số tài sản cụ thể bao gồm:
Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ,… Khi tham gia vào các
giao dịch dân sự, bên có quyền quan tâm đến lợi ích vật chất của mình hướng tới sự
bảo đảm an toàn các lợi ích đó, do vậy đối tượng của các biện pháp bảo đảm thường
là tài sản.
Từ các đặc điểm trên có thể thấy rằng, giao dịch này có đầy đủ các thuộc tính
cơ bản của giao dịch bảo đảm nghĩa vụ dân sự. Những dấu hiệu này phản ánh bản
chất của giao dịch bảo đảm nói chung và các giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng nói riêng. Cụ thể như sau:
- Chủ thể trong quan hệ bảo đảm. Giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
là loại giao dịch được thiết lập giữa bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm. Bên nhận
bảo đảm trong giao dịch này là các ngân hàng được cấp phép hoạt động, có chức
năng cho vay theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, có giấy đăng ký
kinh doanh hợp pháp, có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết các
hợp đồng. Trong hoạt động cho vay của các ngân hàng, bên bảo đảm được xác định
một cách cụ thể là khách hàng vay vốn, bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình
đáp ứng các điều kiện như có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
theo luật định; có khả năng tài chính để trả nợ theo cam kết trong hợp đồng tín dụng;
khách hàng vay vốn phải có mục đích sử dụng vốn vay hợp lý, hợp pháp; có dự án
đầu tư hoặc phương thức kinh doanh khả thi với phương án trả nợ khả thi. Điều
quan trọng là khách hàng vay vốn phải có tài sản bảo đảm cho khoản vay và là
người sở hữu tài sản đó hoặc phải có quyền quản lý, sử dụng tài sản.
12
- Giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng được hiểu là cam kết của bên
bảo đảm với ngân hàng về việc dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản cấp tín
dụng trong trường hợp nghĩa vụ trả nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ theo các thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Với cách tiếp cận này, giao dịch
bảo đảm đã cho thấy vai trò quan trọng của nó trong việc mở rộng cơ hội tiếp cận
tín dụng cho nền kinh tế nước ta. Tính chất bảo đảm thể hiện qua những điểm sau:
Một là, bên nhận bảo đảm có quyền trực tiếp đối với một hoặc một số tài sản
cụ thể của bên bảo đảm như quyền ưu tiên, quyền đeo đuổi v.v… Với quyền ưu tiên,
bên nhận bảo đảm được ưu tiên thực hiện quyền của mình trên tài sản trước những
người khác. Trong trường hợp nhiều người cùng có quyền ưu tiên một tài sản, thì
người xác lập quyền trước được ưu tiên so với những người xác lập quyền sau, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác về thứ tự ưu tiên. Do vậy, hệ thống đăng ký
giao dịch bảo đảm được xây dựng để thông tin cho người thứ ba về quyền đối với
tài sản bảo đảm, hỗ trợ bên nhận bảo đảm thực hiện quyền ưu tiên một cách có hiệu
quả và an toàn.
Hai là, quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm luôn hướng tới
giá trị tiền tệ của tài sản đó. Do vậy, bên nhận bảo đảm luôn có quyền được yêu cầu
xử lý tài sản theo quy định của pháp luật hoặc theo thảo thuận để thanh toán nghĩa
vụ được bảo đảm.
Bà là, bên nhận bảo đảm được thực thi các quyền của mình đối với tài sản bảo
đảm khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp
luật, bên nhận bảo đảm có quyền sở hữu đối với tài sản bảo đảm, nghĩa vụ được bảo
đảm đã xác lập và chưa chấm dứt.
Như vậy, pháp luật quy định cho bên nhận bảo đảm luôn có quyền áp dụng các
biện pháp cần thiết để bảo đảm quyền của mình khi bị vi phạm. Vì đối tượng của
nghĩa vụ là tài sản hoặc một công việc và khi vi phạm nghĩa vụ thực hiện công việc
hoặc không thực hiện công việc sẽ gây thiệt hại bằng tiền, nên đối tượng của nghĩa
vụ luôn thể hiện trị giá bằng một số tiền.
1.2.3 Rủi ro đối với giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Thực tế hoạt động ngân hàng cho thấy, có muôn ngàn lý do làm cho quyền sở
hữu nhà ở, quyền sử dụng đất vốn là tài sản bảo đảm lại trở thành không bảo đảm,
13
khiến khoản nợ xấu của ngân hàng tăng vọt. Có rất nhiều vấn đề rủi ro xảy ra trong
các giao dịch bảo đảm, cụ thể như sau:
- Về nhân thân của người tham gia ký kết hợp đồng tín dụng. Đã có rất nhiều
trường hợp xảy ra do cán bộ ngân hàng, công chứng viên không làm hết trách
nhiệm đã công chứng hợp đồng có chữ ký giả, bị đánh tráo người ký hợp đồng, do
người yêu cầu công chứng không có chứng minh thư (chỉ có đơn xác nhận mất giấy
tờ, đơn xin cấp chứng minh thư của công an địa phương); dùng chứng minh thư
photo; chứng minh thư bị sửa; chứng minh thư giả; người giống trong ảnh của
chứng minh thư để thay thế người trong chứng minh thư đó; dùng hợp đồng ủy
quyền giả để ký hợp đồng. Hay những trường hợp người ký hợp đồng có đủ năng
lực hành vi dân sự; người ký kết hợp đồng không đủ thẩm quyền.
- Rủi ro khi ký hợp đồng với người được ủy quyền, như: một bên có thể yêu
cầu tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng ủy quyền; người được ủy quyền bị tòa án
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích
hoặc đã chết; khi bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền có nghĩa vụ với bên thứ ba
(nợ đối tác, cơ quan thuế,…) các chủ nợ có quyền yêu cầu phong tỏa, kê biên và
phát mãi các tài sản của bên ủy quyền; người ủy quyền vi phạm pháp luật và cơ
quan tố tụng đã xác định tài sản đó là tang vật hoặc do phạm tội mà có.
- Rủi ro về tài sản bảo đảm: tài sản bảo đảm ảo hoặc tài sản có thật nhưng
không định giá đúng; tài sản bảo đảm bị rủi ro do những biến cố khách quan (thời
tiết, khí hậu, môi trường,…); tài sản bảo đảm không đủ căn cứ xác lập quyền tài sản
chung hay riêng của vợ chồng; tài sản đang trong quá trình đấu giá nhưng lại mang
ra làm tài sản bảo đảm.
- Rủi ro đến từ cán bộ ngân hàng và công chứng viên là việc cán bộ ngân hàng
và công chứng viên làm việc thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức kinh nghiệm, hay vì
mục đích tư lợi trong quá trình thực hiện các giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng.
1.3 Vai trò và ý nghĩa của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng đóng vai trò quan trọng và mang ý
nghĩa to lớn không chỉ với từng chủ thể tham gia mà còn với nền kinh tế xã hội hiện
nay. Là một phần không nhỏ và không thể thiếu của nền tài chính quốc gia. Từ thuở
14
sơ khai thì giao dịch bảo đảm và hoạt động tín dụng đã xuất hiện với những thức sơ
đẳng nhất. Đến ngày nay, chạy theo sự phát triển của xã hội, của nền kinh tế thì dần
dần giao dịch bảo đảm cũng đã phát triển vượt bật. Có thể nói, một quốc gia phát
triển thì phải có nền kinh tế phát triển. Như vậy đủ nhận ra rằng giao dịch bảo đảm
trong hợp đồng tín dụng đóng vai trò và có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển một
quốc gia.
1.3.1 Vai trò giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
- Giao dịch bảo đảm là cơ sở bảo đảm an toàn cho việc thực hiện hợp đồng tín
dụng.
Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển của các tổ chức tín dụng cùng
với sự đa dạng của các hoạt động và các hình thực tín dụng, đã tạo nên một thị
trường tín dụng sôi động. Nhưng điều đó cũng chứa đựng nhiều rủi ro có thể xảy ra
đối với các tổ chức tín dụng có khả năng ngăn ngừa, chống đỡ kém. Hơn nữa,
ngành ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất
của nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Vì thế
pháp luật của hầu hết các nước đều có quy định cụ thể về an toàn trong hoạt động
tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng đều phải tuân thủ những điều
kiện nhất định. Bản chất của giao dịch bảo đảm là sử dụng những tài sản làm bảo
đảm để trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Vì vậy, khi có rủi ro xảy ra
thì tổ chức tín dụng có thể thu hồi được vốn thông qua tài sản dùng làm tài sản bảo
đảm, đảm bảo an toàn trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng.
- Giao dịch bảo đảm kích thích các hoạt động liên quan đến giao dịch bảo đảm
của các tổ chức tín dụng.
Theo quy định của pháp luật, hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử
dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Theo đó, các tổ chức
tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng dựa trên nguồn vốn huy động là chủ yếu. Các
quy định về giao dịch bảo đảm có tác dụng rất quan trọng trong việc kích thích hoạt
động liện quan đến giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng. Khi đó, các bên
tham gia vào quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng sẽ tuân thủ theo các quy định
của pháp luật và rủi ro tín dụng sẽ được loại trừ.
15
- Giao dịch bảo đảm có vai trò quan trọng trong việc hạn chế tranh chấp xảy ra,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong hợp đồng tín dụng.
Giao dịch bảo đảm được thể hiện bằng các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh,… mà các bên trong hợp đồng tín dụng có quyền thỏa thuận áp dụng biện pháp
bảo đảm cũng như thỏa thuận các điều khoản trong giao dịch bảo đảm. Các giao
dịch bảo đảm này là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng. Do đó, các tranh chấp được hạn chế,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng như sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Về khía cạnh pháp luật, pháp luật có những vai trò đối với giao dịch bảo đảm
trong hợp đồng tín dụng như sau:
Một là, nhà nước cũng như pháp luật là công cụ và phương tiện đảm đương
vai trò dẫn dắt và chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý như
nhau đối với các thành viên trong xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau
phát huy khả năng của mình để khởi nghiệp và phát triển. Pháp luật đảm đương vai
trò kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi thành viên của xã hội
phát huy tài năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện và phát triển bản thân mình, đồng
thời phát triển xã hội. Với vai trò này, xã hội nói chung và các thành viên của xã hội
nói riêng sẽ có điều kiện để phát triển.
Hai là, pháp luật là phương tiện có khả năng bảo đảm bình đẳng cho các giao
dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng. Bởi pháp luật là những giá trị bình đẳng mà
xã hội có, xã hội cần và ủng hộ. Nhà nước lại có một bộ máy hùng mạnh với các cơ
quan, tổ chức bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nên bình đẳng
và công bằng xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật có khả năng trở
thành hiện thực. Vì vậy, nhà nước có vai trò đối với phát triển xã hội và quản lý
được quá trình phát triển đó, để xã hội không rơi vào trạng thái rối loạn hoặc phát
triển tự phát, thiếu tổ chức và kỷ luật.
Ba là, pháp luật là phương tiện để nhà nước điều hòa lợi ích giữa các giao dịch
bảo đảm trong hợp đồng tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng bảo đảm cho xã hội
phát triển hài hòa và ổn định. Xã hội luôn có xu hướng phân hóa giàu nghèo do sự
tác động của nhiều yếu tố. Đó có thể là sự phân hóa giàu nghèo do tác động tiêu cực
16
của nền kinh tế thị trường, do sự yếu thế của một bên nào đó khi tham gia vào hợp
đồng tín dụng,…
Bốn là, pháp luật là phương tiện để nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, giữ gìn an ninh, an toàn cho xã hội và
cho các bên tham gia vào giao dịch bảo đảm. Nó có nghĩa là an toàn khỏi các mối
đe dọa về đói nghèo, tội phạm, sự đàn áp, phân biệt. Nó cũng có nghĩa là bảo vệ
khỏi sự đổ vỡ có hại và bất ngờ trong quá trinh thực hiện giao dịch bảo đảm trong
hợp đồng tín dụng. Pháp luật là phương tiện đầy hiệu lực trong việc giữ gìn an ninh
và an toàn cho con người, cho các tổ chức tín dụng. Nhờ đó, con người có điều kiện
phát triển mà không phải lo lắng, sợ hãi trước sự đe dọa từ bên trong cũng như bên
ngoài.
Năm là, pháp luật là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, buộc
những người có chức vụ, quyền hạn hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật. Bằng cách đó, pháp luật là phương tiện quan trọng hàng đầu trong việc
phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, bảo đảm cho thượng tầng kiến
trúc nhà nước giữ vai trò cho sự phát triển của giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng và cho sự phát triển của tổ chức tín dụng.
Hầu hết các nhà kinh tế đều tin tưởng rằng, ổn định kinh tế vĩ mô là một
trong những yêu cầu tiên quyết của tăng trưởng. Mặc dù có tồn tại một số quan
điểm cho rằng mối liên hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng là không thực
sự rõ nét, các nghiên cứu thống kê chỉ ra rằng một nền kinh tế chỉ duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao trong dài hạn khi đảm bảo được ổn định kinh tế vĩ mô1.
Thật vậy, khi kinh tế tăng trưởng và ổn định thì đời sống người dân mới được
nâng cao, làm gia tăng mọi nhu cầu trong đời sống xã hội trong đó có cả nhu cầu
tiêu dùng lẫn nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ổn định kinh tế vĩ mô
là một trong những tiêu chí quan trọng để đưa ra quyết định đầu tư vì điều đầu tiên
mà doanh nghiệp quan tâm khi muốn thâm nhập vào một thị trường mới là môi
trường kinh tế vĩ mô.
Để đo lường ổn định kinh tế vĩ mô, người ta thường đề cập đến các biến động
ngắn hạn của các biến số kinh tế vĩ mô như GDP, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh
toán, thâm hụt ngân sách. Theo các tiêu chí của Hiệp ước Maastricht, ổn định kinh
tế vĩ mô được đo lường bằng năm biến sau: Lạm phát thấp và ổn định; Lãi suất dài
17
hạn thấp; Nợ quốc gia/GDP thấp; Thâm hụt ngân sách thấp; Ổn định tiền tệ (đảm
bảo tỷ giá không biến động quá lớn).
Như vậy, để ổn định kinh tế vĩ mô cần phải thực hiện các giải pháp, trong đó
hai giải pháp phải do Ngân hàng Trung ương thực hiện: Kiềm chế và giữ lạm phát
ở mức thấp và ổn định; Bình ổn thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước với vai trò là cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối;
thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương, có nhiệm vụ xây dựng và thực
hiện chính sách tiền tệ. Bản chất của chính sách tiền tệ là tổng thể các biện pháp
chính sách của Ngân hàng Trung ương tác động làm thay đổi cung tiền và lãi suất,
qua đó mà tác động đến tăng trưởng, lạm phát và công ăn việc làm cao, do vậy,
chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định
tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
1.3.2 Ý nghĩa giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Trong những năm qua, công tác điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước đã bám sát tinh thần Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP ngày 24/2/2011 của
Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trên cơ sở các nhiệm vụ được xác định tại Nghị
quyết, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai mạnh mẽ công tác điều hành, đảm bảo các
chính sách, diễn biến tiền tệ phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước, quốc tế
và các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Kết quả, lạm phát được kiểm soát, hệ thống
các tổ chức tín dụng được cơ cấu lại và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế, khu
vực sản xuất từng bước khôi phục và tiếp cận nguồn vốn ngân hàng với lãi suất hợp
lý, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng cao, đáp ứng các nhu cầu về ngoại tệ trong
các giao dịch kinh tế.
Tiền tệ hay nói khác hơn là tài chính. Tài chính có ý nghĩa vô cũng quan trọng
đối với một quốc gia, càng quan trọng hơn đối với nước ta, khi đất nước đang trong
quá trình đổi mới, cải tiến và phát triển. Chúng ta có thể nhìn vào tài chính của quốc
gia mà đánh giá rằng quốc gia đó có phát triển hay không và một khi nền tài chính
lung lay, yếu ớt thì quốc gia ấy sẽ có khả năng bị suy tàn. Từ đó có thể thấy rằng,
giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng là một phần của nền tài chính quốc gia,
khi nhu cầu về tiền tệ của con người ngày càng cao. Mỗi ngày trôi đi, thì tỉ lệ tương
18