phßng gi¸o dôc VÀ ĐÀO TẠO ĐIỆN BÀN
trêng thcs PHAN THÚC DUYỆN
~~~~~~~~o0o~~~~~~~~
§Ò tµi :
Con ngêi Thuý V©n
Ng êi thùc hiÖn :
Häc sinh líp : 9
N¨m häc :
Con người Thuý Vân
A.TÁC GIẢ VÀ VĂN NGHIỆP
Nguyễn Du : tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê Tiên Điền, Nghi
Xuân - Hà Tĩnh, từng sống nhiều ở Thăng Long và Thái Bình.
Xuất thân trong gia đình quí tộc Nguyễn Du được chăm chút cẩn thận từ
thuở nhỏ, theo học cả thi thư, cung kiếm và đàn hát. Khi lớn lên gặp lúc đất nước
xảy ra nhiều biến động. Tâm trạng ông vừa ngơ ngác vừa bị phẫn của một người
"Chưa hiểu hết thời thế" lại thêm tư tưởng trung quân ràn buộc. Từ cuộc sống vốn
có nhiều trái ngược. Tư tưởng ông chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc và tài
năng cao cả khi đã khái quát lên được hiện thực của cuộc đời. Bao năm ăn gió
nằm sương, lại ảnh hưởng chất văn tài của cha, điệu hát dân ca của mẹ. Ông đã
tạo nên được một kiệt tác "Đoạn trường tân thanh". Đoạn trường đã hiện lên đủ
thịt, đủ xương của muôn vàn đau khổ. Tiếng cười bỗng nhiên lạnh lẽo, giọt nước
mắt bỗng nhiên long lanh.
Thành kính cảm tạ Tố Như, thiên tài lỗi lạc đã thoát ra khỏi những lũy
thành chật hẹp của đời nho sĩ rêu phong, để chia sẻ nỗi niềm đau khổ của kẻ tha
nhân. Người đã thổi vào văn chương vần điệu dân tộc một luồng sinh lực diệu kì,
băng vượt không gian mà đi, xuyên suốt thời gian mà sống. Hơi thở ấy lại ngân
nga trong mỗi trái tim, hoà lời thơ bác học, chung cảm hứng với điệu hát bình
dân. Rồi cũng chính người đã dựng lên một toà lâu đài ngôn ngữ nguy nga tráng
lệ, rực rỡ, chuyển dậy một đỉnh nghệ thuật cao vòi vọi.
Thành kính cảm tạ Nguyễn Du, với tác phẩm Truyện Kiều đã giúp văn học
nước ta vượt khỏi biên giới đất Việt hòa nhập cùng dòng chảy văn học năm châu
bốn bể. Trước bàn thờ tưởng niệm của đại thi nhân dù chẳng phải là mâm ngũ quả
đong đầy, nhành hoa đào sắc thắm. Vài lời tâm tình của lớp người hậu thế với
lòng trân trọng cảm phục và biết ơn trước di sản tinh thần mà người xưa đã dầy
công xây dựng. Thuý Vân, ở đây chúng tôi cũng chỉ dám xin thôi, trình bày đôi
dòng suy nghĩ và cảm nhận của riêng mình....
B.CON NGƯỜI THUÝ VÂN
Thuý Kiều chọn bến Tiền Đường để hoá kiếp hồng nhan. Giọt lệ Thuý
Kiều từng thấm đẫm từng trang viết. Khi khúc bạc mệnh gảy xong thì mọi oán
hận oan khiên cũng theo tiếng nhạc mà dâng đầy trong nỗi đau xót xa. Đó là
Đoạn trường tân thanh thấm màu dâu bể, bể dâu . Giọt sương sa lác đác. Tiếng
mưa ray rứt không thôi, có người yêu Truyện Kiều nhờ điệu nhạc khoan thai đón
gió, trầm lắng đón sương. Có người lại mê mẫn biến thành hoạ sĩ của rừng phong
thu lá đỏ biệt li. Còn riêng tôi, tôi yêu Truyện Kiều vì đó là con người thật, con
người ấy biết vui khi ta vui, biết buồn khi khi ta buồn, biết hờn giận, biết yêu
thương. Một Từ Hải tài tình thao lược hay một Thuý Vân vô tâm đến vô tình đáng
thương. Đúng vậy, Thuý Vân là giọt nước nhỏ, giọt nước sáng trong của tuổi
"xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê". Giọt nước hiền lành cam chịu : "Thoắt một
oan khiên". Tại sao trong sáng lại mắc phải oan khiên ? Tại sao vô tư lại đáng
thương ? Có lẽ, ta phải hỏi cụ Tố Như và hỏi chính mình. Thuý Vân, đứa con hiền
lành không duyên kiếp và cũng chẳng mặn mà lắm với ngòi bút hoạ thơ thành đời
của Nguyễn Du.
Nói là duyên kiếp cũng không đúng, mà nói là không duyên kiếp cũng
chẳng sai. Vân " tội" hơn Kiều vì chỉ được Nguyễn Du coi, xem xét là chủ thể
khách quan. Chủ thể ấy đôi khi cũng từng mang dấu ấn một thời " hoạ sĩ". Hoạ sĩ
dùng tâm để vẽ, dùng tự sự tô đậm nghệ thuật, dùng tình để rung cảm người xem.
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết, còn trăng trên khuôn mặt Thuý Vân
lại đong đầy tròn vành vạnh sáng soi " Nét ngài nở nang", lông mày của Vân hình
như hơi đậm hơn, cong hơn, đường nét sắc sảo hơn. Đôi lông mày ấy mà Vương
Trọng (nhà thơ xứ Nghệ) cho rằng tác giả Nguyễn Du mượn cách nói quê hương
để tả người. "Tốt con ngài hơn dài quần áo". Lông mày Vân hiện cả một sức sống
tinh tú cao sang. Khuôn mặt ấy, cặp lông mày ấy càng được tô đẹp thêm nữa bởi ?
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Câu thơ thật hàm súc. Miêu tả vẻ đẹp con người Vân, vẻ đẹp có nét hình,
có màu sắc, có âm thanh, có tiếng cười, giọng nói. Người ta nói rằng thơ là hoạ, là
nhạc, là đời quả thật không sai. Miệng Vân luôn cười. Nụ cười không gượng ép
cũng chẳng thầm mỉa mai. Nụ cười vô tư " tươi roi rói như hoa mùa xuân nở rộ
phô hương sắc". Đó là nét kiều diễm, là báu vật tinh khôi của đất trời. Còn lời ăn
tiếng nói, trò chuyện với Vân là cảm nhận cả một thế giới thanh thản, dịu dàng "
thốt" một động từ đặc tả với thanh sắc chắn ngang cả dòng nước đang êm ả chảy.
Nói đến Nguyễn Du là nói đến một nghệ nhân kim hoàn tinh xảo điêu luyện bởi
cách chọn từ và đúng chỗ trong câu thơ để tạo một sản phẩm có vẻ đẹp hoàn hảo,
sắc sảo lạ thường. " Hoa cười ngọc thốt đoan trang", Vân không lộ vẻ vô duyên, "
Cười cười, nói nói " nàng trầm tính nhận biết nên nói lúc nào và nói ra sao. Tục
ngữ ta có câu " Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe". Hình như thiên
tài Nguyễn Du đã " còn nhớ vun xén" vào đây một chút tình dân quê. Trở lại vấn
đề ta thấy Vân đẹp đến nỗi " Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da". Câu thơ
đọc lên dịu mát cả lòng người. Tóc Vân xanh và mềm mại hơn mây. Da Vân mịn
màn và trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp tinh khôi mà thiên nhiên chỉ biết " thua", biết "
nhường". Dấu phẩy giữa câu rạch ròi, phân rõ mỗi nét đẹp sắc sảo của Vân. Nếu
bốn câu trên, Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân như một thần dân cung kính trước
sắc đẹp truyền thần của nữ hoàng thì đối với Kiều ngòi bút ấy lại trào dâng không
kém phần " ghen tuông, giận dữ " của tạo hoá với khách má hồng :
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kếm xanh
Mắt Thuý Kiều trong và sâu như làn nước mùa thu. Còn hàng lông mày thì
cong và đẹp như rặng núi mùa xuân.Vẻ đẹp của trời đất thiên nhiên " hoa ghen
thua thắm" phải chăng là nét thắm của làn môi, đôi má hồng hay sự duyên dáng
đằm thắm của tuổi trăng tròn ? " liễu hờn kếm xanh" phải chăng là màu xanh của
tóc, của lông màu, của sức sống xuân sắc của xuân. Nguyễn Du miêu tả Vân rồi
lại tả về Kiều, hình như đằng sau vẻ đẹp thuỷ mặc ấy lại có cả bao dụng ý ? Ông
làm mờ đi hình ảnh của Thuý Vân.
Quay trở lại với toàn bài, có thể nói rằng Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn
ngữ ước lệ, niêm phong chặt chẽ, còn thi sĩ đa tình Xuân Diệu lại có cách khởi sự
rất thanh niên :
Lá liễu dài như một nét mi
(.....) Hơi thở thổi như ngực người yêu mến
Mây đa tình như thi sĩ ngày xưa
Nguyễn Du đem thi pháp đặc trưng của văn học cổ để tả người đẹp còn
Xuân Diệu thì so sánh ngược lai. Cách nói, cách diễn đạt vui vẻ tạo nên nét xuân
tình dạt dào sức sống. Rồi một lần nữa Xuân Diệu lại bước vào con đường hoạ sĩ
với Nguyễn Du phát hoạ bước chân dung người đẹp Thuý vân : mặt tròn - da mịn
- tóc xanh, cái gì cũng đẹp, cũng trang trọng, hoạ chỉ cầm bút đưa nét vẽ nội tâm
vài bộ phận đặc tả đã phát hoạ nên một chân dung của một con người. Chân dung
ấy chỉ thiếu đôi mắt nhưng ta thừa biết Thuý Vân chẳng phải là cô gái mù loà. Và
Nguyễn Du cũng chẳng phải là một thiên tài vô ý.
Thuý Vân có mắt và đó là đôi mặt đẹp. Nhưng đôi mắt ấy nằm trên khuôn
mặt cho đủ bộ. Chỉ nhìn, chỉ thấy những ''cái thực" ở ngoài đời. Gặp Kim Trọng
hào hoa phong nhã, nàng cũng như bao cô gái khác. Gặp nấm mồ Đạm Tiên nàng
cũng thấy như Vương Quan hờ hững đến vô tình. Cho đến khi gia đình tan biến
nàng cũng êm đềm " say một giấc xuân". Rồi lúc sum họp nàng " thản nhiên " kết
lại duyên xưa. Nàng thấy, nàng không thấy, điều đó không có gì khác. Có khác là
tiếc cho cô gái đoan trang phúc hậu, con nhà nho giáo mà quá đổi vô tâm, vô tình.
Quên sao được nấm mồ hoang lạnh chôn đắp một thời thiếu nữ xuân xanh.
Đó là nấm mồ Đạm Tiên : người con gái hồng nhan bạc mệnh. Nếu Thuý Kiều
nhỏ giọt nước mắt đầu tiên cho số kiếp truân chuyên thì Thuý Vân lại cảm thấy
khó chịu khi nhìn chị khóc :
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa
Nếu ở địa vị Thuý Vân ta sẽ như thế nào ? Cười hay khóc ? "Khéo dư nước
mắt", cách nói của Vân ỡm ờ để lộ thái độ khó chịu " khéo" nếu Lê Thánh Tông
có một lần dùng từ này đánh bật gốc tính xấu của Trương Sinh, thì Nguyễn Du lại
lột tả được bản chất của Vân. Thuý Kiều khóc cho nỗi niềm xót xa của một kiếp
người. Còn Vân ? Vân đã tô đậm, đã đắp thêm sự " khinh miệt của người đời đối
với Đạm Tiên". Cô ấy là kĩ nữ, là vợ mọi nhà, là ma không chồng, có gì đáng
khóc. Cứ tưởng tượng, thẫn thờ với cách nói của Vân ! Dấu chấm than cuối câu
ngã dài, dài theo lối mách xé " khóc người xưa". "Đời xưa", "đời này" sao Vân
không nghĩ lại cho nước mắt Thuý Kiều. Đạm Tiên ngày ấy rồi ai ngày này ? Là
Kiều, là Vân. Vân không nghĩ đến, chỉ biết vẻ đẹp như bức truyền thần này sẽ
một đời bình lặng trong mái ấm gia đình. Mặc cho sự bất hạnh đau khổ của người
khác.
Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân
Gia đình tan tóc nàng cũng vô tư. Nàng "chăn ấm, nệm êm" vui một giấc
xuân ấm nồng. Giấc xuân ấy là một chuổi đời chẳng lo lắng, chẳng muộn phiền.
Giấc xuân với mộng đẹp, sắc thắm tràn đầy hi vọng. Vân như thế, còn Kiều ?
Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thắm khăn.
Nghĩ, lo, khóc Thuý Kiều đau khổ suốt năm canh khăn thấm đầy máu và
nước mắt. Dầu chong đã cạn mà vẫn rối bời đắn đo. Kiều là thế ! Nàng có "đôi
mắt" nhìn sâu vào những cái mà Vân không nhìn thấy. " Đôi mắt với nhãn lực"
tuyệt vời gọi hồn ma Đạm Tiên về kết bạn. Gọi ánh trăng bạc cùng ai đi tắt về
khuya chứng giấm lời thề. Đôi mắt ấy biết đắn đo bên hiếu, bên tình, bên hi sinh
và bên bồi đắp hạnh phúc. Kiều xót xa, Vân say giấc nồng. Cảm ơn Nguyễn Du,
ông đã xây dựng hai hình ảnh đối lập, toát lên được bản chất Vân - Kiều. Vân ngủ
rồi tỉnh nhưng chỉ "chợt tỉnh" mà thôi. Cái chợt tỉnh ngẩn ngơ rồi buột miệng hỏi
một câu đến vô tình :
Cớ sao ngồi nhẫn tàn canh ?
Câu thơ đọc lên thật giản dị. Vì sao chị không ngủ, Vân biết"chị riêng oan
một mình" mà vẫn hỏi. Hỏi để quan tâm hay hỏi một cách vô ý thức. Nàng có
thấy được gì khi chị Kiều thờ thẫn không ngủ được. Nhưng mà nàng có thấy cũng
chẳng khác gì đâu. Mắt Vân, cái nhìn của Vân thật thà hiền lành. Cái nhìn thụ
động, theo khuôn nếp, khiến ta lầm tưởng tâm hồn này như có chất bột nếp rây
lọc mịn màn. Như thế phỏng nàng có mắt hay không ? Ta chưa thấy Thuý Vân
cười. Không hề thấy Thuý Vân khóc. Ta ao ước chừng một giọt lệ, chừng nữa nụ
cười để khuôn trăng bớt đầy đặn để mày ngài kém nở nang. Có thể, Vân mới chia
xẻ với chúng ta những nỗi ưu tư, phiền muộn và cố gắng hi sinh. Nhưng đó chỉ là
ao ước và sẽ không bao giờ là sự thật. Nếu Vân đã hiện lên rõ ràng riêng đôi mắt
hình như đã nhường hẳn cho Thuý Kiều :
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Mắt Kiều như hai viên ngọc quí, xanh hơn dáng núi mùa xuân, trong sâu
đẹp, lung linh kì lạ. Cả Kiều - Vân một hai "nghiêng nước, nghiêng thành".
Nhưng Vân lại không có mắt, đó là điều khó chấp nhận. Người giai nhân như thế
mà lại... Ta trầm tĩnh, thầm hỏi lại ngòi bút xây dựng nhân vật của Nguyễn Du.
Hãy xem ông nói đến Thuý Vân khi Kiều gặp lại Kim Trọng. Nàng đã nói đến
tấm lòng yêu Kiều của kẻ chung chăn gối với mình trong bao nhiêu năm :
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Câu thơ đọc lên như lời kể gói gọn " mười lăm năm ". Vân nói thản nhiên
lạnh lẽo tưởng như không giữ nguyên cho mình lòng tự ái, chút nhiệt tình. Kim là
chồng của Vân ngày đêm cứ mơ tưởng Thuý Kiều mà sao cái ghen Thuý Vân
chưa một lần trào dâng. Vân khác Hoạn Thư :
Dòng máu ghen của Hoạn Thư đã thành nhà, thành gia pháp còn Thuý
Vân ? Chị biết cam chịu, phủ phục đáng thương nhưng không tránh được sự dễ
dàng đáng ghét. Vân có hiền quá không ? Suy nghĩ của Vân theo ý tình kẻ khác,
miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải thuộc về trật tự mà cuộc đời chấp nhận. Xã hội,
gia đình nàng thấy bình thường, không hề phản ứng. Vậy lời nói của nàng có phải
vô duyên, thô thiển quá hay không ? có đó là sự "tuân phục" của nàng khi chàng
Kim yêu nhớ Thuý Kiều ? Dẫu cử chỉ ấy có phần cao đẹp, cảm động nhưng chưa
làm ta mến yêu và gần gũi.
Nói là vậy, nhưng ai hãy nhìn lại tiết thanh minh chiều hôm ấy. Một buổi
chiều của tình duyên trời định.
Bóng chiều như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
Khung cảnh thiên nhiên nên thơ. Chiều đến giục giã " khách lên ngựa ,
người còn ghé theo". Hình ảnh " người" ở đây tác giả Nguyễn Du dùng rất huyền
ảo, ngay cả ta cũng không xác định được những tình cảm hai chị em Kiều. Đó
chính là điều kì diệu của " tiếng sét ái tình" trong buổi chiều thanh minh.
Và đối mặt với sự việc " trao duyên" của Kiều - Vân ta mới thấy Vân thật
đáng thương.
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Kiều đã đưa Vân vào tình thế khó xử. Vân chẳng kịp nói rằng, Kiều dang
dở, Kiều muốn đền đáp ơn tình chàng Kim nên nhờ Vân chắp nối, Vân ngẩn ngơ :
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim
Như trước đã nói : Vân trong sáng nhưng mắc phải oan khiên. Đúng vậy !
Mặc dù Thuý Kiều mười lăm năm trắc trở, truân chuyên nhưng nàng vẫn có cái
may là được gặp, được hiểu và yêu Kim Trọng. Còn Vân ? Vân im lặng, chấp
nhận lấy kẻ chưa yêu ( Tuy rằng tiết thanh minh hôm ấy vẫn thoáng rung động
mối tình đầu thơ dại ).
Vân là thế, hồn nhiên trong sáng và rất đổi đáng thương. Một thoáng vô
tình sống trên muôn vàn đau khổ của người khác. Một thoáng câm lặng là đón lấy
ân tình với Kim Trọng trăm năm. Cảm ơn đại thi hào Nguyễn Du, cảm ơn kiệt tác
Truyện Kiều. Quên sao được Thuý Vân ngày ấy. Cô gái hiền từ, phúc hậu có vẻ
đẹp quý phái đã sống cuộc đời êm đềm, bình lặng, yên vui.......
~~~~~~~o0o~~~~~~~
Phòng giáo dục Hội An
Trờng THCS Phan Bội Châu
~~~~~~~o0o~~~~~~~
Đề tài :
Một bi kịch của con ngời
(
Trong truyện : Ngời con gái Nam Xơng )
Ngời thực hiện : Hồ Thị Mỹ Phợng
Học sinh lớp : 9/4
Năm học : 2005 - 2006
Một bi kịch của con ngời
(Trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng của Nguyễn Dữ )
I. Đôi điều về tác giả :
Gần năm thế kỷ đã đi qua, ngời đời vẫn tôn vinh Nguyễn Dữ là đại gia với
Truyền kì mạn lục là thiên cổ kì bút , không chỉ vì tác giả đã thổi vào văn chơng
hơi thở cuộc sống giàu chất đời mang âm hởng chất cổ tích một cách thần kì ;
mà có lẽ quan trọng hơn: bút lực của ông rất già dặn, vừa thông minh vừa tài hoa.
Hiện cha rõ cụ thể năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ, nhng theo các tài
liệu để lại, có thể đoán định ông sống vào nửa đầu thế kỷ XVI, là học trò giỏi của
Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chế độ phong kiến nhà Hậu Lê, sau
một thời gian phát triển rực rỡ cuối thế kỷ XV, đến thời điểm này đã bắt đầu lâm
vào tình trạng khủng hoảng, chính sự suy yếu này, các tập đoàn phong kiến Lê,
Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây nên loạn lạc liên miên.
Chán nản trớc thời cuộc, lại chịu ảnh hởng của thầy học, sau khi đỗ hơng
cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan có một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi rừng
Thanh Hoá. Đó là cách phản kháng của nhiều trí thức tâm huyết đơng thời.
Chuyện ngời con gái Nam Xơng là truyện 16 trong số 20 truyện của truyền
kì mạn lục. Truyện có nguồn gốc từ một truyện dân gian trong kho tàng truyện cổ
tích Việt nam, đợc gọi là truyện Vợ chàng Trơng. Truyện thiên về những sự kiện
dẫn đến nỗi oan khuất của Vũ Nơng. Hiện nay , ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam vẫn
còn miếu thờ Vũ Nơng. Cái chết bi thảm của nàng đã từng làm rung động bao tâm
hồn thi sĩ, để lại nhiều bài thơ viếng Vũ Thị rất hay, nh bài thơ của Lê Thánh Tông.
Lại bài viếng Vũ Thị
Nghi ngút đầu nghềnh toả khói hơng,
Miếu ai nh miếu vợ chàng Trơng.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nớc chi lo luỵ đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trơng khéo phũ phàng.
(Trích Hồng Đức quốc âm thi tập- Lê Thánh Tông)
II. Cảm nhận về tác phẩm:
Cuộc đời Vũ Nơng tuy ngắn ngủi nhng nàng đã kịp làm tròn nghĩa vụ của
một phận đàn bà: làm con, làm dâu, làm vợ và làm mẹ. Mọi nỗi gian lao vất vả, nào
sinh đẻ không ai đỡ đần, nào là một thân vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc thuốc
thang cho mẹ chồng già yếu..., rồi khi mẹ chồng nằm xuống lại một mình lo việc
ma chay tế lễ, chôn cất..., tất cả những công việc đó, đối với nàng, nào đáng kể chi,
miễn là có ngày hội ngộ, chồng sẽ trở về, có đợc cuộc sống sum họp gia đình. Đến
công danh, nàng cũng chẳng màng. Mong mỏi bao trùm cả cuộc đời nàng là cái
thú vui nghi gia, nghi thất, vợ chồng đoàn tụ, con cái sum vầy, đợc làm vợ, làm mẹ,
đợc sống hạnh phúc !.
Sau ba năm chờ đợi, Trơng Sinh trở về với hai chữ bình yên nh nàng ớc
nguyện. Hạnh phúc đang mỉm cời, ớc mơ đang đi vào hiện thực, thì oái oăm thay
cho cuộc đời: Ngày sum họp cũng là ngày nàng phải vĩnh viễn xa lìa tổ ấm. Và đau
đớn hơn nữa,kẻ đẩy nàng vào cái chết bi thảm không phải ai xa lạ, mà chính là ngời
chồng mà nàng hằng ba năm giữ gìn một tiết đợi chờ và đứa con trai duy nhất mà
nàng suốt ba năm nâng niu bú mớm.Hai ngời thân thiết nhất, gần gũi nhất ấy,
những con ngời mà nàng đã bao vất vả nhọc nhằn hy sinh, đã hết mực yêu thơng lại
là những kẻ gây ra oan trái cho cuộc đời nàng. Đứa trẻ thì ngây thơ .Còn ngời chồng
thì cả ghen, hàm hồ và mù quáng.
Là ngời cùng làng, chàng thừa biết đức hạnh của vợ. Bởi mến vì dung
hạnhcủa nàng, chàng mới xin với mẹ đem trăm lạng vàng cới về. Nhng, ghen tuông
là ghen tuông! Cái tâm lý ghen tuông đã gây nên biết bao oan nguyệt trên đời. Mà
Vũ Nơng không ngoài lệ. Dù mới cới nhau, biết tính đa nghi, Trơng Sinh đã phòng
ngừa quá sức. Nhng khi đó, hai ngời còn ở bên nhau và nàng vẫn giữ gìn khuôn
phép nên không xảy ra chuyện thất hoà. Nay có một khoảng trống về thời gian và
cả không gian: ba năm xa cách. Chàng không thể kiểm soát đợc tất cả những hành
động của vợ. Ghen tuông thờng đa nghi. Đa nghi dễ dẫn đến định kiến trong nhận
thức, do đó, chỉ cần một cớ rất nhỏ, có thể tởng tợng ra một sự việc cực kỳ nghiêm
trọng, một sự phản bội ô nhục làm bại hoại gia phong. Cái định kiến hàm hồ của
tính ghen tuông từ bao đời nay thờng dẫn đến tan cửa nát nhà và oan khiên giáng
xuống.
ở đây, ta cũng nên có một chút cảm thông với Trơng Sinh. Ba năm của đời
lính đã làm chàng mệt mỏi chán chờng. Về đến nhà, lại cảnh bi thơng: Cha về, bà
đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi ! Nỗi buồn khổ tái tê đè nặng lên trái tim anh
lính Trơng Sinh. Nếu nh đối với Vũ Nơng, chỗ dựa để có thể tồn tại đợc là con và
chồng, thì đối với Trơng Sinh, chỗ dựa ấy lại là con và vợ. Thế mà, hình nh có một
ngời đàn ông nào đó không rõ lai lịch đã len lỏi vào gia đình chàng, đã chiếm mất
tình cảm cha con chàng: Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ? Ông lại biết nói, chứ
không nh cha tôi trớc kia chỉ nín thin thít . Đứa bé đã có hai ngời cha: một ngời
xuất hiện khi chàng vắng nhà, một ngời là chàng. Sự nghi ngờ vợ không có gì gỡ
ra đợc. Đứa bé không biết nói dối, nhất là đứa trẻ lên ba. Dân gian thờng dạy: đi
hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Trẻ thì còn mà già đã mất. Chàng tin con mình. Mọi chi tiết
của đứa bé cung cấp đều chứng tỏ ngời đàn ông kia hành tung hết sức mờ ám, bí
hiểm: đêm nào cũng đến, chỉ nín thin thít, chẳng bao giờ bế Đản cả. Đã thế họ lại
xoắn xuýt bên nhau: mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi. Những bí ẩn về
ngời đàn ông đó nh những mủi dao xoáy vào tim chàng và khơi vào đúng chỗ yếu
nhất của chàng: đa nghi và cả ghen. Đã ghen, cần gì chứng cớ, huống chi nay đã
rành rành ra đấy. Cái ly kỳ trong vụ án nầy đã đẩy mâu thuẫn trong gia đình Trơng
Sinh lên đến cực điểm và châm ngòi cho quả bom ghen tuông bùng nổ. Tuy căng
thẳng nh vậy, song cái án ngoại tình nghi ngờ vợ thất tiết sẽ đợc giải quyết lập tức
chỉ cần một điều kiện cực kỳ đơn giản: Trơng Sinh cho biết, ai đã cung cấp nguồn
tin cho chàng. Nhng điều kiện đó nh thách thức thêm trái tim đang ghen tuông của
chàng. Chàng không nói ! Chàng không cần nói và không đủ can đảm nói. Cái định
kiến về vợ h đã đóng chặt trong đầu chàng rồi. Chàng không còn tỉnh táo để suy xét
lời con nói. Ngay cả những lời van xin đến rớm máu của vợ, chàng cũng chẳng
thèm để lọt tai. Cơn ghen ở anh lính nông dân không đợc học hành chỉ bùng lên ở
mức độ la um lên cho hả giận rồi ngấm ngầm dấm dứt lấy chuyện bóng gió nầy
nọ mà mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi. Vũ Nơng không thể chứng minh cho nỗi
oan của mình, họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn
thua. Và cuối cùng, nàng chỉ còn có thể lấy cái chết để giãi bày lòng mình: nàng
gieo mình xuống sông mà chết, sau khi đã có lời nguyền trớc thần Sông.
Nỗi oan của Vũ Nơng sẽ còn đeo đẳng lấy nàng mãi, nếu nh không có một
đêm tình cờ: Cha Đản lại đến kia kìa !. Ngời cha thứ hai của bé Đản- nguyên
nhân sâu xa gây ra cái chết bi thảm cho Vũ Nơng lại xuất hiện. Chàng hỏi đâu.
Nó chỉ bóng chàng ở trên vách: - Đây này ! Thì ra ngày thờng ở nhà một mình,
nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Té ra chỉ là một trò đùa !
Một trò đùa trong thơng nhớ lại dẫn đến cái chết oan khiên vì lòng ghen mù quáng.
Vợ chồng yêu nhau, quyến luyến không rời, nh hình với bóng. Nàng là hình, chàng
là bóng. Bóng với hình quấn quýt bên nhau không rời: mẹ Đản đi cũng đi, mẹ
Đản ngồi cũng ngồi. Bây giờ, nàng đã chết, hình đã mất, bóng đâu còn !... Sự lẻ loi
cô đơn và nỗi ân hận sẽ là một hình phạt dày vò Trơng Sinh suốt đời.
Lấy hình tợng cái bóng ngời: Nắng bao năm ta không bỏ bạn. Ma một
ngày bạn lại bỏ ta. Và lời nói ngây thơ của đứa con để đẩy truyện đến đỉnh điểm và
mở nút của câu chuyện là nét độc đáo riêng của Nguyễn Dữ. Tuy nhiên, công bằng
mà xét, cái bi kịch của Vũ Nơng một phần do nàng. Từ trớc, nàng đã biết Trơng
Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Vậy mà lúc chồng vắng nhà,
đặc biệt vào ban đêm, nàng lại chỉ vào bóng mình mà bảo với con đấy là cha nó. Nó
tin mẹ, nên tởng cái bóng là cha mình thật. Nào ngờ, có một ngời khác- Trơng Sinh-
cũng tự xng là cha nó. Nó ngạc nhiên là phải, vì điều vừa nghe nói, mẹ cha từng
dạy. Đầu óc ngây thơ của nó vẫn đinh ninh rằng, mình có hai ngời cha, một ngời do
mẹ chỉ cho và một ngời tự nhận.Nó nhận thấy hai ngời cha ấy rất khác nhau, nên đã
so sánh và phủ nhận.Giá nh Vũ Nơng biết đợc tâm lý của chồng, tránh đi những gì
có thể làm cho trí tởng tợngcủa sự ghen tuông ngờ vực thì đâu đến nỗi. Lấy nhau
mà không biết tính của nhau, dù thơng yêu đến đâu, không trớc thì sau bi kịch ắt
xy ra. Đó cũng là một khía cạnh mà Nguyễn Dữ muốn nói với ngời đời.
Là nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ không muốn những ngời đức hạnh, nết na
nh Vũ Nơng bị chết. Song hiện thực vẫn là hiện thực. Vũ Nơng đã chết ! để minh
oan và đền đáp sự ngay thẳng thật thà, lòng hiếu thảo, sự thuỷ chung của nàng, tác
giả đã tởng tợng ra sự hồi sinh của Vũ Nơng- nàng đã đợc các nàng tiên vớt lên, đa
về đảo tiên sống- và ông tởng tợng ra cảnh hội ngộ với Trơng Sinh. Tái hợp là một
nguyện vọng của nhân dân. Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hoà đợc hiện
thực với ớc mơ, cái tồn tại và cái ảo ảnh. Vũ Nơng trở về dơng thế, nhng chỉ hiện ra
ở giữa dòng mà nói vọng vào: Thiếp chẳng thể trở về nhân gian đợc nữ. ảo ảnh