NHỮNG CÂU CHUYỆN Ở NGÃ BA ÐỒNG LỘC
Có lẽ không ai trong chúng ta không ít nhất một lần được nghe đến địa danh "Ngã ba Ðồng Lộc",
một cái tên đã đi vào lịch sử dân tộc và gắn liền với những chiến công của các đơn vị Thanh niên
xung phong (TNXP) trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Song không phải tất cả chúng
ta đều đã có dịp đến Ngã ba Ðồng Lộc, đã nhìn thấy những gì còn lại trên mảnh đất này và đã nghe
câu chuyện về những con người ở đây trong thời kỳ máu lửa. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà
chúng tôi đã chọn Ngã Ba Ðồng Lộc làm điểm dừng chân đầu tiên trong chặng đương "Nam Tiến" của
mình.
"...Năm 1968 là năm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
thân, phía chúng ta phải trả giá bằng nhiều tổn thất. Yêu cầu tăng viện cho chiến trường vũ khí,
lương thực, xăng dầu để củng cố lực lượng, giữ vững địa bàn trở nên vô cùng cấp thiết. Thêm vào
đó, từ ném bom không hạn chế, Mỹ chuyển sang thực hiện kế hoạch ném bon hạn chế, tập trung
toàn bộ sức mạnh không quân, hải quân đánh phá ác liệt 4 tỉnh thuộc khu 4 (cũ) nhằm ngăn chặn và
cắt đứt con đường chi viện cho tiền tuyến của ta. Ðường Trường Sơn qua sông Lam, sông La đến địa
phận Hà Tĩnh phải phơi mình trống trải khoảng 50km giữa đồng bằng. Ðến ngã ba Bãi Vọt, đường
chia làm hai nhánh. Một nhánh là đường số 1 men theo bờ biển qua Ðèo Ngang, nằm hoàn toàn
trong tầm kiểm soát của máy bay địch, hầu hết các cầu lớn đều bị phá. Nhánh kia là đường 15 qua
Ngã ba Ðồng Lộc lên miền Tây Quảng Bình, vì vậy Ngã Ba Ðồng Lộc trở thành yết hầu của mạch giao
thông nối liền "hậu phương lớn miền Bắc" với "tiền tuyến lớn miền Nam". Mỹ biết được điều đó nên
đã tập trung toàn lực để cắt đứt con đường này, chỉ riêng nửa đầu năm 1968, chúng đã trút xuống
nơi đây (tập trung ở 1km vuông xung quanh Ngã Ba Ðồng Lộc) 4.200 quả bom và tên lửa các lọai,
không kể bom nổ chậm và mìn sát thương...Người ta đã thống kê rằng, mỗi mét vuông ở Ngã Ba
Ðồng Lộc phải gánh chịu ít nhất 3 quả bom TẤN. Bên địch quyết phá thì bên ta quyết giữ, chúng ta
đã tập trung mọi nguồn lực để giữ bằng được con đường này. Vào lúc cao điểm nhất, chỉ tại ngã ba
này thôi đã tập trung 1,6 vạn người, phần lớn là bộ đội pháo binh và lực lượng TNXP..."
Ðó là những gì chúng tôi đọc được trong Bảo tàng TNXP đặt ngay tại Ngã Ba Ðồng Lộc. Lúc này, cả
ngã ba chìm ngập trong mưa, một cơn mưa rất lớn, dấu hiệu của :"..dễ năm nay miền Trung lãi
ngập chìm trong nước.."như mọi người bảo nhau. Tuy nhiên, cơn mưa lớn đó không ngăn được dòng
người đổ về Ngã ba Ðồng Lộc, chúng tôi có thể thấy hàng loạt ô tô vẫn nối đuôi nhau dừng lại ở
trước cửa viện Bảo tàng. Trong tất cả những người đến đây hôm nay, hơn một nửa còn rất trẻ, có lẽ
họ giống chúng tôi, những đứa con sinh ra sau chiến tranh nhưng vẫn muốn đi tìm, vẫn muốn biết
về một thời kỳ oanh liệt mà cha ông chúng ta đã trải qua.
Trong viện Bảo tàng có một căn phòng dành riêng cho 10 cô gái TNXP ở Ngã ba Ðồng Lộc và đây
cũng là phần quan trọng nhất của bảo tàng. 10 cô gái đó là những chiến sĩ thuộc Tiểu đội 4, Ðại đội
2 Tổng đội TNXP 55 của tỉnh Hà Tĩnh do tiểu đội trưởng Võ Thị Tần chỉ huy. Tuổi đời các cô đều còn
rất trẻ, chỉ trên dưới 20, ngoài tiểu đội trưởng Võ Thị Tần thì chưa ai có người yêu. Người trẻ nhất
tiểu đội là Võ Thị Hà, lúc đôi mắt khép lại Hà mới tròn 17 tuổi.
Các cô gái TNXP này đã có mặt tại Ngã ba Ðồng Lộc vào những ngày ác liệt nhất. Thường thì mọi
hoạt động ở Ngã ba Ðồng Lộc đều diễn ra về đêm, ban ngày để mặc cho máy bay Mỹ bắn phá.
Nhưng đêm ngày 23/7/1968 có lệnh đặc biệt phải thông đường. Nhận được lệnh của Ðại đội, 10 cô
gái TNXP đã ra ngã ba giữa ban ngày với cuốc xẻng trên vai. Ra ngã ba giữa ban ngày làm nhiệm vụ,
chỉ có mấy chiếc hầm sơ sài ở chân đồi che chở, mạng sống chỉ hoàn toàn trông chờ vào sự may
mắn. Ðúng như dự đoán, sau mấy lần máy bay trinh sát điện tử A35 rẹt qua, buổi chiều hôm ấy 15
lần các tốp máy bay lao tới trút bom vào mục tiêu nhỏ xíu phía dưới ngã ba mù mịt vì khói bom, 3
lần tiểu đội các cô bị bom vùi, nhưng sau đó các cô lại rũ đất đứng lên tiếp tục công việc. Nhưng đến
lượt bom thứ 15 ấy, lúc công việc đang dở dang, một quả bom rơi ngay trước cửa hầm của họ. Một
phút trôi qua...rồi năm phút trôi qua, trên đài quan sát không thấy ai trong số mười cô rũ đất đứng
dậy. Cả trận địa lặng đi rồi òa lên tiếng khóc nức nở của những người đồng đội. Các cô đã hy sinh
rồi!...
Khi nghe kể đến đây, những người có mặt trong viện Bảo tàng đều rưng rưng nước mắt. Nhưng mọi
người thực sự òa lên khóc khi nghe người hướng dẫn viên kể chuyện về cái chết của tiểu đội phó Hồ
Thị Cúc. Sau hơn hai tiếng đồng hồ, đồng đội đã đào đất tìm được xác chín người, đặt lên 9 cái cáng
xếp hàng ngang, chỉ riêng có Hồ Thị Cúc là vẫn chưa tìm được. Cả mặt trận quyết tâm phải tìm bằng
được Cúc bởi mười cô gái đã cùng chiến đấu bên nhau, gắn bó thân thiết với nhau như chị em một
nhà, nên mọi người quyết định phải tìm bằng được Cúc rồi mới tổ chức an táng cho các cô. Nhưng 2
tiếng, 3 tiếng...và đến hết ngày hôm đó, đồng đội vẫn chưa tìm được Cúc. Ðồng đội bật khóc, nhà
thơ Yến Thanh đã viết thành một bài thơ:
Cúc ơi
Yến Thanh
Tiểu đội đã xếp một hàng ngang
Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ-Xuân-Hà-Hường-Hợi-Rạng-Xuân- Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em
(Chín bỏ làm mười răng được!)
Bọn anh đã bới tìm vết cuốc
Ðất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Ðất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng!
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp Năm em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm, cơm úp
Gọi em
Gào em
Khan cổ cả rồi
Cúc ơi!
Phải chăng hương hồn cô Cúc linh thiêng đã nghe được lời đồng đội. Ba ngày sau, đồng đội tìm thấy
thi thể cô nằm sâu trong lòng đất đá, đầu vẫn đội nón, vai vác cái cuốc, các đầu ngón tay đều thâm
tím. Mọi người bảo rằng cô đã cố gắng bới đất chui lên nhưng hầm sâu quá... Cuối cùng thì các cô
cũng lại được quây quần cùng nhau dưới lòng đất mẹ, khu mộ của các cô đặt dưới một ngọn đồi
thoai thoải, cách tượng đài chiến thắng 200 mét.
....Trời vẫn mưa như trút nước. Hương không thể cháy. Dù không thể thắp nén hương lên mộ của
mười cô gái, nhưng tất cả mọi người đều mong cho hương hồn các cô được yên nghỉ ngon giấc nơi
đây. Tên tuổi của các cô sẽ mãi mãi sống cùng với Ngã ba Đồng Lộc!
Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc
Vương Trọng
Mười bát nhang cắm thế đủ rồi
Còn hương nữa hãy dành cho người khác
Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi
Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc
Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp
Như nắng trong thung như cỏ trên đồi!
Hoa cỏ may khâu nặng ống quần, kìa!
Ơi các em cổ quàng khăn đỏ
Bên bia mộ, xếp hàng nghiêm trang thế
Thương các chị lắm phải không?
Thì hãy quay về
Tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi và bao
vùng đất khác
Các chị còn khao khát bóng cây che!
- Hai tám năm trôi qua, chúng tôi
không thêm một tuổi nào
Ba lần chuyển chỗ nằm, lại trở về Đồng Lộc
Thương nhớ chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc
Về bón chăm cho lúa được mùa hơn
Bữa ăn cuối cùng mười chị em không có gạo
Nắm mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường!
- Cần gì ư? lời ai hỏi trong chiều
Chúng tôi chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày bom vùi tóc tai bết đất
Nằm trong mộ rồi mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc lên vài cây bồ kết
Hương chia đều trong hư ảo khói nhang..
Phạm Quang Minh