Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.54 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ
TẠI TÒA ÁN

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn

:ThS NGUYỄN THỊ BÍCH PHƢỢNG

Sinh viên thực hiện

:NGUYỄN CHÍ ĐẠT

MSSV: 1511270624

Lớp: 15DLK07

TP. Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích
Phượng đã dành nhiều thời gian quý báu, công sức để trực tiếp hướng dẫn tác giả trong


quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Pháp luật về phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án”.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn quý Thầy/Cô trong khoa Luật của trường Đại học
Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu,
giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Ngoài nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ quý báu từ quý Thầy/Cô, đề tài này cũng
được hoàn thành dựa trên sự tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các kết quả nghiên
cứu liên quan của nhiều tác giả.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Tác giả kính mong Thầy/Cô tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Nguyễn Chí Đạt,

MSSV: 1511270624

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1.

Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1

2.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .......................................................................... 2

3.

Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ......................................................... 2

4.

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài........................................ 2

5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài ......................................................................... 3

6.

Kết cấu đề tài ..................................................................................................... 4

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ VÀ THỦ
TỤC PHÁ SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014 ............... 5
1.1

Khái quát về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã .......................................... 5


1.1.1

Phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã - Thủ tục tố tụng toà án đặc biệt .... 5

1.1.2

Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng ................................................... 9

1.1.3

Trình tự giải quyết phá sản ................................................................. 12

1.2 Khái quát về thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2014 và
những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong thủ tục phá
sản
................................................................................................................... 15
1.2.1

Khái quát về thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2014
............................................................................................................ 15

1.2.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong
thủ tục phá sản ................................................................................................. 20
Kết luận chương ................................................................................................... 23
Chương 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC
XÃ TẠI TÒA ÁN – BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........................ 24
2.1

Quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án ........ 24


2.1.1

Giai đoạn mở thủ tục phá sản ............................................................. 24

2.1.2 Giai đoạn xác định nghĩa vụ về tài sản, biện pháp bảo toàn tài sản và hội
nghị chủ nợ ...................................................................................................... 29
2.1.3 Giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản, thanh lý tài
sản, các khoản nợ ............................................................................................. 33
2.2 Những thực trạng trong quá trình thi hành Luật phá sản năm 2014 và bất cập
của quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án ............. 39
2.2.1

Giai đoạn mở thủ tục phá sản ............................................................. 41

2.2.2 Giai đoạn xác định nghĩa vụ về tài sản, biện pháp bảo toàn tài sản và hội
nghị chủ nợ ...................................................................................................... 44


2.2.3 Giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản, thanh lý tài
sản, các khoản nợ ............................................................................................. 45
2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án ............................................................................... 46
2.3.1

Giai đoạn mở thủ tục phá sản ............................................................. 49

2.3.2 Giai đoạn xác định nghĩa vụ về tài sản, biện pháp bảo toàn tài sản và hội

nghị chủ nợ ...................................................................................................... 50
2.3.3 Giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản, thanh lý tài
sản, các khoản nợ ............................................................................................. 50
Kết luận chương ................................................................................................... 50
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 52


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng tất yếu, nó là hiện tượng
kinh tế - xã hội tồn tại khách quan. Về thực chất doanh nghiệp, hợp tác xã cũng chỉ là
thực thể xã hội, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng có quá trình sinh ra, phát triển và diệt
vong. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật và hiện tượng.
Nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại
hình doanh nghiệp, hợp tác xã cùng song song tồn tại và đều tự chủ về tài chính, bình
đẳng và tự do trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế này, lợi nhuận luôn là mục
đích tối cao mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới, là cơ sở tồn tại cho mỗi doanh
nghiệp đồng thời cũng là động lực cơ bản thúc đẩy họ lao vào quá trình cạnh tranh
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Do vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan, dưới sự tác
động của quy luật cạnh tranh, một số doanh nghiệp, hợp tác xã đã hoạt động có hiệu
quả, có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp cho
ngân sách, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngược lại, một số doanh nghiệp,
hợp tác xã khác do quản lý kém hoặc do những nguyên nhân khác nhau đã dần yếu đi,
sản xuất kinh doanh đình đốn, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các
nghĩa vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy, hiện tượng phá sản có những mặt tích cực, tuy nhiên hậu quả tiêu cực
mà hiện tượng này đem lại là không ít hơn mặt tích cực. Việc doanh nghiệp, hợp tác xã
khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán sẽ phương hại đến lợi ích của chủ nợ,
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và có tác động xấu đến sự phát triển

của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc giải quyết phá sản cần được tiến hành nhanh
chóng, kịp thời nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt
tích cực của nó. Xuất phát từ bản chất như vậy, đã phát sinh nhu cầu khách quan cần
tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã tại Tòa án.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn nghiên cứu Đề tài: “Pháp luật về phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của tác giả, với
mục đích góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này đồng thời góp phần giải
quyết một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn các quy
định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án được quy định trong
pháp luật phá sản ở Việt Nam. Từ đó đưa ra một số đề xuất cho việc thực thi, kiến nghị
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam. Với mục đích đó, đề
tài có những nhiệm vụ sau:
 Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận pháp luật về phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã tại Tòa án;
 Phân tích, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã tại Tòa án doanh nghiệp, hợp tác xã và những bất cập của quy định pháp luật về
phá sản theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam;
 Kiến nghị, định hướng và giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật
Phá sản.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Luật phá sản có nội dung đa dạng, phức tạp, đề cập đến rất nhiều vấn đề, nhiều
quan hệ tố tụng khác nhau. Do đó, tác giả xác định phạm vi, đối tượng nghiên cứu của
đề tài Pháp luật phá sản như sau:

 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
liên quan đến pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án. Tác giả cũng
không nghiên cứu pháp luật về phá sản doanh nghiệp là tổ chức tín dụng;
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung tập trung nghiên cứu các quy
định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án và vấn đề thực thi các
quy định đó trên thực tế mà không nghiên cứu các mối quan hệ tố tụng khác.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là đề tài đã được nhiều tác giả nghiên cứu có
thể kể đến như:
 Luận án tiến sĩ Luật học của Dương Kim Thế Nguyên, trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh với đề tài “Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật
Việt Nam”;

2


 Luận văn thạc sĩ Luật học của Quách Thị Minh Phượng, khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội với đề tài “Thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam”;
 Luận văn thạc sĩ Luật học của Ngô Thị Hồng Anh, khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội với đề tài “Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt
Nam”.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các
báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản. Chẳng hạn
như các bài viết: “Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với pháp luật về phá sản”
của Thạc sĩ Vũ Thị Hồng Yến; “Đặc điểm quy chế xác định tài sản doanh nghiệp phá
sản trong luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi” của Thạc
sĩ Trương Hồng Hải; “Luật phá sản còn nhiều bất cập khi áp dụng vào thực tiễn” của
Thái Nguyên Toàn...
Các tác giả này chủ yếu nghiên cứu đề tài về thủ tục tuyên bố phá sản, thủ tục xử
lý, thanh lý tài sản doanh nghiệp sau khi có quyết định tuyên bố phá sản hoặc xử lý tài

sản thế chấp trong mối quan hệ với pháp luật về phá sản,....
Các tác giả trên chưa nghiên cứu toàn bộ quy trình, thủ tục giải quyết phá sản,
pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án nên đề tài này tập trung
nghiên cứu dưới góc độ luật học Pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa
án.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng
hợp mang lại cho đề tài một cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu và làm cho đề tài
có chiều sâu, có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Ngoài ra, phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng song hành trong quá trình
nghiên cứu và chỉ khi đặt quy định của pháp luật hiện hành về phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã tại Tòa án trong mối liên hệ với quy định pháp luật Việt Nam thời kỳ trước
đó và với cả thực tiễn về vấn đề phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án ta mới
thấy được những tiến bộ cũng như hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành khi quy
định về vấn đề này.

3


6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu
như sau:
 Chương 1. Khái quát về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và thủ tục phá sản
theo quy định của luật phá sản năm 2014
Chương này giới thiệu về việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thủ tục tố tụng
tại Tòa án nhân dân. Giới thiệu về các chủ thể và trình tự giải quyết vụ việc phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án nhân dân.
Giới thiệu khái quát pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án và
những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết
yêu cầu phá sản.

 Chương 2. Quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án
– Bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Chương này phân tích quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại
Tòa án, cũng như thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong các giai đoạn giải quyết vụ
việc phá sản như giai đoạn thủ tục phá sản, giai đoạn mở hội nghị chủ nợ và phục hồi
hoạt động sản xuất kinh doanh, giai đoạn tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản,
giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Tiếp theo, chương này nêu ra thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân trong giải
quyết vụ việc phá sản, một số khó khăn vướng mắt trong quá trình giải quyết vụ việc
phá sản, những bất cập của quy định pháp luật về phá sản. Chương này cũng đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã tại Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án trong thủ tục phá sản.

4


Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ VÀ
THỦ TỤC PHÁ SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
1.1

Khái quát về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

1.1.1

Phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã - Thủ tục tố tụng toà án đặc biệt

 Khái niệm phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Doanh nghiệp cũng có chu kỳ sống của doanh nghiệp, cũng như một thực thể
sống “có sinh, có tử”. Theo các nhà kinh tế, chu kỳ sống của doanh nghiệp trải qua
bốn giai đoạn tiêu biểu là: khởi nghiệp, tăng trưởng, bão hòa và suy thoái. Doanh

nghiệp sẽ bước vào thời kỳ suy thoái nếu bước qua giai đoạn tăng trưởng, nhà quản trị
không biết “nhìn xa trông rộng” và dự liệu những tình huống xấu xảy ra để kịp thời đối
phó. Tính chu kỳ này cũng cho thấy sự suy vong và phá sản có thể là một giai đoạn sẽ
xảy ra với bất cứ một doanh nghiệp nào.
Có nhiều thuật ngữ ở Việt Nam được sử dụng như: phá sản, vỡ nợ, khánh tận…
Từ điển tiếng Việt định nghĩa từ “phá sản” là lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì
và thường là vỡ nợ do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại; “vỡ nợ” là lâm vào tình trạng bị
thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả
nợ1. Như vậy, trong cách hiểu thông thường, khái niệm phá sản là để chỉ cho một sự
việc đã rồi, sự việc “phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ trả nợ”.
Từ điển Luật học định nghĩa phá sản là tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp
nhân) mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Theo quan điểm này, khái niệm phá sản
chỉ mới xác định được một tình trạng có thể xảy ra đối với các chủ thể bị lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, “phá sản” được hiểu tương đương với
“mất khả năng thanh toán”2.
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 đều không đưa
ra định nghĩa về phá sản mà sử dụng khái niệm “tình trạng phá sản”. Nếu áp dụng vào
quan niệm của phần đông người dân, khái niệm lâm vào tình trạng phá sản dễ gây ra
sự nhầm lẫn là doanh nghiệp “lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì”. Tuy vậy, các
luật phá sản của Việt Nam vừa nêu đều có các quy định nhằm phục hồi doanh nghiệp
chứ không chỉ có các quy định về tuyên bố phá sản và thanh lý doanh nghiệp. Do vậy,
1
2

Hoàng Phê (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.1437
Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 597.

5



khái niệm tình trạng phá sản chưa phản ánh đầy đủ nội hàm như được quy định trong
các luật này.
Khác với các văn bản luật phá sản trước đây của Việt Nam đều không đưa ra
định nghĩa cho khái niệm phá sản, Luật Phá sản năm 2014 đã đưa ra một định nghĩa
pháp lý về phá sản, theo đó, “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán và bị tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Khái niệm
này đã tiếp cận phá sản dưới góc độ là một quyết định của tòa án chứ không phải là
quá trình ban hành ra quyết định đó (thủ tục phá sản).
 Thủ tục giải quyết phá sản – thủ tục tố tụng đặc biệt của Tòa án
Thủ tục giải quyết phá sản là trình tự từng bước tiến hành giải quyết vụ việc phá
sản theo quy định của pháp luật. Mặt khác, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư
pháp vì nó do Tòa án với tư cách là cơ quan tư pháp tiến hành. Trong thủ tục phá sản
khi các chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp
ứng từ phía doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thì xuất hiện một số
xung đột về lợi ích tài sản giữ chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã. Xung đột này là
xung đột về mặt tài sản, liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ
hợp đồng hoặc một sự kiện pháp lý nào đó. Sự xung đột mà thực chất là sự không chấp
hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ của một bên đương nhiên ảnh hưởng đến
lợi ích của bên đối tác3. Để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chủ nợ buộc phải
yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán với mục đích thu hồi nợ. Khi có yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án phải
xem xét yêu cầu đó có chính đáng hay không.
 Cấu trúc của thủ tục giải quyết phá sản
Một trong những dấu hiệu đặc biệt chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục giải
quyết phá sản. Nếu như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự là một quá trình hoạt động của
Tòa án và những người tham gia tố tụng, hình thành từ những giai đoạn nối tiếp nhau,
giai đoạn trước là nên tảng cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra tính hợp pháp,
khắc phục những thiếu sót của giai đoạn trước thì thủ tục phá sản là một quá trình hoạt
động có cấu trúc hoàn toàn khác. Trong thủ tục giải quyết phá sản, nhiệm vụ của các
thủ tục cấu thành có tính độc lập với nhau rất lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này

3

Lê Tuấn Anh (2013), Vai trò của Tòa án trong các giai đoạn giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, Luận
văn thạc sĩ Luật học, tr. 6

6


không phải lúc nào cũng là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như
nhiệm vụ của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
khác hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý tài sản và thực hiện nhiệm vụ của thủ tục
phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục thanh lý tài sản mà có thể loại trừ sự cần
thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản doanh nghiệp, hợp tác xã...
 Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản
Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) thủ tục giải quyết
một vụ phá sản được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Tính chất đặc biệt của
thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm sau đây:
 Thứ nhất, thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể4;
Trong thủ giải quyết phá sản việc đòi nợ được tiến hành tập thể. Các chủ nợ
không thể tự mình đòi nợ riêng lẻ mà phải tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy
nhất gọi là hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ sẽ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham
gia vào việc giải quyết phá sản.
 Thứ hai, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành như một
biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ;
Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ
tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ đã lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán. Thủ tục phá sản chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối
cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi nợ thông
thường khác đã không có hiệu quả.
 Thứ ba, thủ tục thanh toán nợ trong vụ việc phá sản được tiến hành trên cơ sở

số tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã;
Nếu việc đòi nợ thông thường được giải quyết bằng cách “nợ bao nhiêu, trả bấy
nhiêu” thì việc thanh toán nợ trong thủ tục phá sản được tiến hành dựa trên số tài sản
còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. Điều này có nghĩa
trong giải quyết yêu cầu phá sản, nếu số tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ đủ trả nợ thì con nợ sẽ được thanh toán toàn bộ số nợ, còn nếu tài sản của con
nợ có ít hơn tổng số nợ thì việc thanh toán cũng coi như kết thúc sau khi trả nợ hết số
4

Điều 5 Luật Phá sản năm 2014.

7


tài sản đó, mỗi chủ nợ sẽ được thanh toán theo tỷ lệ tương ứng, các chủ nợ sẽ phải
gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ.
Tòa án sẽ tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, điều này cũng đồng
nghĩa với việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã đó nên việc xóa nợ
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản là đương nhiên. Tuy nhiên, để loại trừ tình
trạng các doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh lợi dụng thủ tục đặc biệt này để
xin giải quyết phá sản nhằm được xóa nợ và trốn tránh nghĩa vụ trả nợ của chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, pháp luật không miễn trừ
nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty
hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
 Thứ tư, hậu quả của thủ tục giải quyết phá sản thường là sự chấm dứt hoạt
động của một thương nhân5;
Trong thủ tục phá sản, Tòa án thường phải đưa ra những quyết định pháp lý đặc
biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý để từ đó bán toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã thanh toán cho các chủ nợ. Như vậy, hậu quả của thủ tục giải quyết

phá sản thường là sự chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp, hợp tác xã.
 Thứ năm, thủ tục giải quyết phá sản không chỉ là thủ tục đòi nợ mà còn là một
thủ tục có khả năng giúp doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã6;
Trong thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được
Toà án tạo điều kiện tối đa cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng bởi việc một doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản sẽ không chỉ
gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của riêng bản thân chủ doanh nghiệp, hợp tác xã
mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội, khiến người lao động bị mất việc làm... Vì
vậy, pháp luật cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được chủ
động xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình.
 Thứ sáu, thủ tục giải quyết phá sản - một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
5
6

Điều 9 Luật Phá sản năm 2014 .
Điều 90 Luật Phá sản năm 2014.

8


Thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục pháp lý rất phức tạp. Tính phức tạp đó
được thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Tòa án phải thụ lý và giải quyết nhiều
công việc, nhiều mối quan hệ khác nhau về tính chất như giải quyết các vấn đề doanh
nghiệp, hợp tác xã có mất khả năng thanh toán nợ hay không, giải quyết việc phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán.
1.1.2


Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng

Như phần trên đã phân tích, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, không
chỉ xét về quy mô, về tính chất mà còn cả về thành phần chủ thể tham gia. Để giải
quyết xong một vụ phá sản, ít nhất phải có sự tham gia của các chủ thể như: Toà án,
hội nghị chủ nợ, tổ chức, cá nhân, tổ chức quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã mất khả năng thanh toán. Do có nhiều chủ thể tham gia như vậy nên Luật Phá sản
nước nào cũng phải dành một phần lớn các quy phạm pháp luật để xây dựng cho
chúng những địa vị pháp lý nhất định, phù hợp với thẩm quyền, vị trí, chức năng của
chúng trong thủ tục phá sản.
Trong thủ tục phá sản, có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó, có
04 chủ thể quan trọng là: Toà án, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán,
chủ nợ, và quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
 Toà án nhân dân
Pháp luật ở các nước trên thế giới đều quy định Toà án là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền giải quyết vụ phá sản. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống
lập pháp cũng như nguyên tắc xây dựng bộ máy nhà nước của mỗi nước là có sự khác
nhau nên việc phá sản có thể được phân công giải quyết tại các Toà án khác nhau. Ở
hầu hết các nước châu Âu lục địa, Toà án đó có tên là Toà Thương mại với nhiệm vụ
giải quyết nhiều công việc liên quan đến thương nhân như tranh chấp thương mại và
giải quyết phá sản, trong khi đó, ở một số nước như Mỹ, Thuỵ Điển, Nam Tư... lại
hình thành Toà án phá sản riêng để chuyên trách một công việc duy nhất là giải quyết
các vụ phá sản.

9


Tuy nhiên, theo pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới như Đức, Pháp,
Nhật Bản, Anh, Nga… thẩm quyền của Thẩm phán lại rất hạn chế7. Thẩm phán không
có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, lại càng

không có trách nhiệm chủ trì việc tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp sau khi đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với nó. Một chủ thể pháp lý
đặc biệt được gọi là quản tài viên (người quản lý tài sản), được Toà án bổ nhiệm trên
cơ sở giới thiệu của chủ doanh nghiệp hoặc chủ nợ có trách nhiệm thay chủ doanh
nghiệp tiến hành việc tổ chức lại doanh nghiệp. Trong trường hợp này, Toà án có thẩm
quyền thực hiện việc giám sát quá trình giải quyết phá sản nhằm bảo đảm cho các bên
phải tuân thủ đúng pháp luật.
Tóm lại, thẩm quyền của Toà án trong thủ tục phá sản được quy định ở các nước
là không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, có thể thấy một điểm chung, mang tính
phổ biến, đó là Toà án có thẩm quyền rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý
nhưng lại có thẩm quyền rất khiêm tốn trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất
kinh tế phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản.
 Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
Hơn ai hết, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là người hiểu được
tình hình sản xuất, kinh doanh cũng như thực trạng tài chính của mình. Nhằm bảo vệ
trước hết là lợi ích của chủ nợ nên luật phá sản của nhiều nước (Cộng hòa liên bang
Nga...) đã đưa ra quy định, theo đó, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
có nghĩa vụ phải nộp đơn lên Toà án để xin mở thủ tục phá sản khi phát hiện được
rằng mình đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Theo đó, nghĩa vụ của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong việc làm đơn ra Toà án để yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với chính mình đã được pháp luật các nước này ghi nhận
một cách chính thức.
Theo pháp luật phá sản của một số nước, sau khi bị mở thủ tục phá sản, doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán vẫn có quyền hoạt động kinh doanh bình thường
nhưng phải chịu một số hạn chế nhất định về quyền đối với tài sản cũng như về quyền
trong hoạt động điều hành doanh nghiệp. Nhiều nước như Đức, Nhật, Lát-vi-a… đã
quy định rằng, sau khi mở thủ tục phá sản thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bị
tước quyền định đoạt tài sản trong một số trường hợp và nếu bị cấm mà doanh nghiệp
7


Lê Tuấn Anh (2013), Vai trò của Tòa án trong các giai đoạn giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, Luận
văn thạc sĩ Luật học, tr. 10

10


mất khả năng thanh toán vẫn định đoạt thì những hành vi định đoạt tài sản này bị pháp
luật coi là vô hiệu...
 Chủ nợ
Mục đích đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất của thủ tục phá sản là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Nếu các chủ nợ có thể đòi được các món nợ
của mình bằng con đường tố tụng thông thường thì không cần phải có thủ tục phá sản,
không có việc giải quyết phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản là con đường cuối
cùng mà các chủ nợ bắt buộc phải đi nếu như muốn đòi được các món nợ của mình.
Chính vì lợi ích của chủ nợ được đề cao như vậy nên pháp luật phá sản nước nào cũng
dành cho chủ nợ một địa vị pháp lý rất đặc biệt. Như phần trên đã phân tích, thủ tục
phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Điều đó có nghĩa là, trong thủ tục phá sản, mặc
dù có nhiều chủ nợ tham gia nhưng từng người trong số họ không được xé lẻ để đòi nợ
riêng cho mình mà tất cả họ phải được tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất
để tham gia thủ tục phá sản. Chủ thể đó được pháp luật các nước gọi là Hội nghị chủ
nợ. Luật các nước đều có quy định Hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cao nhất cho ý
chí của các chủ nợ, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến
lợi ích của chủ nợ. Vì vậy, Hội nghị chủ nợ mới là chủ thể có quyền thông qua hay
không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã do doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán hoặc chủ thể khác
được pháp luật quy định soạn thảo. Nếu Hội nghị chủ nợ không thông qua kế hoạch
này thì coi như doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đã hết khả năng
được phục hồi, cho dù họ có quyết tâm đến mấy.
Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ đều được tham gia vào
hầu hết các giai đoạn từ khởi kiện đến thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh

nghiệp, hợp tác xã và có thẩm quyền rất lớn trong việc giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng phát sinh từ quá trình giải quyết một vụ việc phá sản cụ thể.
 Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán thường có những hành vi như cất giấu, tẩu tán tài sản nhằm trốn
tránh trách nhiệm trả nợ. Do đó cần có sự kiểm tra, giám sát của một thiết chế (cơ
quan, tổ chức, cá nhân) có thẩm quyền thì khối tài sản này mới được bảo toàn và lợi
ích của các chủ nợ mới không bị xâm phạm. Vì vậy, việc quản lý tài sản của doanh
11


nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán là một trong những
vấn đề cơ bản mà pháp luật phá sản của các nước đều rất quan tâm giải quyết. Trước
hết, Nhà nước phải thành lập ra một thiết chế nào đó và sau đó là phải quy định cho nó
một địa vị pháp lý nhất định8. Pháp luật phá sản các nước gọi tên của thiết chế này một
cách rất khác nhau nhưng xét về vị trí mà nói thì đây là một chủ thể rất quan trọng
trong tố tụng phá sản của bất cứ quốc gia nào.
Nhìn chung, trong pháp luật phá sản các nước thì thiết chế này thường được gọi
là nhân viên quản lý tài sản (Trustee). Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của các
nước là khác nhau nên việc quy định về cơ cấu tổ chức cũng như vị trí, thẩm quyền
của các thiết chế này cũng có sự khác nhau.
1.1.3

Trình tự giải quyết phá sản

Việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Việt Nam được quy định trong Luật
Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Thủ tục này có thể khái quát như sau:
 Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Chủ nợ có bảo đảm một phần hay không được bảo đảm, người đại diện của người
lao động hoặc đại diện công đoàn, cổ đông hoặc nhóm cổ đông của công ty cổ phần,
thành viên hợp danh của công ty hợp danh, chủ doanh nghiệp, người đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp trong một số trường hợp do pháp luật quy định có quyền nộp đơn
yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã khi doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào trình trạng mất khả năng thanh toán.
Lưu ý, Cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục phá sản:
Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã tại tỉnh đó và thuộc
một trong các trường hợp sau:
 Vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở
nước ngoài;

8

Điều 16 Luật Phá sản năm 2014.

12


 Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có chi nhánh, văn phòng
đại diện ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau;
 Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có bất động sản ở nhiều
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau;
 Vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh mà Tòa án
cấp tỉnh lấy lên để giải quyết do tính chất phức tạp của vụ việc.
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã có trụ sở tại chính
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó và không thuộc các trường hợp trên.
 Xử lý đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, Chánh án Tòa án nhân dân sẽ phân công một Thẩm phán hay một Tổ Thẩm
phán giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Tòa án nhân dân ấn định thời gian để doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thương lượng việc có rút
đơn hay không.
Trường hợp thương lượng không thành thì Tòa án nhân dân thông báo cho người
nộp đơn nộp lệ phí phá sản, tạm ứng án phí phá sản.
Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sau khi nhận được biên
lai nộp lệ phí phá sản, tạm ứng án phí phá sản.
 Tòa án nhân dân quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án nhân dân quyết định mở
hoặc không mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán.
Trong quá trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát,
kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Có một số hoạt động theo quy định của
Luật Phá sản bị cấm và một số hoạt động khác chỉ được phép thực hiện sau khi có sự
đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán.
13


 Hội nghị chủ nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh
Hội nghị chủ nợ được Thẩm phán triệu tập và chủ trì để thông qua các vấn đề về
kiểm kê tài sản, phê duyệt phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, phương án thanh
lý tài sản và các vấn đề khác liên quan.
Thẩm phán ra quyết định áp dụng phục hồi hoạt động kinh doanh khi được Hội
nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã đã hoàn thành xong phương án phục hồi kinh
doanh, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và

doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán được coi không
còn lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
 Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản và thi hành quyết định tuyên bố
phá sản
Trong những trường hợp sau, Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp,
hợp tác xã phá sản:
 Hội nghị chủ nợ không thành;
 Có Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã không xây
dựng được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn quy định, Hội
nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp, hợp tác xã không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
 Thi hành quyết định tuyên bố phá sản
Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành, phân
công Chấp hành viên thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức định giá tài sản theo
quy định pháp luật.
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán đấu giá tài sản thanh lý.

14


1.2

Khái quát về thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm

2014 và những yếu tố ảnh hƣởng đến việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong
thủ tục phá sản
1.2.1

Khái quát về thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2014


Theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, Tòa án có vị trí trung tâm và có thẩm
quyền quyết định trong các giai đoạn của tố tụng phá sản ở Việt Nam. Chỉ Tòa án nhân
dân mới là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã9 và doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là phá sản về mặt pháp lý khi và
chỉ khi có quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan Tòa án có thẩm quyền. Việc trao
cho Tòa án một thẩm quyền to lớn như vậy là một nét đặc thù cơ bản của Luật Phá sản
nước ta. Điều này được quy định bởi các đặc điểm của nền kinh tế và xã hội nước ta.
Hiện tượng phá sản ở nước ta diễn ra gay gắt, trong khi đó, giải quyết phá sản lại là
một quá trình hết sức phức tạp kéo dài. Pháp luật về phá sản có nhiệm vụ bảo vệ lợi
ích hợp pháp của các chủ nợ, cho các doanh nghiệp bị mắc nợ, cho người lao động,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội và góp phần có hiệu quả vào việc cơ cấu lại nền kinh tế
quốc dân. Chính vì vậy, việc trao nhiều quyền hạn cho Tòa án trong việc giải quyết
phá sản kể từ khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã cho tới
khi giải quyết xong mối quan hệ tài sản giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã phá
sản là phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa của nước ta.
Về cơ sở xác định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã được hiểu dưới các khía cạnh sau:
 Thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản là phạm vi,
quyền hạn của Tòa án trong việc thực hiện quy định pháp luật về giải quyết yêu cầu
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
 Thứ hai, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản là toàn bộ
các hoạt động tố tụng thực hiện quyền hạn mà Tòa án được phép tiến hành, bằng sự
chủ động, độc lập, tôn trọng sự thật khách quan, trên nền tảng các quy định của pháp
luật giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và chịu trách nhiệm trước nhà
nước về toàn bộ các hoạt động đó;

9


Điều 9 Luật Phá sản năm 2014.

15


 Thứ ba, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã là sự phân định quyền hạn giữa Tòa án với các cơ quan khác trong
giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tóm lại, có thể nói: Thẩm quyền của Tòa án trong thủ tục phá sản còn là căn cứ
để phân định quyền hạn giữa các Tòa án với nhau. Theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật tố tụng, Tòa án là cơ quan có chức năng giải quyết các vụ án, các tranh chấp
được quy định trong luật nội dung. Tuy nhiên, từng cấp Tòa án có thẩm quyền khác
nhau về phạm vi giải quyết các tranh chấp nói chung và giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã nói riêng.
Khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, Tòa án
chỉ định Thẩm phán thay mặt Nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến phá sản.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Phá sản năm 2014:
“Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, Chánh án Tòa án nhân dân phân công một Thẩm phán hoặc một Tổ Thẩm
phán gồm 3 thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”.
Lúc này thẩm quyền của Tòa án được thể hiện thông qua thẩm quyền của Thẩm
phán trong việc đôn đốc chỉ đạo quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã. Việc trao cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã xuất phát từ cơ sở sau:
 Xuất phát từ bản chất của hiện tượng phá sản
Phá sản về bản chất chính là việc con nợ không có khả năng thanh toán các
khoản nợ của mình cho các chủ nợ. Ngoài ra, phá sản còn kéo theo nhiều hậu quả xấu
cho xã hội như tình trạng thất nghiệp của người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác
xã phá sản, ảnh hưởng doanh nghiệp, hợp tác xã khác. Không chỉ ở Việt Nam mà ở bất
kỳ quốc gia nào trên thế giới, khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

có rất nhiều điểm tranh luận lớn không giải quyết được, đó là việc điều hòa giữa lợi
ích của con nợ với lợi ích của chủ nợ; đó là việc tìm kiếm cách thức phân chia tài sản
của con nợ cho các yêu cầu chính đáng của chủ nợ trong khi tổng giá trị của tài sản
nhỏ hơn tổng giá trị các yêu cầu chính đáng của chủ nợ. Để góp phần hạn chế những
mâu thuẫn trên pháp luật các nước đều trao thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản cho
Tòa án.
16


 Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà
nước
Các nước trên thế giới đều giao quyền tư pháp cho Tòa án, Tòa án sẽ có quyền
nhân danh nhà nước đưa ra các phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ thể
khác, và quyết định này sẽ được bảo đảm thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế.
Khi tham gia giải quyết yêu cầu phá sản, Tòa án với tư cách người thứ ba không
có quyền lợi liên quan sẽ nhân danh nhà nước đứng ra giúp chủ nợ, con nợ và những
người liên quan đạt được những thỏa thuận liên quan đến việc phân chia tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, Tòa án tạo cơ hội
cho doanh nghiệp, hợp tác xã tự cứu mình.
Giải quyết phá sản là một quá trình phức tạp với rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích
giữa các chủ thể có liên quan, khi mà ý thức và sự hiểu biết pháp luật của đa số các
doanh nghiệp, hợp tác xã là chưa cao thì việc trao thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã cho Tòa án là cách tốt nhất để thực hiện mục tiêu của
Luật Phá sản năm 2014 – Đó là bảo vệ lợi ích của chủ nợ, con nợ, người lao động, góp
phần tổ chức và cơ cấu lại nền kinh tế đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội...
Theo pháp luật phá sản nước ta, khi tham gia vào giải quyết phá sản, Tòa án là
chủ thể giữ vị trí trung tâm và thẩm quyền quyết định không chỉ trong các vấn đề
mang tính pháp lý mà còn trong cả các vấn đề mang tính kinh tế như quyết định công
nhận hoặc sửa đổi phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thẩm quyền, nhiệm vụ, cụ thể của Tòa án theo Luật phá sản năm 2014 và Nghị

quyết số 03/2016/NQ-HĐTP ngày 16/8/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản, gồm:
 Nhận - xử lý đơn - thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ra quyết định mở
hoặc không mở thủ tục phá sản
Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có thẩm quyền thụ lý và quyết định mở hay
không mở thủ tục phá sản. Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án
có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức có liên quan cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ làm
cơ sở cho việc thụ lý cũng như quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 7 Luật Phá sản
năm 2014). Trong trường hợp thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Tòa án có thể
triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ
17


doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu
cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức liên quan để xem xét, kiểm tra căn cứ chứng
minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tòa án ra
quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngược lại, nếu không có căn cứ chứng minh
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án sẽ ra quyết định không
mở thủ tục phá sản (Điều 42 Luật Phá sản năm 2014).
 Quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (Điều 61, 62 Luật Phá sản năm 2014).
Hoàn thiện cơ chế bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, Luật Phá sản
năm 2014 trao cho Thẩm phán một số quyền hạn sau đây:
 Tuyên bố vô hiệu các giao dịch mà doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán đã thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước
ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo yêu cầu của chủ nợ không có
bảo đảm (Điều 59, 60 Luật Phá sản năm 2014);
 Quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực nếu xét thấy việc
đình chỉ thực hiện hợp đồng đó có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã theo yêu cầu

của chủ nợ (Điều 61 Luật Phá sản năm 2014).
 Triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ.
Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ.
Theo quy định của Điều 75 Luật Phá sản năm 2014, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị
chủ nợ trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày kể từ ngày kiểm kê xong tài sản (Điều 65
Luật Phá sản năm 2014), Gửi giấy đòi nợ (Điều 66 Luật Phá sản năm 2014), lập danh
sách chủ nợ (Điều 67 Luật Phá sản năm 2014), lập danh sách người mắc nợ (Điều 68
Luật Phá sản năm 2014) của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản chủ trì. Thẩm
phán có quyền quyết định hoãn Hội nghị chủ nợ nếu không đủ điều kiện, trong trường
hợp Hội nghị chủ nợ không thành thì Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản (Điều
80 Luật Phá sản năm 2014).

18


 Quyết định công nhận và giám sát thực hiện Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ
về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán.
Trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ đồng ý với các giải pháp tổ chức lại
hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ, Thẩm phán ra quyết
định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác
xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Thẩm phán phụ trách vụ
việc phá sản xem xét phương án hồi phục để quyết định đưa ra Hội nghị chủ nợ; nếu
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh chưa đảm bảo các yêu cầu về mặt hình thức
do pháp luật quy định thì Thẩm phán có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung. Trong trường
hợp Hội nghị chủ nợ thông qua nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh thì Nghị quyết này chỉ có hiệu lực đối với các bên có liên quan sau khi được
Thẩm phán ra quyết định công nhận (Điều 92 Luật Phá sản năm 2014). Thẩm phán ra
quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác

xã nếu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện xong phương án phục hồi hoặc được sự
đồng ý của các chủ nợ (Điều 95 Luật Phá sản năm 2014). Trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh thì Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác
xã phá sản (Điều 96 Luật Phá sản năm 2014).
 Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã khi thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Thẩm quyền giám sát, kiểm tra của Tòa án đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được thể hiện ở các quy định sau:
 Giám sát, ngăn ngừa doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hành vi cất giấu,
tẩu tán tài sản hoặc thực hiện các hành vi làm thiệt hại lợi ích chung của các chủ nợ
như: thanh toán nợ không có bảo đảm, từ bở hoặc giảm bớt quyền đòi nợ, chuyển các
khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã (Điều 48 Luật Phá sản năm 2014);
 Các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã về cầm cố, thế chấp, chuyển
nhượng, bán, tặng, cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lục; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc
chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh

19


doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo cho Thẩm phán (Điều 49 Luật Phá sản năm 2014).
 Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
Theo quy định tại Điều 106, 107 của Luật Phá sản năm 2014, Tòa án nhân dân
giải quyết theo thủ tục thông thường và ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác
xã phá sản đối với các trường hợp sau: Hội nghị chủ nợ không thành; Nghị quyết đề
nghị tuyên bố phá sản của Hội nghị chủ nợ; doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện
được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; hết thời hạn thực hiện phương án

phục hồi hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn mất khả năng
thanh toán.
 Xử lý trường hợp có tranh chấp tài sản trong quá trình thi hành quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; Xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
Trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản, thanh lý tài sản, các khoản
nợ, có thể xuất hiện các trường hợp xảy ra tranh chấp tài sản, hoặc phát sinh tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã. Tòa án nhân dân có thẩm quyền xử lý các trường hợp
này (Điều 114, 115 của Luật Phá sản năm 2014).
1.2.2

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong

thủ tục phá sản
Luật Phá sản nói chung và quy định pháp luật về Pháp luật về phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã tại Tòa án nói riêng đều chịu sự ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố
tồn tại khách quan trong xã hội. Tòa án có thẩm quyền tuyệt đối được pháp luật quy
định cụ thể trong Luật Phá sản. Nhưng khi xác định Pháp luật về thẩm quyền của Tòa
án trong thủ tục phá sản pháp luật phải dựa trên các cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng
nhất định. Hay nói cách khác, trong số các yếu tố có khả năng ảnh hưởng lớn đến việc
xác định Pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong thủ tục phá sản, cần phải kể đến là:
Tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế; Thực tiễn năng lực hoạt động của bộ
máy nhà nước nói chung và cơ chế thực thi phán quyết của Tòa án nói riêng; Văn hoá
pháp lý và ý thức của các nhà kinh doanh.
 Tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế

20



×