Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Pháp luật về hợp đồng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : ThS. Đào Thu Hà
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1511270214

: Lê Thị Như Huỳnh
Lớp: 15DLK07

TP. Hồ Chí Minh, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Ths. ĐÀO THU HÀ
Sinh viên thực hiện: LÊ THỊ NHƯ HUỲNH


MSSV: 1511270214
Lớp: 15DLK07

Tp. Hồ Chí Minh - 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo đang công tác và giảng dạy tại Khoa
Luật, Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt, giảng dạy kiến
thức cho em trong thời gian học tập tại trường, và em đặc biệt gửi lời cảm ơn đến
cô giáo Ths. Đào Thu Hà, người đã giúp em hoàn thành cũng như chỉnh sửa góp ý
để em hoàn thành bài khóa luận này.
Cuối cùng em xin chúc tất cả thầy cô dồi dào sức khỏe, thành công trên con
đường giảng dạy của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Lê Thị Như Huỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Lê Thị Như Huỳnh, MSSV: 1511270214
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn
đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khóa luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo quy định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên

(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Lê Thị Như Huỳnh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .................................................................................... 2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài .................................................................... 2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................. 4
6. Kết cấu của khóa luận .................................................................................................. 4
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ............................... 5
1.1 Một số vấn đề chung ................................................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại ........................................................................ 5
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng thương mại ....................................................................... 7
1.2 Căn cứ làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thương mại và các trường hợp hợp
đồng thương mại bị tuyên vô hiệu.................................................................................... 9
1.2.1 Đối tượng, phạm vi, chủ thể của hợp đồng thương mại........................................... 9
1.2.2 Các trường hợp hợp đồng thương mại bị tuyên vô hiệu ........................................ 12
1.3 Khái quát các loại hợp đồng thông dụng trong thương mại ................................... 16
1.3.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa ............................................................................... 16
1.3.2 Hợp đồng đại lý thương mại ................................................................................. 18
1.3.3 Hợp đồng cung ứng dịch vụ: ................................................................................ 20
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ........... 22
2.1 Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng thương mại và trách nhiệm pháp lý
khi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thương mại ........................................................ 22
2.1.1 Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng thương mại ...................................... 22
2.1.2 Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thương mại ................. 28

2.2 Quy định cụ thể về một số hợp đồng thông dụng trong lĩnh vực thương mại ........ 38
2.2.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa ............................................................................... 38
2.2.2 Hợp đồng đại lý thương mại ................................................................................. 41
2.2.3 Hợp đồng cung ứng dịch vụ ................................................................................. 44
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ ĐỀ XUẤT - GIẢI PHÁP.......................................................................... 46


3.1 Thực trạng pháp luật hợp đồng thương mại ở Việt Nam hiện nay ......................... 46
3.2 Đề xuất- giải pháp ..................................................................................................... 54
3.2.1 Về việc xây dựng, ban hành pháp luật về hợp đồng thương mại ........................... 54
3.2.2 Về việc thực hiện pháp luật về hợp đồng thương mại ............................................ 59
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 61


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật về hợp đồng Việt Nam chủ yếu do hai nguồn luật điều chỉnh là Bộ luật Dân
sự 2005, được thay thế bởi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 và Luật
Thương mại 2005, sửa đổi bổ sung 2017. Bên cạnh đó, chế định hợp đồng còn tồn tại
trong các quan hệ pháp lý khác được điều chỉnh theo những luật chuyên ngành như: Luật
sở hữu trí tuệ, luật kinh doanh bất động sản, luật kinh doanh bảo hiểm…và vì vậy vấn
đề luật chung, luật riêng được đặt ra, nó gây ra sự bất cập lớn trong pháp luật hợp đồng
ở Việt Nam, vì quy định của Bộ luật Dân sự với các luật chuyên ngành khác có nhiều
mâu thuẫn, chưa thống nhất với nhau. Việc qui định nhiều luật khác nhau dẫn đến tình
trạng có quy định về hợp đồng là thiếu tính thống nhất và có khả năng dẫn đến tình trạng
xung đột pháp luật. Việc phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại một
cách không rõ ràng đã gây khó khăn, lúng túng, không chuẩn xác cho các cơ quan thi
hành pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp trong quan hệ hợp đồng.
TS. Dương Anh Sơn và TS. Nguyễn Thành Đức cho rằng ngay từ mới ban hành, Luật

Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những bất cập, khiếm khuyết và vì vậy trong suốt thời
gian tồn tại, nó hầu như không được áp dụng với tư cách là một công cụ pháp lý điều
chỉnh các quan hệ trong hoạt động kinh doanh thương mại mà lý do chủ yếu là thiếu sự
thống nhất với các văn bản pháp luật liên quan, đặc biệt là Bộ luật Dân sự, Luật Doanh
nghiệp; nhiều quy định của luật còn chưa rõ ràng ví dụ như về hành vi thương mại, về
thương nhân; Luật Thương mại năm 1997 và các văn bản hướng dẫn thi hành là một hệ
thống văn bản rối rắm, hết sức phức tạp và khó áp dụng. Luật Thương mại 2005 được
thông qua và có hiệu lực với nhiều sửa đổi, bổ sung 1.
Vậy nó có đạt được hiệu quả áp dụng hay vẫn còn nhiều bất cập, hiện nay rất nhiều ý
kiến trái ngược nhau về vấn đề này.
Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá pháp luật về hợp đồng, tìm hiểu các điểm tương đồng,
khác biệt trong các qui định pháp luật về hợp đồng, đánh giá thực trạng áp dụng pháp
luật về hợp đồng hiện nay để nhằm làm rõ những điểm bất cập, hạn chế và kiến nghị

1

TS. Dương Anh Sơn, TS. Nguyễn Thành Đức (2007), ‘‘Nhân việc bàn về chất lượng của Luật Thương mại
2005: Nên thay đổi cách thức làm luật’’, Tạp chí Khoa học pháp lý (Số 3(40)), tr. 20-25.

1


những giải pháp hoàn thiện, khắc phục. Nên em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài ‘‘pháp
luật về hợp đồng thương mại’’.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá tổng quát thực trạng của Luật Thương mại hướng tới việc đồng bộ hóa lĩnh
vực luật tư, tạo ra được một hành lang pháp lý thích hợp.
- Tiến hành nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống các quy định pháp luật
hiện hành về hợp đồng trong các lĩnh vực thương mại. Từ đó thấy được những điểm bất
cập, hạn chế trong các qui định và những vướng mắc trong quá trình thực thi.

- Phân tích những nguyên nhân đó, đồng thời đề xuất những giải pháp cần thiết để nâng
cao hiệu lực thực tế của những qui định pháp luật về hợp đồng, góp phần hoàn thiện chế
định pháp luật về hợp đồng trong hệ thống pháp luật nước ta. Từ đó đưa ra một cách
nhìn khái quát về xu hướng phát triển của pháp luật về hợp đồng trong thời kỳ hiện nay
của Việt Nam.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các qui định pháp luật quan liên quan đến hợp đồng thương
mại từ đó tìm hiểu những điểm tương đồng và khác biệt dẫn đến tình trạng áp dụng pháp
luật về hợp đồng hiện nay, bàn về thực tiễn áp dụng Luật Thương mại hiện nay và giải
pháp hoàn thiện.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài nói về tổng quan pháp luật về hợp đồng thương mại và quan trọng là nghiên
cứu về vấn đề liên quan đến thực trạng áp dụng Luật Thương mại hiện nay, những thuận
lợi, bất lợi khi áp dụng, những điểm hạn chế của Luật Thương mại và đưa ra giải pháp
để hoàn thiện Luật Thương mại nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại nói
riêng cũng như giải pháp cho việc áp dụng Luật Thương mại hiện nay. Qua tìm hiểu thì
có một số đề tài nghiên cứu có liên quan đến đề tài nói trên như:
Nghiên cứu của TS. Trần Văn Biên với đề tài ‘‘hoàn thiện các quy định của Luật Thương
mại 2005 để đảm bảo sự thống nhất với Bộ luật Dân sự năm 2015’’. Theo TS. Trần Văn
2


Biên, Bộ luật Dân sự vốn được xem là ‘‘hiến pháp của luật tư’’, do vậy, khi Bộ luật Dân
sự mới ra đời, thì những văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực luật tư khác cũng
cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung. Luật Thương mại 2005 ban hành cùng thời điểm
với Bộ luật Dân sự 2005. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật,
khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại
năm 2005.
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Mạnh Thắng nói về ‘‘thực trạng pháp điển hóa thương
mại’’. Bài viết có mục đích đánh giá tổng quát thực trạng của Luật Thương mại hướng

tới việc đồng bộ hóa luật tư, xóa bỏ những bất công, mâu thuẫn, chồng chéo và tạo ra
được một hành lang pháp lý thật sự thích hợp cho việc phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu của Triệu Thị Huỳnh Hoa với đề tài ‘‘thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải
quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án’’. Đề tài bàn về thực trạng giải
quyết tranh chấp kinh doanh tại Tòa án và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng giải quyết như: Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh kịp thời luật và các văn bản quy
phạm pháp luật không còn phù hợp, sớm ban hành quy định và các hướng dẫn thực hiện
pháp luật để những người làm công tác pháp luật không bị lúng túng, vướng mắc làm
ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng giải quyết án…
Ngoài ra còn một số công trình khác như:
Vũ Quang, Vũ Văn Lâm, ‘‘Một số vấn đề cơ bản về hợp đồng thương mại đáp ứng các
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế’’.
TS. Dương Anh Sơn và TS. Nguyễn Thành Đức, ‘‘Nhân việc bàn về chất lượng của Luật
Thương mại 2005. Nên thay đổi cách thức làm luật’’ trong tạp chí Khoa học pháp lý
trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
TS. Phan Huy Hồng, ‘‘Một số vấn đề cơ bản về áp dụng pháp luật đối với hoạt động
thương mại’’, trong tạp chí khoa học pháp lý, trường đại học luật thành phố Hồ Chí
Minh.

3


PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, ‘‘Hoàn thiện pháp luật về thương mại và hàng hải trong điều
kiện Việt Nam hội nhập kinh tế’’.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để hoàn thành, đạt được mục đích nghiên cứu, có nhiều phương pháp khác nhau, em
dùng phương pháp:
+ Phương pháp thu thập tài liệu: Tham khảo tài liệu từ sách, báo, tạp chí các nghiên cứu,
phân tích, đánh giá của các chuyên gia về pháp luật hợp đồng dân sự, thương mại và

tham khảo nguồn tài liệu từ Internet.
+ Phương pháp phân tích tài liệu: Từ những nguồn tài liệu thu thập được, em tiến hành
nghiên cứu, phân tích tài liệu để tìm ra được đối tượng, những vấn đề liên quan đến đề
tài mà em nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng Luật Thương mại hiện nay và đưa
ra một số giải pháp về vấn đề này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo…nội dung chính của khóa
luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
- Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI.
- Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI.
- Chương 3 : THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ ĐỀ XUẤT - GIẢI PHÁP.

4


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1 Một số vấn đề chung
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại
Pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại hiện nay chưa đưa ra khái niệm
về hợp đồng thương mại mà chỉ đưa ra khái niệm về hoạt động thương mại,
‘‘hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác’’2. Từ khái niệm có thể thấy mục đích của hoạt động thương mại là các bên
khi thực hiện hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động thương mại là
khái niệm để chỉ các chuỗi hoạt động được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi.
Ngoài ra còn một thuật ngữ liên quan nữa đó là hành vi thương mại, hành vi thương mại
là hành vi của thương nhân trong đầu tư, sản xuất, trao đổi hàng hóa, cung ứng dịch vụ
nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân
với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan 3. Một hành vi được coi là hành
vi thương mại khi thỏa mãn các điều kiện sau: Hành vi do thương nhân thực hiện; hành

vi được thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động thương mại của thương nhân.
Mặc dù pháp luật thương mại của Việt Nam hiện nay chưa đưa ra một khái niệm
cụ thể về hợp đồng thương mại, tuy nhiên nói đến hợp đồng người ta nghĩ ngay đến sự
thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ
của các bên. Hợp đồng thương mại là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các
bên để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận bằng các điều khoản hay cam
kết trong hợp đồng thương mại. Hợp đồng thương mại là một trong các loại hành vi pháp
lý cơ bản và mang tính phổ biến trong giao dịch của đời sống xã hội, nhất là đối với
doanh nghiệp.
Từ gốc độ như vậy có thể hiểu ‘‘hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi
thương mại, là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải có

2

Khoản 1, Điều 3 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017

5


tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên
trong việc thực hiện các hoạt động của thương mại’’4.
Ngoài thuật ngữ hợp đồng thương mại còn có một số thuật ngữ khác có thể gây
ra việc nhầm lẫn với nhau như là luật kinh tế, luật thương mại, luật kinh doanh, hợp đồng
kinh tế…
‘‘Luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động
sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với cơ quan quản lý nhà nước.
Luật kinh doanh được hiểu là tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Luật thương mại được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành

và thừa nhận, điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện
hoạt động thương mại giữa các thương nhân với nhau và với các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền’’5.
Ở phương diện nào đó luật kinh tế, luật thương mại hay luật kinh doanh được sử dụng
như những khái niệm cùng loại, đều là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực kinh tế, thương mại hoặc kinh doanh tại quốc gia nào đó. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào cách thức và mức độ can thiệp của nhà nước vào hoạt động nói trên mà trong nội
dung của chúng cũng có những điểm khác nhau.
Vậy còn hợp đồng kinh tế là gì? Có gì khác với hợp đồng thương mại?
Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết
về việc thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy

4

TS. Nguyễn Quý Trọng (2017), Luật kinh tế chuyên khảo, NXB lao động, Hà Nội

6


định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
mình6.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng thương mại
Mặc dù ở khái niệm của hợp đồng thương mại đã nói trên nhận định rằng nó có
cùng bản chất pháp lý chung của một hợp đồng, cùng dựa trên sự tự nguyện và thể hiện
ý chí của các bên nhưng dù gì đi nữa nó là hợp đồng thương mại hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, có các hoạt động mang tính đặc thù của hoạt động thương mại như là mua
bán hàng hóa, đầu tư, cung ứng dịch vụ…nên sẽ có các điểm khác biệt so với các loại
hợp đồng khác, cụ thể là:
- Thứ nhất: về chủ thể thì hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể

là thương nhân. Theo Luật Thương mại thì thương nhân là các tổ chức kinh tế được
thành lập theo quy định của pháp luật và các cá nhân tiến hành hoạt động thương mại có
tính thường xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật.
Thương nhân có quyền hoạt động thương mại dưới các hình thức ngành nghề ở các địa
bàn mà pháp luật không cấm và quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân
được Nhà nước bảo hộ. Chủ thể hợp đồng thương mại được thiết lập ‘‘chủ yếu’’ giữa
các thương nhân chứ không phải chủ thể chỉ là thương nhân. Về chủ thể có hai trường
hợp, trường hợp thứ nhất là hợp đồng thương mại có thể cả hai bên có tư cách là thương
nhân như hợp đồng đại lý thương mại; trường hợp thứ hai là chỉ cần một bên có tư cách
thương nhân còn bên còn lại không phải là thương nhân ví dụ như hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa…mà bên có nhu cầu sử dụng dịch
vụ thì không nhất thiết phải là thương nhân.
- Thứ hai: về hình thức của hợp đồng, sau khi các bên đã thống nhất ý chí thì những điều
khoản mà các bên đã thỏa thuận phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất
định, tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng loại hợp đồng mà các bên lựa chọn một
hình thức nhất định. Có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể, tuy nhiên trong một số trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được thiết
lập bằng văn bản ví dụ như hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa…có lẽ quy định như vậy để nhằm đảm bảo, bảo vệ lợi ích của các bên, hạn chế

7


những rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra. ‘‘Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua
bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các
quy định đó’’7. Luật Thương mại 2005 cũng cho phép thay thế hình thức văn bản bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp
dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Hình thức này tạo sự
thuận tiện, dễ dàng, bắt kiệp với sự phát triển của đất nước khi xu thế phát triển mạnh

mẽ của công nghệ thông tin và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Các bên khi tham gia hợp đồng thương mại điện tử có thể đàm phán,
ký hợp đồng mà không cần phải trực tiếp gặp mặt nhau.
- Thứ ba: về đối tượng của hợp đồng, tùy thuộc vào từng loại hợp đồng mà hợp đồng
thương mại có những đối tượng khác nhau. Đối với hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
thương mại thì hàng hóa được hiểu là những sản phẩm lao động của con người, được
tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Hàng hóa thì có nhiều loại hàng
hóa như tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật
gắn liền với đất đai8. Như vậy hàng hóa là đối tượng trong hợp đồng thương mại có thể
là hàng hóa đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai. Đối với các loại
hợp đồng thương mại dịch vụ như hợp đồng dịch vụ pháp lý thì đối tượng của hợp đồng
là công việc mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất với nhau trong hợp đồng. Cho dù đối
tượng của hợp đồng thương mại là gì đi nữa, là hàng hóa hay công việc phải thực hiện
thì phải hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo hộ.
- Thứ tư: mục đích của hợp đồng, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, vì vậy các thương nhân tham gia ký kết hơp đồng thương mại cũng nhằm lợi
ích lợi nhuận. Nếu hợp đồng thương mại được ký kết nhằm mục đích lợi nhuận thì cả
hai bên hoặc ít nhất một bên phải có mục đích lợi nhuận thì mới lựa chọn áp dụng Luật
Thương mại. Tuy nhiên có ngoại lệ, ‘‘hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi giữa
thương nhân với chủ thể không phải là thương nhân thì nếu bên không có mục đích lợi
nhuận quyết định áp dụng Luật Thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng thì sẽ áp

7
8

Điều 24 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
Khoản 2, Điều 3 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017

8



dụng Luật Thương mại’’9. Vậy sinh lợi được hiểu như thế nào? Như thế nào là sinh lợi?
Sinh lợi không nhất thiết là phát sinh lợi nhuận về vật chất, tài sản mà còn có những lợi
ích phát sinh mà không liên quan đến vật chất, tài sản như là vấn đề tạo ra uy tín, làm
nổi thương hiệu, lấy được niềm tin của khách hàng, kéo sự chú ý của khách hàng, đối
tác từ đó phát sinh ra một lợi nhuận khác, lợi ích khác cho thương nhân.
Việc xác định mục đích của hợp đồng để xác định văn bản pháp luật áp dụng điều chỉnh
cho phù hợp, mục đích khác nhau sẽ áp dụng luật điều chỉnh khác nhau như là Bộ luật
Dân sự, Luật Thương mại hay Luật doanh nghiệp, đầu tư…
- Thứ năm: về nội dung của hợp đồng, nội dung của hợp đồng thể hiện sự thỏa thuận,
thống nhất hay cam kết về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng.
Các bên thỏa thuận càng chi tiết thì việc thực hiện hợp đồng càng thuận lợi, phòng ngừa
được những tranh chấp có thể phát sinh do các bên không thỏa thuận đầy đủ và thể hiện
vào trong hợp đồng. Luật về hợp đồng thương mại không quy định cụ thể các loại điều
khoản trong hợp đồng, có thể bởi vì theo quy định của Luật Thương mại thì hoạt động
thương mại đặc thù mà được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó,
nếu không quy định trong luật khác và Luật Thương mại thì áp dụng quy định của Bộ
luật Dân sự, vì vậy do có liên quan và có thể áp dụng các quy định của luật chung và các
luật chuyên ngành khác nên không quy định cụ thể các loại điều khoản trong hợp đồng.
Tuy nhiên, thông thường các điều khoản trong hợp đồng thường gồm các điều khoản cơ
bản như: điều khoản về đối tượng, điều khoản về giá cả, chất lượng, thời hạn, địa điểm,
phương thức thanh toán…
1.2 Căn cứ làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thương mại và các trường hợp hợp
đồng thương mại bị tuyên vô hiệu

1.2.1 Đối tượng, phạm vi, chủ thể của hợp đồng thương mại
* Đối tượng của hợp đồng thương mại
‘‘Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục


9

Khoản 3, Điều 1 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017

9


đích sinh lợi khác’’10. Vì vậy ngoài hàng hóa thì đối tượng của hợp đồng thương mại
còn có dịch vụ hay công việc mà các bên thực hiện.
Đối với đối tượng là hàng hóa luật quy định: hàng hóa bao gồm: (i) Tất cả các loại động
sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; (ii) Những vật gắn liền với đất đai 11.
Hàng hóa trong hợp đồng thương mại có thể là hàng hóa đang tồn tại hoặc là hàng hóa
sẽ hình thành trong tương lai, có thể là động sản hoặc bất động sản. Hàng hóa phải là
hàng hóa được phép giao dịch, không bị cấm, nếu giao kết với đối tượng của hợp đồng
là đối tượng không được phép giao dịch thì hợp đồng sẽ vô hiệu.
Còn đối với đối tượng của hợp đồng là dịch vụ thì liên quan đến hoạt động cung ứng
dịch vụ: ‘‘cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là
bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh
toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên
cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận’’12.
Trong hoạt động thương mại các chủ thể kinh doanh liên quan đến đối tượng của hợp
đồng là dịch vụ họ có thể hoạt động, kinh doanh cung ứng dịch vụ nhất định, họ có thể
dựa vào cung cầu trên thị trường, đáp ứng nhu cầu trên thị trường bằng việc hoạt động
cung ứng dịch vụ mà trên thị trường cần đến.
* Phạm vi điều chỉnh
Như đã giới thiệu ở phần trên về hoạt động thương mại, theo đó hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Vì vậy
luật sẽ điều chỉnh về các hoạt động của thương nhân như hoạt động đầu tư, mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ…nhằm mục đích sinh lợi.

Đồng thời theo Điều 1 Luật Thương mại 2005 phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại
là các hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Còn hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
10

Khoản 1, Điều 3 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
Khoản 2, Điểu 3, Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
12
Khoản 9, Điều 3 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
11

10


chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn áp dụng Luật này hoặc
luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định áp dụng Luật này. Hoặc trường hợp bên thực hiện hoạt động thương mại
không nhằm mục đích sinh lợi thực hiện giao dịch với một thương nhân mà bên thực
hiện không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.
* Chủ thể của hợp đồng thương mại
Chủ thể của hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể là
thương nhân. ‘‘Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh’’13.
Như vậy thương nhận có thể là cá nhân, có thể là pháp nhân. Tùy theo từng loại chủ thể
mà pháp luật có những quy định như là đối với thương nhân là cá nhân, trước tiên dựa
theo luật chung là Bộ luật Dân sự thì được hiểu là một con người cụ thể có đầy đủ năng
lực pháp luật và năng lực hành vi và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động thương mại
của mình. Tuy nhiên, đây là hoạt động thương mại sẽ có những đặc trưng riêng biệt nên
thương nhân là cá nhân hay pháp nhân phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của
thương nhân được quy định trong luật chuyên ngành như: hoạt động thương mại một

cách độc lập, hoạt động thường xuyên và phải có đăng ký kinh doanh.
Về quyền và nghĩa vụ của thương nhân: ‘‘2. Thương nhân có quyền hoạt động thương
mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức
mà luật không cấm; 3. Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân được
Nhà nước bảo hộ’’14. Như vậy theo như quy định thì thương nhân có quyền tự do kinh
doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm, tại các địa điểm, hình thức và phương
thức hoạt động kinh doanh thương mại của mình mà pháp luật không cấm.
Trách nhiệm tài sản của thương nhân gồm có trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô
hạn:
- Trách nhiệm hữu hạn: loại hình doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn như Công
ty cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn, thành viên góp vốn của công ty hợp
danh…trách nhiệm của họ được giới hạn trong phạm vi vốn đầu tư vào hoạt động thương
13
14

Khoản 1, Điều 6 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
Điều 6 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017

11


mại của mình. Thương nhân là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân sẽ có chế độ trách
nhiệm hữu hạn, họ chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ trong vốn góp của mình
chứ không lấy tài sản khác của mình để trả nợ.
- Trách nhiệm vô hạn: thương nhân sẽ chịu trách nhiệm vô hạn như doanh nghiệp tư
nhân, thương nhân là cá nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Đây là trách
nhiệm mà tài sản, vốn đầu tư để hoạt động thương mại không được giới hạn, họ phải
chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản mà họ có để trả nợ cho khoản nợ của mình.
1.2.2 Các trường hợp hợp đồng thương mại bị tuyên vô hiệu
Các trường hợp hợp đồng thương mại bị tuyên vô hiệu sẽ được áp dụng theo quy định

của Bộ luật Dân sự, theo như quy định tại khoản 1, Điều 407 Bộ luật Dân sự 2015 thì có
trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu sau đây: hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm
của luật, trái đạo đức xã hội; hợp đồng vô hiệu do giả tạo; hợp đồng vô hiệu do người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; hợp đồng
vô hiệu do bị nhầm lẫn; hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa, lừa dối, cưỡng ép; hợp đồng vô
hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình; vô hiệu do không
tuân thủ về hình thức và hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.
Tuy nhiên hoạt động thương mại khác so với hoạt động dân sự, nên trong hợp đồng
thương mại sẽ có trường hợp hợp đồng thương mại vô hiệu chủ yếu sau đây:
* Trường hợp vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội:
Có lẽ đây là trường hợp vô hiệu phổ biến, thường thấy nhất trong hoạt động
thương mại vì đối tượng của hợp đồng thương mại là hàng hóa hay một công việc vì vậy
sẽ thường thấy hợp đồng thương mại vô hiệu do các bên giao dịch với nhau vi phạm
điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội, chẳng hạn như giao dịch với nhau sản xuất và cung
ứng hàng giả hàng kém chất lượng để bán ra thị trường.
Nội dung của hợp đồng là toàn bộ các thỏa thuận, giao kết của các bên khi tham gia ký
kết hợp đồng được thể hiện dưới dạng điều khoản. Theo như quy định tại Điều 123 Bộ
luật Dân sự 2015 thì hợp đồng thương mại mà có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm
của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì sẽ bị vô hiệu ngay từ thời điểm các bên ký kết hợp
12


đồng. Trong đó, điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử
chung giữa người với người trong trong đời sống xã hội và được xã hội thừa nhận, tôn
trọng.
Quy định này là hiển nhiên vì không một quốc gia nào cho phép việc giao kết một hợp
đồng trái đạo đức, trái lẽ thường và đi ngược với những quy định của pháp luật làm ảnh
hưởng đến quyền lợi, sức khỏe của con người. Chẳng hạn như công ty A ký kết với công

ty B, công ty B hàng tháng giao cho công ty A 200 kg chả lụa có sử dụng chất cấm quá
liều lượng quy định để sản phẩm không bị hư, dai hơn, ngon hơn, như vậy hợp đồng này
chắc chắn vô hiệu vì vi phạm đạo đức xã hội, không quan tâm sức khỏe người tiêu dùng
và vi phạm quy định pháp luật về an toàn thực phẩm.
* Trường hợp vi phạm điều kiện về hình thức:
Vị phạm điều kiện về hình thức, không tuân thủ quy định về hình thức dẫn đến
hợp đồng vô hiệu là vi phạm các thương nhân thường hay mắt phải.
Như đã nói ở phần đặc điểm của hợp đồng thương mại, hợp đồng thương mại được xác
lập theo hình thức mà hai bên thỏa thuận, có thể bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định luật quy định hợp đồng phải
được thiết lập bằng văn bản như hợp đồng đại lý thương mại ‘‘hợp đồng đại lý phải
được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương’’15,
hợp đồng quảng cáo, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa…
Tuy nhiên không phải trường hợp nào vi phạm quy định điều kiện về hình thức
cũng đều dẫn đến vô hiệu. Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015 thì giao dịch
dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp
sau đây:
‘‘1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản
không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần

15

Điều 168 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017

13


ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết
định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về

công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa
vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công
nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện
việc công chứng, chứng thực.’’
Việc quy định như vậy là rất hợp lý bởi vì có thể một bên đã thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng ký kết nhưng bên kia cố tình không thực hiện và lấy lý
do là hợp đồng vô hiệu về hình thức để được hưởng lợi khi bên kia đã thực hiện gần hết
nghĩa vụ của mình mà mình thì không cần phải thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy để tránh
trường hợp giao kết không thiện chí, lợi dụng việc vi phạm điều kiện về hình thức dẫn
đến hợp đồng vô hiệu để trục lợi, bội ước làm thiệt hại cho bên còn lại, ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh nên luật đã quy định nếu như một bên hoặc các bên đã
thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một hoặc các
bên Tòa án sẽ công nhận hiệu lực của hợp đồng.
* Trường hợp hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được:
Theo như quy định tại Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015 thì ngay từ khi gao kết, hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu. Có thể vì lý
do khách quan, do điều kiện bất khả kháng mà đối tượng không còn, đối tượng không
thể thực hiện được nên hợp đồng sẽ bị vô hiệu16.
Trường hợp khi giao kết hợp đồng, một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối
tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết, mà bên kia
vẫn giao kết hợp đồng bình thường thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Trừ trường
hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thực hiện được mà
vẫn thực hiện giao kết hợp đồng, thì bên còn lại không phải bồi thường thiệt hại.

16

Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015

14



Đồng thời theo quy định tại khoản 3 điều này liên quan đến vấn đề hợp đồng bị vô hiệu
một phần khi hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được
nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với trường hợp nêu trên.
* Vấn đề vô hiệu từng phần và vô hiệu toàn bộ trong hợp đồng thương mại:
Trường hợp vô hiệu toàn bộ khi : Giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội. Trong trường hợp này toàn bộ nội dung của hợp đồng bị vô hiệu. Ví
dụ như A và B giao kết mua bán động vật hoang dã đang được bảo tồn có tên trong sách
đỏ như mua bán sừng tê giác, hợp đồng mua bán này bị vô hiệu toàn bộ do vi phạm điều
cấm của pháp luật.
Trường hợp vô hiệu từng phần khi : ‘‘Giao dịch vô hiệu từng phần khi một phần của
giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao
dịch’’17. Có nghĩa là chỉ có một phần của hợp đồng bị vô hiệu nhưng những phần còn
lại thì không liên quan, không ảnh hưởng đến phần bị vô hiệu đó thì phần còn lại này
vẫn có hiệu lực. Ví dụ A và B ký hợp đồng theo đó A giao cho B 2 tấn bắp chia làm 2
đợt giao, đợt 1 giao 1 tấn, đợt 2 cách đợt 1 hai tháng giao tiếp 1 tấn. A tiến hành giao
hàng trong đợt 1 bằng ghe nhưng khi đi ngang cầu do có phương tiện quá trọng tải cho
phép đi lên cầu nên cầu sập trúng ghe chở hàng bên dưới làm chiềm ghe và hàng hóa
trên ghe, như vậy hợp đồng không thể thực hiện được và bị vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được, nhưng chỉ vô hiệu 1 phần, A vẫn phải giao hàng cho B ở đợt
2 và phần hợp đồng này không bị vô hiệu.
Thời hạn yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu từng phần: là 2 năm kể từ ngày hợp đồng
được xác lập, với mục đích để bảo vệ lợi ích tối đa của các chủ thể tham gia trong hợp
đồng. Khác với hợp đồng dân sự vô hiệu toàn phần là hợp đồng sẽ mặc nhiên bị vô hiệu
khi hợp đồng được xác lập, hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần chỉ vô hiệu khi có đơn
yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan và bị tòa án tuyên bố vô hiệu.
Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì:

17


Điều 130 Bô luật Dân sự 2015

15


Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng
tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định
của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường 18.
1.3 Khái quát các loại hợp đồng thông dụng trong thương mại
Trong hoạt động thương mại có các loại hợp đồng như hợp đồng mua bán, hợp
đồng ủy thác, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng đại diện cho
thương nhân, hợp đồng mua bán qua sở giao dịch hàng hóa…sau đây em xin nói về 3
loại hợp đồng phổ biến trong hoạt động thương mại đó là:
1.3.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa
* Khái niệm:
Như đã nói ở phần khái niệm hợp đồng thương mại thì Luật Thương mại không
đưa ra khái niệm về hợp đồng thương mại thì tất nhiên một loại hợp đồng trong thương
mại đó là hợp đồng mua bán hàng hóa cũng không có khái niệm, các văn bản pháp luật
hiện hành ở Việt Nam hiện nay không định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa. Mặc
dù vậy nếu Luật Thương mại không có thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự, chúng
ta có thể dựa vào khái niệm chung của hợp đồng và hợp đồng mua bán tài sản quy định
tại Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015 hay khái niệm mua bán hàng hóa trong Luật Thương
mại để tự định nghĩa:
‘‘Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận’’.
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua

bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp

18

Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015

16


đồng mua bán tài sản là đối tượng hàng hóa và mục đích sinh lợi. Vì hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nên pháp luật quy định về hợp đồng thương
mại có những quy định khác với hợp đồng dân sự.
* Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa:
- Thứ nhất: về chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ
yếu là thương nhân. Chủ yếu là thương nhân chứ không phải phải là thương nhân, có thể
một bên chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân, bên còn lại ngoài chủ
thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành
chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ
yếu là thương nhân là điểm khác biệt với chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản, chủ thể
của hợp đồng mua bán tài sản là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hộ gia đình,
tổ hợp tác, pháp nhân thương mại, pháp nhân phi thương mại. Có sự khác biệt này vì
hoạt động thương mại là hoạt động mang tính chất đặc thù của nó, nó liên quan đến vốn,
tư cách pháp lý để thực hiện hoạt động thương mại của mình trên thị trường vì vậy chủ
thể của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân hoặt ít nhất có một bên là thương
nhân.
- Thứ hai: về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thiết lập theo cách thức
mà hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán hàng hóa giữa các bên. Hợp đồng mua
bán có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể
của các bên giao kết. Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên
phải thiết lập hợp đồng mua bán bằng hình thức văn bản, ‘‘(i) hợp đồng mua bán hàng

hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác định bằng hành vi cụ thể.
(ii) Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập
thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó’’19.
- Thứ ba: về đối tượng, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Hiểu theo
nghĩa thông thường, hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm
mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào tính chất pháp lý, hàng hóa được

19

Điều 24 Luật Thương mại 2005, sủa đổi 2017

17


chia thành nhiều loại khác nhau như bất động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô
hình hoặc các quyền về tài sản…
- Thứ tư: về nội dung, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là những thỏa thuận
của các bên chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa để hình thành các quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu cho bên mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả
tiền cho bên bán. Nhưng để hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện thì trước hết
nội dung của hợp đồng không được vi phạm quy định cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội.
1.3.2 Hợp đồng đại lý thương mại
* Khái niệm:
Cũng tương tự như hợp đồng mua bán hàng hóa Luật Thương mại cũng không
đưa ra khái niệm hợp đồng đại lý thương mại mà chỉ đưa ra khái niệm đại lý thương mại,
chúng ta cũng có thể dựa vào khái niệm chung của hợp đồng và khái niệm đại lý thương
mại để đưa ra khái niệm hợp đồng đại lý thương mại. ‘‘Đại lý thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh

chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao
đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao’’20. Từ đó có thể đưa ra khái niệm hợp đồng đại
lý thương mại như sau: ‘‘Hợp đồng đại lý thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên,
trong đó một bên (bên đại lý) nhân danh chính mình để thực hiện việc mua bán hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ cho bên kia (bên giao đại lý) để hưởng thù lao’’ 21.
* Đặc điểm của hợp đồng đại lý thương mại:
- Thứ nhất: ‘‘Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao
tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại
lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận
tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ’’22. Như

20

Điều 166 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
TS. Nguyễn Thị Yến (2017), Luật kinh tế chuyên khảo, NXB lao động, Hà Nội
22
Điều 167 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
21

18


vậy khác với hợp đồng mua bán hàng hóa có thể một bên chủ thể là thương nhân bên
còn lại không phải là thương nhân, đối với hợp đồng đại lý thương mại thì bên đại lý
thương mại và bên giao đại lý thương mại đều phải là thương nhân.
- Thứ hai: bên đại lý dùng danh nghĩa của chính mình để thực hiện việc mua bán hàng
hóa hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng. Khi tham gia giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ với khách hàng thì bên
đại lý sẽ nhân danh chính mình chứ không nhân danh của bên giao đại lý. Hợp đồng mua
bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ được bên đại lý ký kết với khách hàng

mang lại quyền và nghĩa vụ pháp lý cho bên đại lý.
- Thứ ba: bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền giao cho bên đại lý,
‘‘bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền giao cho bên đại lý’’23. Như
vậy quyền sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền giao cho đại lý vẫn thuộc về bên giao đại
lý, trong quan hệ đại lý thương mại, bên đại lý không phải bên mua hàng của bên giao
đại lý mà chỉ là người nhận hàng để bán lại cho khách hàng khác, khi hàng hóa được
bán đi thì quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ bên giao đại lý cho khách hàng hay
bên thứ ba, ví dụ công ty A chuyên sản xuất giỏ đan từ lục bình, công ty A và ông X có
ký với nhau một hợp đồng đại lý, theo đó ông X sẽ trở thành đại lý phân phối, bán hàng
cho công ty A. Như vậy ông X trở thành người nhận hàng để bán lại cho khách hàng,
quyền sở hữu hàng hóa vẫn thuộc về công ty A.
Có thể thấy hợp đồng đại lý thương mại khác với hợp đồng mua bán hàng hóa, vì hợp
đồng mua bán hàng hóa có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ người bán sang cho
người mua đồng thời kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa thì rủi ro đối với
hàng hóa đó cũng được chuyển giao từ người bán sang người mua. Chẳng hạn như A và
B ký hợp đồng A sẽ sản xuất và bán cho B 500 cái bát làm bằng sứ, như vậy khi A giao
500 cái bát sứ cho B thì quyền sở hữu thuộc về B và kể từ thời điểm này nếu 500 cái bát
này có xảy ra hư hỏng gì thì B sẽ tự chịu.
- Thứ tư: Về hình thức, ‘‘hình thức của hợp đồng đại lý thương mại phải được lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương’’ 24. Như vậy có nghĩa
23
24

Điều 170 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017
Điều 168 Luật Thương mại 2005, sửa đổi 2017

19



×