Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập tốt nghiệp là một kỳ thực tập bắt buộc với sinh viên khoa Luật nói
chung và lớp Luật Kinh doanh nói riêng với mục đích được tiếp cận với thực tế từ
đó có thể ứng dụng những kiến thức và kĩ năng mà sinh viên đã được đào tạo ở
trường vào việc phân tích thực tế vấn đề pháp lý trong các doanh nghiệp cũng như
cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, sinh viên còn có cơ hội rèn luyện kĩ năng giao tiếp
xã hội, quan hệ với cơ sở thực tập để thu thập dữ liệu phục vụ cho báo cáo chuyên
đề thực tập của mình.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, buộc các
doanh nghiệp luôn phải nỗ lực không ngừng để tồn tại và đứng vững. Chính vì vậy,
các Công ty cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cho mình để tồn tại
và phát triển. Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vân Hậu luôn sáng tạo và đổi
mới trong cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, khắc phục tồn tại đang có để phát triển hơn
nữa. Sau 10 năm hoạt động, Công ty đã xây dựng được thương hiệu và tạo uy tín tốt
trên thị trường.
Hoạt động mua bán hàng hóa đã trở thành lĩnh vực kinh doanh chủ đạo và
đem lại nguồn doanh thu lớn cho Công ty. Để hoạt động mua bán hàng hóa của
Công ty đi vào chiều sâu thì đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm hiểu, tiếp cận và nhận
thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng pháp luật, nhằm hạn chế tổn hại
kinh tế không đáng có. Vấn đề pháp lý và thực tiễn trong việc thực hiện Hợp đồng
thương mại mua bán hàng hóa là một trong những nội dung quan trọng của hoạt
động thương mại. Nghiên cứu vấn đề này qua lý thuyết và thực tiễn giúp chúng ta
hiểu hơn về hoạt động thương mại mua bán hàng hóa hiện nay.
Sau thời gian thực tập ở Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vân Hậu,
thời gian này em đã học hỏi thêm được rất nhiều bài học có ích cho mình sau này.
Bên cạnh đó nhờ có sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thu Ba với sự giúp đỡ Ban
lãnh đạo và nhân viên của Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vân Hậu tận
tình cung cấp số liệu cũng như giải đáp giúp em vướng mắc trong kì thực tập vừa
qua giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp:” Quy định pháp lý về hợp
đồng thương mại mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty trách nhiệm
hữu hạn Thương mại và Dịch vụ Vân Hậu”.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em gồm bốn chương:
Chương I: Khái quát về hợp đồng Thương mại mua bán hàng hóa và
pháp luật điều chỉnh.
Chương II: Chế độ pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa và vấn đề giải quyết tranh chấp.
Chương III: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vân Hậu.
Chương IV: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc
giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Do thời gian và năng lực có hạn nên chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em
khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến
của thầy cô để bài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI MUA BÁN
HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
I. Khái niệm, đặc điểm Hợp đồng Thương mại mua bán hàng hóa
1. Khái niệm hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường như chúng ta đã biết là
một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt
với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung- cầu. Trong nền kinh tế thị trường
biểu hiện là quan hệ hàng hoá: mọi hoạt động đều liên quan đến quan hệ hàng hoá
hay ít nhất cũng phải sử dụng quan hệ hàng hoá như là mắt xích trung gian. Thành
tựu của hơn những năm chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế đã có tác dụng làm cho chúng
ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Một trong những đặc điểm cơ bản của nền
kinh tế thị trường là tự do trao đổi các sản phẩm hàng hóa giữa người mua và người
bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán với giá cao, người mua bao giờ cũng muốn
mua với giá thấp, do đó cần có sự thống nhất ý chí, có sự thỏa thuận giữa người bán
và người mua thể hiện qua hợp đồng.
Theo luật Thương mại Việt Nam năm 1997 thì:”Mua bán hàng hóa là một
hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho người mua và nhận tiền, người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người
bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên”. Đến năm 2005, luật Thương mại
1994 được sửa đổi bổ sung một số điều luật. Tuy nhiên điều luật về mua bán hàng
hóa không có gì khác nhiều :”Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó
bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và
nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận”.
Hợp đồng được hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên
bình đẳng với nhau về một vấn đề nhất định trong xã hội làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên đó. Bộ Luật Dân sự năm 2005
đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự một cách khái quát trong điều 388 như sau:
“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Để được coi là sự thỏa thuận thì hợp đồng phải thể
hiện được sự tự do bày tỏ ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc
tự do hợp đồng cho phép các cá nhân, tổ chức được tự do quyết định việc giao kết
hợp đồng. Quan hệ hợp đồng này phải diễn ra trong những mối quan hệ xã hội nhất
định và xuất phát từ lợi ích của mỗi bên. Việc giao kết hợp đồng làm phát sinh, thay
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Hợp đồng quyền và nghĩa vụ giữa các bên nhằm làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý. Tức là, thông qua hợp đồng, các bên xác lập được nghĩa vụ của mình trong
việc thực hiện hợp đồng. Hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp lý đối với những
nghĩa vụ không thể thực hiện được. Trong hợp đồng có tính chất tương ứng giữa
quyền và nghĩa vụ của các bên, đây là đặc trưng cơ bản của nghĩa vụ dân sự. Quyền
lợi của bên này chỉ đạt được khi bên kia thực hiện các hành vi mang tính nghĩa vụ
đã được hai bên xác nhận trong hợp đồng hoặc pháp luật quy định trong nội dung
của quan hệ nghĩa vụ ấy. Mục đích của hợp đồng là nhằm dung hòa và thỏa mãn
các lợi ích khác nhau của các bên tham gia. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng gọi
là chủ thể của hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc
các chủ thể khác. Căn cứ vào đối tượng có thể coi hợp đồng mua bán hàng hoá là
một hoạt động thương mại. Theo điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định:
”Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao tài sản và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho
bên bán”. Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng được giao kết giữa các thương
nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên khác không phải là thương nhân
trong việc mua bán tất cả các động sản, kể cả động sản được hình thành tương lai và
những vật gắn liền với đất đai.
Cần phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa với các hợp đồng khác, ví dụ như
thuê mua tài sản, dịch vụ gắn liền với hàng hóa, gia công hàng hóa… Mua bán hàng
hóa khác với quan hệ thuê mua tài sản. Khi thuê mua tài sản, quyền sử dụng và
chiếm hữu được chuyển cho người thuê nhưng quyền sở hữu lại không được người
thuê chuyển giao cho người đi thuê. Mua bán hàng hóa khác với các dịch vụ giao
nhận hàng hóa, vì người giao nhận hàng hóa chỉ thực hiện chức năng trung gian.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay là hợp đồng mua bán hàng hóa có
yếu tố quốc tế hay tính quốc tế. Khoa học pháp lý Việt Nam chưa đưa ra một khái
niệm rõ ràng, tương đối chính xác cho hợp đồng này mặc dù chúng cũng được sử
dụng khá nhiều trong thực tiễn. Điều này cũng có thể là do Việt Nam chúng ta mới
tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế và trong thực tiễn chưa có vụ tranh chấp
nào liên quan đến việc xác định luật áp dụng căn cứ vào tính quốc tế của hợp đồng.
Các văn bản pháp luật của Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế ” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài”. Dưới góc độ pháp lý hai thuật ngữ “Hợp đồng mua bán
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hàng hóa quốc tế ” và “Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”
có cùng một bản chất, đó là có sự tham gia của thương nhân nước ngoài hay nói
cách khác hợp đồng có yếu tố quốc tế. Xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán
hàng hóa có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn hết sức quan trọng là xác định được hợp
đồng mua bán hàng hóa đó là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay không. Việc
xác định tính quốc tế gắn liền với việc xác định luật điều chỉnh quan hệ của các bên
trong hợp đồng. Nếu hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (hợp
đồng nội địa) thì quyền và nghĩa vụ của các bên xuất phát từ hợp đồng đó sẽ được
pháp luật trong nước điều chỉnh, ví dụ, pháp luật Việt Nam. Nếu là hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế thì nó sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn: pháp
luật của các quốc gia khác nhau, các điều ước quốc tế liên quan và trong nhiều
trường hợp cả tập quán thương mại quốc tế, và trong trường hợp không có sự lựa
chọn của các bên thì cần phải chọn luật của quốc gia nào theo các quy tắc của tư
pháp quốc tế. Có ba cách xác định tính quốc tế của một hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Cách thứ nhất, xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cách thứ hai là xác định theo Công Ước
Viên 1980. Cách thứu ba là xác định dựa trên dấu hiệu lãnh thổ. Xác định tính quốc
tế của hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại năm 2005 thì tính quốc tế
được xác định dựa trên dấu hiệu quốc tịch của thương nhân. Hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết
giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài.
Chủ thể bên nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là thương nhân
và tư cách pháp lý của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương
nhân đó mang quốc tịch. Rõ ràng, quy định này của Luật thương mại Việt Nam xác
định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu quốc
tịch của thương nhân.
2. Đặc điểm, đối tượng hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên
mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo
thỏa thuận
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Hàng hóa theo nghĩa
rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích
trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu mang tính xã hội. Nhu cầu của con người
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phong phú và biến thiên liên tục vì vậy hàng hóa cũng luôn phát triển phong phú và
đa dạng. Dựa vào đặc trưng từng loại mà hàng hóa được phân thành bất động sản
(bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản
gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai) và
động sản (là những tài sản không phải là bất động sản) hay phân thành tài sản hữu
hình và tài sản vô hình(quyền tài sản). Hàng hóa có thể là vật, là sản phẩm lao động
của con người, là các quyền tài sản mang tính vô hình.
Luật Thương mại năm 2005 quy định, hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai.
b) Những vật gắn liền với đất đai.
Khái niệm về hàng hóa quy định trong luật Thương mại năm 2005 đã được
mở rộng so với quy định trong Luật Thương mại năm 1997. Khái niệm hàng hóa đã
bao gồm hầu hết các đối tượng thực tế được mua bán trên thị trường.
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là vật thì vật
phải được xác định rõ.Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là quyền
tài sản thì phải có giấy tờ hoặc các bằng chứng khác chứng minh quyền đó thuộc sở
hữu của bên bán.
Không phải hàng hóa nào cũng được tự do kinh doanh, mua bán mà pháp
luật cũng đã quy định danh mục hàng hóa cấm kinh doanh hay khi kinh doanh phải
có điều kiện
Hàng hóa cấm kinh doanh: Những loại hàng hoá, dịch vụ mà trong quá trình
lưu thông hoặc sử dụng có thể gây nguy hại nghiêm trọng tới an ninh, quốc phòng,
chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hoá dân tộc, môi trường và sức khoẻ
nhân dân thì không được kinh doanh. Theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết Luật Thương mại do Chính phủ vừa ban hành, có 23 hàng hóa dịch vụ nằm
trong danh mục cấm, hạn chế và kinh doanh có điều kiện. Các mặt hàng nằm trong
danh mục này gồm vũ khí dân dụng, trang thiết bị kỹ thuật khí tài, phương tiện
chuyên dùng quân sự, chất ma túy, hóa chất tại bảng 1 của Công ước quốc tế, các
sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan, các loại pháo, đồ chơi nguy
hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khỏe của trẻ em hoặc tới an
ninh, trật tự, sự an toàn xã hội. Ngoài ra, các sản phẩm khác như trò chơi điện tử,
khoáng sản đặc biệt độc hại, phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường, dịch vụ
kinh doanh mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, hoạt động môi giới kết hôn có yếu tố
nước ngoài nhằm mục đích kiếm lời.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cũng theo Nghị định này có 8 loại hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh và
84 loại hàng hóa dịch vụ kinh doanh có điều kiện. Trong đó, 23 loại hàng hóa khi
kinh doanh phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và 61 loại hàng hóa,
dịch vụ có điều kiện không cần cấp giấy chứng nhận.
Hàng hóa dịch vụ khi kinh doanh phải có điều kiện (đáp ứng điều kiện về
chủ thể, cơ sở vật chất, kĩ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của người kinh doanh).
Những hàng hoá và dịch vụ mà trong quá trình lưu thông hoặc sử dụng có thể gây
hại đến sức khoẻ con người, môi trường, an ninh trật tự, an toàn xã hội; hoặc những
hàng hoá, dịch vụ kinh doanh đòi hỏi nhất thiết phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật và
người kinh doanh phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, thì xếp vào
loại kinh doanh có điều kiện.
Đặc trưng pháp lý của hoạt động mua bán hàng hóa : Chuyển dịch quyền sở
hữu hàng hóa có đền bù.
3. Phân loại hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
Hoạt động mua bán hàng hóa được phân làm 3 loại:
- Mua bán hàng hóa trong nước
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thi đương nhiên sẽ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật Thương mại 2005 và các luật
chuyên ngành khác.
- Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Hợp đồng mua bán qua sở giao dịch hàng hoá lần đầu tiên được quy định
trong luật Thương mại năm 2005 (Điều 64). Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng
kỳ hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng
hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng. Hợp đồng về quyền chọn mua
hoặc quyền chọn bán là thoả thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua
hoặc được bán một hàng hoá xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết)
và phải trả một khoản tiền nhất định để được mua quyền này (gọi là giá giao kết) và
phải trả một khoản tiền trước (gọi là giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định
để được mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn
thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hoặc bán hàng đó.
- Mua bán hàng hóa quốc tế: Theo khoản 1 Điều 27 Luật Thương mại năm
2005: “mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Luật Thương
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mại năm 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định khái niệm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế, bao
gồm: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu.
Có thể coi quy định này tương đương với quy định của Công ước viên năm 1980
trong việc xác định tính quốc tế của hợp đồng, theo đó sự dịch chuyển hàng hóa qua
biên giới qua khu vực hải quan riêng, hay dấu hiệu lãnh thổ của các bên là căn cứ để
xác định.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả thuận
luật áp dụng, có thể là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể
là luật của một nước thứ ba.
4. Hình thức của hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
Hình thức của hợp đồng là phương tiện ghi nhận nội dung mà các chủ thể
thỏa thuận và thống nhất với nhau. Ý nghĩa của việc xác định hình thức hợp đồng
nhằm xác định hiệu lực của hợp đồng đó, quyền lợi của các bên được đảm bảo hơn,
mang tính chứng cứ rõ ràng.
Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định về hình thức của hợp đồng dân sự tại
điều 401. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao
kết bằng một hình thức nhất định. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp
đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng
ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định về hình thức hợp đồng mua
bán hàng hóa tại điều 24. Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản (kể cả thông điệp dữ liệu cũng được thừa nhận có giá trị pháp lý
tương đương văn bản) hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp
đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các quy định đó.
Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng
phương tiện điện tử (khoản 5 điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
Xét về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật các
nước trên thế giới, một số điều ước quốc tế (Công ước Viên năm 1980, Công ước
Rome năm 1980) pháp luật Việt Nam và các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt
Nam với nước ngoài đều không đưa ra một quy định riêng. Xét về mặt thực chất,
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ hợp pháp khi thỏa mãn các điều kiện nhất
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
định, đó có thể là hợp đồng được kí kết dưới hình thức văn bản (hoặc các hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương), lời nói, hành vi nhất định. Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế đòi hỏi tính chặt chẽ về mặt hình thức. Nhiều hợp đồng đòi hỏi
phải được phê chuẩn hay công chứng,… mới được coi là hợp pháp về hình thức.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng thương mại mua bán hàng
hóa
1. Quá trình phát triển pháp luật về hợp đồng thương mại mua bán hàng
hóa
Năm 1989 nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Để đảm bảo, ổn định xã hội, nhà nước ta phải điều chỉnh được các quan
hệ xã hội thông qua pháp luật. Điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa được thuận
lợi, ngày 25/9/1989, nhà nước ta ban hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đầu tiên.
Pháp lệnh đảm bảo cho các hợp đồng kinh tế thật sự là sự thống nhất ý chí của các
bên tham gia kí kết theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Theo
pháp lệnh này, căn cứ vào nội dung cụ thể của các quan hệ kinh tế thì hợp đồng
kinh tế được chia thành: hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng vận chuyển hàng
hóa, hợp đồng li xăng, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng giao nhận thầu
xây dựng, hợp đồng liên kết kinh tế, các loại hợp đồng sản xuất và dịch vụ khác.
Quy định chung về hợp đồng kinh tế cũng là quy định về hợp đồng mua bán hàng
hóa nói riêng, cụ thể hơn là các quy định trong pháp lệnh Hợp đồng kinh tế chủ yếu
được xây dựng trên giác độ của hợp đồng mua bán hàng hóa, còn các hợp đồng
khác đều có luật chuyên ngành điều chỉnh. Đến 16/1/1990, Nghị định số 17-HĐBT
của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và
nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng theo quan điểm đổi mới.
Tồn tại 14 năm, nhận thấy Pháp lệnh hợp đồng kinh tế có những bất cập hạn
chế, quy định không rõ ràng và không phù hợp hiện tại. Chính vì lẽ đó, ngày
10/5/1997, Quốc hội ban hành Luật Thương mại 1997. Trong luật này, mua bán
hàng hóa là một trong 14 loại hành vi thương mại được quy định ở Điều 45. Hoạt
động thương mại là hành vi dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương
mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, luật Thương mại 1997 còn rất nhiều vấn đề đáng bàn. Ngay từ khi mới
được ban hành, Luật Thương mại 1997 đã bộc lộ những bất cập, khiếm khuyết và vì
vậy trong suốt thời gian tồn tại, nó hầu như không được áp dụng với tư cách là một
công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động kinh doanh thương mại mà
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lý do chủ yếu đó là: thứ nhất, thiếu sự thống nhất với các văn bản pháp luật liên
quan, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Doanh nghiệp năm 1999; thứ hai,
nhiều quy định của Luật còn chưa rõ ràng, ví dụ quy định về hành vi thương mại, về
thương nhân; thứ ba, LuậtThương mại năm 1997 và một loạt các loại văn bản
hướng dẫn thi hành bao gồm cả Nghị định và Thông tư tạo thành một hệ thống phức
tạp và khó áp dụng.
Quá trình đổi mới kinh tế bắt buộc phải thay đổi pháp luật để phù hợp. Từ
khi nền kinh tế nước ta chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt khi chúng
ta hội nhập vào nền kinh tế quốc tế (gia nhập WTO), cần thiết đòi hỏi Nhà nước có
khung pháp lý hoàn chỉnh hơn điều chỉnh các hoạt động thương mại. Trước sự đòi
hỏi đó, ngày 14/11/2005 Quốc hội ban hành Luật Thương mại số 36/2005 – QH 11
quy định về hoạt động thương mại và có hiệu lực ngày 1/1/2006, thay thế luật
Thương mại 1997, đây là văn bản pháp luật khá hoàn chỉnh cho các thương nhân
tham gia vào hoạt động thương mại. Luật Thương mại 2005 quy định khá đầy đủ và
chi tiết về mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa. Luật Thương mại 2005
có khá nhiều điểm mới, tiến bộ so với Luật Thương mại 1997. So với Luật Thương
mại 1997, phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại 2005 không còn bị giới hạn bởi
14 hành vi thương mại mà đã được mở rộng, có nhiều nội dung mới hơn, khái niệm
hành vi thương mại được hiểu rộng hơn. Theo quy định của khoản 1 Điều 3 thì hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác. Điều này có nghĩa là phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại 2005
là tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, về mặt nguyên tắc khái
niệm hành vi thương mại của Luật đã có sự tương thích với pháp luật quốc tế, phù
hợp với thông lệ quốc tế. Không những thế, vị trí của nó trong hệ thống các văn bản
pháp luật cũng xác định được mối liên hệ với Bộ luật Dân sự hay luật khác được
quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 4 Luật Thương mại năm 2005 như sau : ‘ Hoạt
động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của
luật đó. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và
trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự ‘.
2. Các văn bản pháp luật hiện hành
Theo pháp luật Việt Nam, mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại chịu sự
điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2005, luật Thương mại năm 2005 và pháp luật
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
có liên quan.
Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực ngày
01/01/2006 là nguồn luật chung điều chỉnh hợp đồng. Đây là luật chung điều chỉnh ,
nêu nguyên tắc áp dụng chung về chủ thể, giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự được
áp dụng trong các quan hệ hợp đồng dân sự (nghĩa rộng), trong đó có hợp đồng kinh
doanh thương mại, trên cơ sở những quy định áp dụng chung thì có luật áp dụng
riêng đối với từng lĩnh vực.
Luật Thương mại thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày
01/01/2006 được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong hoạt động
thương mại. Với hợp đồng mua bán hàng hóa, luật Thương mại năm 2005 đóng vai
trò là luật riêng áp dụng, Bộ luật Dân sự năm 2005 là luật chung áp dụng. Trình tự
áp dụng được tuân theo một quy định chung áp dụng luật riêng trước, nếu không có
những quy định liên quan thì sẽ áp dụng đến luật chung tức là Bộ luật Dân sự.
Hệ thống các văn bản khác có liên quan như:
Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
Luật Thương mại về mua bán hàng hóa quốc tế và các đại lí mua bán, gia công và
quá cảnh với nước ngoài.
Nghị định số 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại.
Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa.
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
Nghị định 51/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 của Chính phủ quy định về
hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh.
Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ lô-gi-stic và giới hạn trách nhiệm
đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stic.
Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa.
Quyết định 10 /2007/QĐ-BTM Công bố lộ trình thực hiện hoạt
động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua
bán hàng hoá
Như vậy, những vấn đề cơ bản của mua bán hàng hóa được quy định trong
Bộ luật Dân sự 2005 và luật Thương mại 2005. Hai văn bản này được áp dụng thay
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thế cho hai văn bản trước đây là Bộ luật Dân sự 1995 và luật Thương mại 1997 kể
từ ngày 01/01/2006.
Xét về hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tê, Viện nghiên cứu quốc tế về thống nhất luật tư (Unidroit) đã cho ra đời của
hai Công ước La Haye năm 1964 là “Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua
bán quốc tế các động sản hữu hình” và “Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các
động sản hữu hình”. Công ước thứ nhất điều chỉnh việc hình thành hợp đồng (chào
hàng, chấp nhận chào hàng). Công ước thứ hai đề cập đến quyền và nghĩa vụ của
người bán, người mua và các biện pháp được áp dụng khi một trong các bên vi
phạm hợp đồng. Tuy vậy, hai Công ước La Haye năm 1964 trên thực tế rất ít được
áp dụng vì hai Công ước này do một thiết chế tư (Unidroit) soạn thảo nên không
gây được ảnh hưởng rộng rãi trên thế giới.
Năm 1968, UNCITRAL đã khởi xướng việc soạn thảo một Công ước thống
nhất về pháp luật nội dung áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm
thay thế cho hai Công ước La Haye năm 1964 đó là Công ước Viên được thông qua
tại Viên (Áo) ngày 11 tháng 04 năm 1980 tại Hội nghị của Ủy ban của Liên hợp
quốc về Luật thương mại quốc tế với sự có mặt của đại diện của khoảng 60 quốc gia
và 8 tổ chức quốc tế. CISG có hiệu lực từ ngày 01/01/1988. Công ước Viên của
Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt theo tiếng Anh là
CISG- Convention on Contracts for the International Sale of Goods) được soạn thảo
bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) hướng
tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ GIAO KẾT, THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP.
I. Chế độ pháp lý về giao kết hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình thương lượng giữa các bên
theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để đạt được sự thỏa thuận, qua đó xác
lập các quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Việc giao kết hợp đồng thể hiện ý chí của 2 bên và là quyền tự do của các
bên, nhưng vẫn cần tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo sự công
bằng, cũng như tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật. Giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa phải bảo đảm theo những nguyên tắc được quy định tại điều 389 Bộ Luật
Dân sự 2005 đó là :
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ
điều 10 đến điều 15 của mục 2 chương 1 Luật Thương mại năm 2005. Đó là :
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động
thương mại( điều 10).
- Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại( điều
11).
- Nguyên tắc áp dụng thói quen, tập quán trong hoạt động thương
mại( điều 12 và 13).
- Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng( điều 14).
- Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt
động thương mại( điều 15).
Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thương
nhân trong hoạt động thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình
đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại ( Điều 10 Luật Thương mại năm
2005 quy định : Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt
động thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp
luật trong hoạt động thương mại). Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép cá
nhân, tổ chức, được tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng với ai, như thế
nào, với nội dung, hình thức nào. Hợp đồng phải xuất phát từ ý muốn chủ quan và
lợi ích hợp pháp của chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận muốn được pháp luật
bảo vệ khi có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ dẫn đến tranh chấp thì phải nằm trong
khuôn khổ của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì lợi ích của
mình, các chủ thể phải hướng tới việc không làm ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hội. Trước hết là với các doanh nghiệp, các thương nhân khi tham gia giao kết cần
phải đảm bảo có tư cách hợp pháp trước pháp luật, chịu trách nhiệm về bản thân
mình trước đối tác và trước pháp luật. Việc giao kết không được trái pháp luật hay
đạo đức xã hội, như việc giao dịch hàng hóa bị pháp luật cấm…thì đều vi phạm
nguyên tắc này
Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt
động thương mại. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội. Trong quy định về chủ thể giao kết trong hợp đồng mua bán đó là các
doanh nhân, hoặc các tổ chức, cá nhân có giấy phép kinh doanh. Nguyên tắc tự do,
tự nguyện trong hoạt động thương mại nhằm giúp cho các chủ thể khi tham gia giao
kết thể hiện ý muốn của mình và bảo vệ lợi ích của bản thân. Đi kèm với nguyên tắc
tự do giao kết, tự do thỏa thuận nhưng họat động thương mại không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội. Lợi ích của cá nhân được đảm bảo đồng thời không làm xâm
hại đến lợi ích của tập thể, của xã hội. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa,
ngăn cản bên nào. Các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng phải bảo
đảm nội dung của các quan hệ đó, thể hiện được sự tương xứng về quyền và nghĩa
vụ trong hợp đồng, bảo đảm lợi ích cho các bên. Trong nền kinh tế thị trường thì
các cá nhân, tổ chức dù thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý khi kí kết
hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Khi hợp đồng đã được xác lập thì
phải bảo đảm quyền và nghĩa vụ thì mới được hưởng quyền, nếu vi phạm thì phải bị
xử lý. Các bên tham gia kí kết hợp đồng bình đẳng với nhau về mặt pháp lý, bình
đẳng trước pháp luật chứ không phải bình đẳng về mặt kinh tế. Dựa trên cơ sở tự
nguyện cùng nhau giao kết hợp đồng, nhưng nếu giữa các bên không có thiện chí,
thiếu sự hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thì việc xác lập hợp
đồng này không mang lại lợi ích tối đa cho các bên trong quan hệ hợp đồng. Thêm
vào đó, trong giao kết hợp đồng các bên thể hiện sự trung thực, ngay thẳng thì mới
có thể trở thành đối tác lâu dài của nhau trong các quan hệ thương mại, đặc biệt là
trong quan hệ mua bán.
Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc áp dụng thói quen, áp dụng tập quán trong
hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên mà các bên đã biết hoặc phải
biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Tại điều 13 Luật Thương
mại năm 2005 có quy định: trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không
có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì dùng tập
quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thương mại và trong Bộ luật Dân sự.
Nguyên tắc thứ tư là nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu
dùng.
Nguyên tắc thứ năm là nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp
dữ liệu trong hoạt động thương mại. Theo nguyên tắc này, các thông điệp dữ liệu
đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kĩ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa
nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản( thông điệp dữ liệu là thông tin được
tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử).
2. Chủ thể giao kết hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là các cá nhân và tổ chức.
Đối với các cá nhân, để được thừa nhận là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa,
cá nhân phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự. Theo khoản 1 điều 122 Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì đây cũng là một trong các
điều kiện có hiêu lực của hợp đồng.
Chủ thể giao kết hợp đồng có thể là thương nhân, có thể không phải thương
nhân
2.1. Chủ thể là thương nhân
Trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, ít nhất một bên phải là thương
nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn,
dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Quyền hoạt
động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ. Nhà nước thực
hiện độc quyền Nhà nước có thời hạn về hoạt động thương mại đối với một số hàng
hóa, dịch vụ hoặc tại một số địa bàn để bảo đảm lợi ích quốc gia. Chính phủ quy
định cụ thể danh mục hàng hóa, dịch vụ, địa bàn độc quyền Nhà nước. Chính vì
phải ‘đăng ký kinh doanh”, nên về nguyên tắc, thương nhân không thể kinh doanh
những ngành nghề mà pháp luật cấm. Chẳng hạn, một doanh nghiệp mua bán chất
ma túy chắc chắn là vi phạm pháp luật và cũng không có cơ quan nào cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực
mua bán chất ma túy. Pháp luật Việt Nam qui định mọi thương nhân đều có quyền
bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại, không phân biệt thành phần
kinh tế.
Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp tác vì tuy được thừa
nhận là chủ thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh dưới hình thức hộ
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kinh doanh, cá thể song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức kinh tế, cũng
chẳng phải là cá nhân. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương nhân
nước ngoài có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác việc xác định tư cách
thương nhân nước ngoài phải căn cứ nước ngoài phải căn cứ theo pháp luật của
nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Việc xác định điều kiện để cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ chức trở thành tư nhân phải dựa trên quy đinh của pháp luật
Việt Nam. Vì vậy, thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật
nước ngoài công nhận (khoản 1, điều 16 Luật Thương mại). Thương nhân nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam là thương nhân nước ngoài có Văn phòng đại diện,
Chi nhánh tại Việt Nam. Nếu thương nhân nước ngoài thành lập doanh nghiệp tại
Việt Nam thì doanh nghiệp này vẫn được xem là thương nhân Việt Nam chứ không
phải là thương nhân nước ngoài.
Thương nhân là cá nhân bao gồm cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Một cá nhân được công nhân là một thương nhân thì phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên như một nghề nghiệp.
Thương nhân là tổ chức bao gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các
tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo quy định là thương nhân.
Một tổ chức được công nhận là một pháp nhân khi có đầy đủ các điều kiện
sau ( Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005).
1. Được thành lập hợp pháp
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm về tài
sản đó.
4. Tổ chức và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó
5. Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập
2.2. Chủ thể không phải là thương nhân
Trong rất nhiều trường hợp, cá nhân không phải là thương nhân cũng được
coi là chủ thể của hợp đồng thương mại. Bên không phải là thương nhân có thể là
mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hoá theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức
có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia đình,
tổ hợp và không hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên như một nghề.
2.3. Quyền tự do giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hợp đồng có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện quyền tự do kinh
doanh. Theo định nghĩa một cách đơn giản nhất thì hợp đồng là những thỏa thuận
có giá trị pháp lý ràng buộc các bên. Như vậy thỏa thuận chính là yếu tố bản chất
của hợp đồng và chính nhờ nó mà hợp đồng có vai trò lớn trong việc định đoạt lợi
ích của các bên, đưa các bên đến những thỏa hiệp có lợi nhất cho họ. Nền kinh tế thị
trường luôn được thúc đẩy bởi động lực lợi nhuận. Các chủ thể tham gia các quan
hệ kinh tế phải luôn tính toán để làm sao đạt được lợi nhuận tối đa. Việc đàm phán
và ký kết các hợp đồng không là ngoại lệ. Bởi lẽ đó, các chủ thể phải được hoàn
toàn tự do quyết định ký với ai, khi nào ký, trên những điều kiện nào họ cần ký hợp
đồng. Yếu tố bản chất của hợp đồng giúp các bên có được sự lựa chọn thích hợp.
Chỉ khi các chủ thể thấy lợi ích của họ có thể được đáp ứng, họ sẽ tham gia ký kết
hợp đồng.
Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường bắt đầu là Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế, sau đó là Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Bộ luật Dân sự, Luật
Thương mại là những cố gắng của hệ thống pháp luật nước ta nhằm tạo ra những
tiền đề pháp lý quan trọng cho tự do kinh doanh. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế có thể
được coi là phản ứng đầu tiên của hệ thống pháp luật nước ta đối với đòi hỏi của tự
do kinh doanh. Bằng việc ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, lần đầu tiên, hệ
thống pháp luật nước ta đã khẳng định ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các tổ
chức kinh tế. Tiếp theo đó, với việc ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại,
chế định hợp đồng được hoàn thiện thêm một bước.
Quyền tự do kinh doanh là quyền cơ bản của công dân, của các chủ thể kinh
doanh, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Tự do giao kết hợp đồng cũng là nguyên
tắc cơ bản của giao kết hợp đồng nói chung. Theo đó, dù thiết lập quan hệ hợp đồng
trong lĩnh vực nào (dân sự, thương mại hay lao động), các chủ thể đều được tự do
về mặt ý chí, không có chủ thể nào có quyền áp đặt ý chí để bắt buộc hay ngăn cản
chủ thể khác giao kết hợp đồng. Quyền tự do giao kết hợp đồng xuất phát từ bản
chất của hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về mặt ý chí giữa các
chủ thể, nhưng không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể đều là hợp
đồng. Sự thỏa thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể được
thể hiện (trong sự thỏa thuận) phù hợp với ý chí thực của họ. Với yêu cầu đó, tự do
trong giao kết hợp đồng phải được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản.
3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp luật
quy định đối với một hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ có giá trị pháp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lực khi thoả măn tối thiểu những điều kiện về nội dung mà pháp luật quy định. Khi
thiếu một trong những nội dung đó thì hợp đồng không thể phát sinh hiệu lực.
Trong thực tế, hậu quả xấu đã xảy ra xuất phát từ điểm các bên trong hợp đồng
không quy định rõ ràng hoặc đầy đủ những nội dung của hợp đồng dẫn tới có tranh
chấp xảy ra các bên sẽ không có chứng cứ hoặc chứng cứ không rõ ràng và những
thiệt hại không cần thiết có thể xảy ra đối với tất cả các bên và không thể lường
trước được.
Luật Thương mại năm 2005 đă không quy định về nội dung hợp đồng mua
bán hàng hoá. Trên cơ sở việc xác lập mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, khi xem xét
vấn đề nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá chúng ta có thể dựa trên các quy
định của Bộ luật Dân sự. Theo đó trong hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có thể
thoả thuận về những nội dung sau đây:
- Đối tượng của hợp đồng
Trong mua bán hàng hoá, đối tượng của hợp đồng là một hàng hoá nhất định
đây là điều khoản cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hoá, mà khi thiếu nó hợp
đồng mua bán hàng hoá không thể hình thành được do người ta không thể hình
dung được các bên tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì. Đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định thông qua tên gọi của hàng
hoá. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể ghi rõ tên hàng bằng tên
thông thường hoặc tên thương mại… để tránh có sự hiểu sai lệch về đối tượng hợp
đồng.
- Số lượng hàng hoá
Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối với đối tượng của
hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận và ghi trong hợp đồng về một số lượng hàng
hoá cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán thương
mại như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một đơn vị nào khác tuỳ
theo tính chất của hàng hoá.
- Chất lượng hàng hoá
Chất lượng hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái mà
người mua biết tường tận với những yêu cầu được tính năng, tác dụng, quy cách,
kích thức, công suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm thường
cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên thường
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khác nhau tương ứng với mỗi phươn pháp xác định chất lượng được thoả thuận.
Thông thường có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng, dựa
vào các tiêu chuẩn, dựa vào mô tả tỉ mỉ, dựa vào nhãn hiệu hàng hoá hoặc điều kiện
kỹ thuật.
- Giá cả hàng hoá
Các bên có quyền thoả thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong hợp đồng
hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rơ phương hướng xác định giá, vì đây
là điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến kư đến hợp đồng.
Để mang lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thoả thuận với nhau lựa
chọn hình thức giảm giá phù hợp ghi trong hợp đồng như giảm giá như giao hàng
sớm, do mua số lượng nhiều và quy định rõ mức giá giảm.
- Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua và bên bán thoả thuận,
theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bên bán tiền hàng đã mua theo một
phương thức nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn
phương thức nào cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh đầy đủ
và yêu cầu của người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn
như đă thoả thuận và không có rủi ro trong thanh toán. Việc chọn phương thức
thanh toán trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên khi
tham gia qua lệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Sự lựa chọn phương thức thanh toán
cũng căn cứ vào mức độ an toàn của phương thức thanh toán và phí tổn cho việc
thanh toán.
- Thời gian và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng của hợp đồng đúng địa điểm
đă thoả thuận trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ và nhận hàng đúng thời gian và
địa điểm và trả tiền cho bên bán. Các bên có thể thoả thuận với nhau sao cho hợp lý
căn cứ vào tình hình thực tiễn, khả năng thực hiện của mỗi bên. Địa điểm giao hàng
có thể do hai bên thoả thuận, phù hợp với điều kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho
cả hai bên. Khi thoả thuận cần thoả thuận cụ thể địa chỉ giao hàngf, đảm bảo
nguyên tắc phù hợp với khả năng đi lại của phương tiện vận chuyển, đảm bảo an
toàn cho phương tiện.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
4. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
4.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào
hàng. Chào hàng là giai đoạn trong đó một bên có “đề nghị về việc kí kết hợp đồng
được gửi đích danh cho một hoặc vài người”. Chào hàng có thể là bất kì lời đề nghị
nào “đủ rõ ràng” và “chỉ rõ tên hàng hóa, xác định một cách trực tiếp hoặc ngầm
định về số lượng và giá cả”. Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng, có nội
dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá, được chuyển cho một hoặc nhiều
nguời nhất định, có giá trị trong một thời gian nhất định. Đơn chào hàng về bản chất
là một đề nghị giao kết hợp đồng, là việc một bên bày tỏ ý chí của mình muốn giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá với một người cụ thể và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể đó. Chào hàng chỉ phát sinh hiệu lực
khi nó tới nơi người được chào hàng. Chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo của
người chào hàng về việc hủy chào hàng gửi đến nơi người được chào hàng trước
hoặc cùng lúc với chào hàng. Chào hàng sẽ mất hiệu lực khi người chào hàng nhận
được thông báo về việc từ chối chào hàng.
4.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là chấp nhận chào hàng, là giai đoạn
tiếp theo, là sự trả lời của bên được đề nghị chuyển cho bên đề nghị về việc chấp
thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp đồng. Tuyên bố hành
động nào đó của người được chào hàng thể hiện sự đồng ý với đơn chào hàng được
gọi là việc chấp nhận. Thái độ im lặng hoặc không hành động không phải khác là
việc chấp nhận đơn chào hàng. Người nhận được chào hàng sau khi đã chấp nhận
cũng có thể suy xét lại và nếu thấy chào hàng đó không có lợi cho mình thì có thể
hủy chấp nhận mà mình đã gửi. Tuy nhiên, việc hủy chấp nhận chào hàng chỉ có thể
được chấp nhận nếu thông báo về việc hủy chấp nhận chào hàng tới nơi người chào
hàng trước hoặc cùng thời điểm chấp nhận có hiệu lực. Thông báo này sẽ được coi
là “ tới nơi” khi thông báo này, hoặc bằng lời nói, hoặc được giao bằng bất cứ
phương tiện nào cho chính người đã chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa
chỉ bưu chính hoặc nơi thường trú nếu không có địa chỉ bưu chính. Nếu bên nhận
chào hàng trả lời có khuynh hướng chấp nhận nhưng trong thư trả lời có chứa đựng
những điểm bổ sung, thêm, bớt một số điều khoản thì đó được coi là từ chối chào
hàng và cũng là gửi một đơn chào hàng mới gọi là chào ngược. Tuy vậy, nếu những
sửa đổi, bổ sung, đề nghị không làm thay đổi điểm cơ bản trong nội dung chào hàng
thì được coi là chấp nhận chào hàng, trừ trường hợp người gửi thông báo ngay lập
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tức thể hiện sự phản đối của mình tới người được chào hàng (người đã có yêu cầu
sửa đổi). Những điểm cơ bản trong nội dung của chào hàng là những điểm liên quan
đến các điều kiện về giá cả, thanh toán, phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm
và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các bên hay giải quyết tranh chấp.
Chấp nhận đề nghị chào hàng chỉ có giá trị nếu nó được gửi đến cho người chào
hàng trong thời hạn chấp nhận do người chào hàng quy định có thể bằng bất cứ
phương tiện thông tin liên lạc nào, được tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi,
hoặc vào ngày ghi trên bì thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày bưu điện
đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy
định, bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng.
4.3. Thời điểm giao kết hợp đồng
Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có
hiệu lực. Bắt đầu từ thời điểm này, các bên có những quyền và nghĩa vụ được quy
định trong hợp đồng
5. Thời điểm hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa là xác định được thời
điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau. Việc xác định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng là căn cứ để xem xét về tính hợp lệ và thời kiện khởi
kiện trong vụ án dân sự, có ý nghĩa quan trọng, nhất là khi giải quyết các tranh chấp
về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá trị của tài sản đó
theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
6. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
Vấn đề một hợp đồng vô hiệu được quy định rất cụ thể trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 từ điều 127 đến điều 138. Một hợp đồng vô hiệu khác với hợp đồng mất
hiệu lực vì việc mất hiệu lực có thể xẩy ra ở bất kì thời điểm nào khi xuất hiện các
điều kiện cần thiết và không mang hiệu lực hồi tố. Hợp đồng bị vô hiệu trong các
trường hợp sau:
- Nội dung, mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội (điều 128)
- Trong giao dịch hợp đồng có sự giả tạo (điều 129)
- Hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện(điều 130)
- Trong quá trình giao dịch có sự nhầm lẫn (điều 131)
- Giao dịch có dấu hiệu của sự đe dọa, lừa dối (điều 132)
- Giao dịch do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình
(điều 133)
- Giao dịch không tuân thủ quy định về hình thức trong một số trường hợp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
do pháp luật quy định
Hợp đồng vô hiệu có hai loại là hợp đồng vô hiệu từng phần và hợp đồng vô
hiệu toàn bộ. Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng đó vô hiệu
nhưng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại. Hợp đồng vô hiệu
toàn bộ khi toàn bộ nội dung của nó vô hiệu.
Việc tuyên bố một hợp đồng vô hiệu toàn bộ hay vô hiệu một phần thuộc
thẩm quyền của tòa án. Để tòa án thực hiện thẩm quyền này thì bên có nhu cầu làm
đơn yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu. bên có nhu cầu ở đây có thể là
một trong các bên tham gia hợp đồng cũng có thể là bên thứ ba có liên quan.
Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm kí kết tuyên bố hợp đồng vô
hiệu, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Nếu các bên chưa tiến
hành thì không được phép thực hiện hợp đồng. Nếu đã thực hiện hợp đồng thì các
bên phải khôi phục lại trạng thái ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nếu
không hoàn trả lại bằng hiện vật thì các bên hoàn trả cho nhau bằng tiền. Nếu không
bên nào có lỗi trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu, chi phí cho việc hoàn trả nghĩa
vụ cũng như các thiệt hại thực tế xảy ra do các bên tự chịu, mỗi bên chịu thiệt hại
chi phí của mình. Nếu hợp đồng vô hiệu do lỗi của một bên có lỗi gây ra thiệt hại có
trách nhiệm bồi thường
II. Chế độ pháp lý về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
Nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp tác đã, đang và sẽ là nguyên tắc cơ
bản của việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Cùng với sự phát triển của các quan hệ
xã hội, của hoạt động kinh doanh thương mại và của pháp luật hợp đồng, nguyên
tắc này càng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp
tác có mối quan hệ mật thiết với các hình thức lỗi trong trường hợp có vi phạm hợp
đồng. Bởi lẽ, sự thiện chí, hợp tác và trung thực phản ánh ý thức, thái độ của các
bên đối với nhau trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng và đối với việc xử lý
những tình huống có thể ảnh hưởng đến số phận của giao dịch và lợi ích của các
bên. Trong khi đó hành vi vi phạm hợp đồng là những biểu hiện khách quan dưới
dạng hành động hoặc không hành động trái với các nội dung mà các bên đã thỏa
thuận trước đó. Tuy nhiên khi sự vi phạm được gắn liền với yếu tố lỗi thì biểu hiện
khách quan đã được lồng ghép với những dấu hiệu chủ quan, bởi lỗi phản ánh trạng
thái nhận thức của người vi phạm khi có hành vi trái với thỏa thuận thiện chí là một
trong những nguyên tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2. Giao nhận hàng hóa
Nghĩa vụ của bên bán là phải giao hàng hóa đúng quy định của hợp đồng và
các điều kiện kèm theo việc giao hàng. Việc giao hàng liên quan đến việc giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa. Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận
trong hợp đồng về số lượng, chất lượng cách thức đóng gói, bảo quản và các quy
định khác trong hợp đồng. Thông thường trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận với
nhau về điều kiện kèm theo việc giao hàng thoả thuận về điều kiện giao nhận hàng
hoá nhằm mục đích xác định trách nhiệm và chi phí giao hàng của các bên như đối
với vận tải, bảo hiểm hàng hoá, thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu, gánh chịu rủi
ro.
Các bên có thể thoả thuận về địa điểm giao hàng tuỳ theo tính chất của các
hàng hoá trong hợp đồng khi đã thoả thuận về địa điểm giao hàng thì các bên phải
tôn trọng thoả thuận và phải thực hiện đúng thoả thuận đó. Bên bán phải có nghĩa
vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã thoả thuận.
Trong trường hợp không thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao
hàng được xác định như: Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên
bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó. Trường hợp trong hợp đồng có quy định
về vấn đề chuyển hàng hoá thì bên ngoài có nghĩa vụ giao hàng cho người vận
chuyển đầu tiên. Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển
hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho
chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải
giao hàng tại địa điểm đó, Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại
địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao
hàng tại nơi cứ trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua
bán.
Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có
quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên không có thoả thuận khác.
Trong trường hợp bên bán giao hàng không đúng với thỏa thuận hợp đồng
thì bên mua có quyền từ chối nhận hàng, bên bán chịu hoàn toàn trách nhiệm về
thiệt hại phát sinh dù cho người bán có thể biết hoặc không thể biết về thiệt hại phát
sinh đó. Hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng khi hàng hóa đó thuộc
một trong các trường hợp: không phù hợp với mục đích sử dụng của hàng hoá cùng
chủng loại vẫn thường được sử dụng. Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể
nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời gian giao kết
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hợp đồng. Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng mà bên bán đã
giao cho bên mua. Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường với
loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá trong
trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường.
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá, việc giao
nhận hàng hoá cũng có những ngoại lệ. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác
về giao nhận hàng hoá thì việc giao nhận hàng hoá sẽ được thực hiện như đối với sự
việc mua bán hàng hoá thông thường. Tuy nhiên, trong hợp đồng kỳ hạn, các bên có
thể thoả thuận về việc thanh toán bằng tiền của bên mua và không nhận hàng khi đó
bên bán không phải giao hàng và bên mua không phải nhận hàng mà bên mua chỉ
phải thanh toán cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa giá thoả
thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch hàng hoá công bố tại thời
điểm hợp đồng được thực hiện mà thôi. Đối với hợp đồng quyền chọn thì nghĩa vụ
giao nhận hàng của các bên chỉ phát sinh khi bên giữa quyền chọn mua thực hiện
quyền mua và bán hàng có hàng để bán, bên giữ quyền bán thực hiện quyền bán mà
bên mua đồng ý mua hàng.
Trường hợp hàng hóa được giao cho người vận chuyển nhưng không được
xác định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức
khác thì bên bán phải thông báo cho bên mua về việc đã giao hàng cho người vận
chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận biết hàng hoá được vận chuyển.
Trường hợp bên bán có nghĩa vụ thu xếp việc chuyên chở hàng hoá thì bên
bán phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện tới đích
bằng các phương tiện chuyên chở thích hợp với hoàn cảnh cụ thể và theo các điều
kiện thông thường đối với phương thức chuyên chở đó.
Trường hợp bên bán không có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá trong
quá trình vận chuyển, nếu bên mua có yêu cầu thì bên bán phải cung cấp cho bên
mua những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá và việc vận chuyển hàng hoá
để tạo điều kiện cho bên mua mua bảo hiểm cho hàng hoá đó.
Nếu hợp đồng chỉ quy định thời hạn giao hàng và không xác định thời điểm
giao hàng cụ thể mà bên bán giao hàng trước khi hết thời hạn giao hàng và giao
thiếu hàng hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên bán vẫn có thể giao
phần hàng còn thiếu hoặc thay thế hàng hoá cho phù hợp với hợp đồng hoặc khắc
phục sự không phù hợp của hàng hoá trong thời hạn còn lại.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Khi bên bán thực hiện việc khắc phục việc giao thiếu hàng, giao hàng không
phù hợp với hợp đồng mà gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên
mua thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó.
3. Kiểm tra chất lượng hàng hóa
Trường hợp các bên có thoả thuận để bên mua hoặc đại diện của bên mua
tiến hành kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng thì bên bán phải bảo đảm cho bên
mua hoặc đại diện của bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra. Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, bên mua hoặc đại diện của bên mua trong trường hợp này
phải kiểm tra hàng hóa trong một thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho
phép; trường hợp hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hóa thì việc kiểm
tra hàng hoá có thể được hoãn lại cho tới khi hàng hoá được chuyển tới địa điểm
đến.
Trường hợp bên mua hoặc đại diện của bên mua không thực hiện việc kiểm
tra hàng hóa trước khi giao hàng theo thỏa thuận thì bên bán có quyền giao hàng
theo hợp đồng.
Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá
mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông
báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá.
Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyến của hàng hoá
mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông
báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá. Nhưng bên bán
phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại
diện bên mua đã kiểm tra nêu các khuyến khuyết của hàng hoá không thể phát hiện
được trong qúa trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường vằ bên bán đã biết hoặc
phải biết về các. Khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên
mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hoá
không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và
bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho
bên mua.
4. Nghĩa vụ thanh toán
Thanh toán tiền hàng được coi là nghĩa vụ quan trọng mà người mua phải
thực hiện. Người bán và người mua có thể thoả thuận những biện pháp ràng buộc
chặt chẽ nhằm đảm bảo việc thanh toán được đầy đủ và đúng hạn theo thoả thuận
trong trường hợp đồng. Bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo