Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN NGỮ VĂN LỚP 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.43 KB, 18 trang )

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN VĨNH TƯỜNG
TRƯỜNG THCS YÊN LẬP
---------------------------

CHUYÊN ĐỀ

PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN NGỮ
VĂN LỚP 6
(PHẦN TIẾNG VIỆT)
GV: LÊ THỊ THU PHƯƠNG
Trường THCS Yên Lập- Vĩnh Tường

Vĩnh Tường, tháng 10 năm 2019

1


I. TÁC GIẢ CHUYÊN ĐỀ: Lê Thị Thu Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Yên Lập- Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc.
II. TÊN CHUYÊN ĐỀ: “ Phụ đạo học sinh yếu kém môn ngữ văn lớp 6- Phần
Tiếng Việt”.
III. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CỦA NHÀ TRƯỜNG SO
VỚI TOÀN HUYỆN, TỈNH NĂM HỌC 2018 – 2019
1. Chất lượng chung của toàn trường.
Năm học 2018-2019 nhà trường có 12 lớp với tổng số 530 học sinh kết
quả xếp hai mặt giáo dục như sau:
Học lực
- Giỏi
105/530 HS = 19,81%
- Khá


247/530 HS = 46,61%
- TB
178/530 HS = 33,58%
- Yếu
0/530 HS = 0,00%
Hạnh kiểm
- Tốt
506/530 HS = 95,47%
- Khá
24/530 HS = 4,53%
- TB
0 HS = 0,0%
- Yếu
0 HS = 0,0%
* Kết quả thi vào THPT của trường so sánh trong phạm vi huyện và trong
phạm vi toàn tỉnh năm học 2018- 2019:
Năm học 2018-2019, số học sinh thi vào THPT là 129/129HS tỉ lệ 100%.
Kết quả cụ thể như sau:
- Kết quả thi vào lớp 10 THPT:
+ Xếp thứ 16 huyện.
+ Xếp thứ 41 tỉnh.
- Môn Ngữ Văn: Kết quả thi đạt ĐTB là 5,07 điểm, xếp thứ 17 trong huyện, thứ
52 toàn tỉnh.
2. Tình hình học tập môn Ngữ văn 6:
Năm học 2018- 2019 tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 6,
qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy nhiều em vẫn còn rất yếu kém trong việc
học tập bộ môn. Đặc biệt phần Tiếng Việt các em còn hạn chế về cách dùng từ,
cách diễn đạt. Tôi đã cho các em làm bài khảo sát phần Tiếng Việt đầu năm và
giữa học kì I. Kết quả là:


Khối

Bài

TSố

VĂN 6
2


khảo
sát

6

Đầu
năm
Giữa
kỳ I

HS

Dự
thi

136

136

136


136

0
<2

2
<4

4
<5

5
<7

7
<8

8
<10

10

4

13

36

59


12

12

0

2

9

19

49

34

25

0

3. Nguyên nhân vẫn còn tỉ lệ học sinh yếu kém:
Từ thực tế giảng dạy với kết quả khảo sát đầu năm của bộ môn và các
khối lớp của nhà trường tronng năm học 2018-2019, chúng tôi xác định những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng học sinh có sức học trung bình, yếu,
kém.
3.1 Về phía học sinh
Nguyên nhân chủ quan:
Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh
yếu kém có thể kể đến là do:

- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận,
với chương trình học tập hiện nay, để có thể học tốt, đặc biệt là các môn như
Toán, Văn, Anh… thì để việc học tập có kết quả đòi hỏi trước đó học sinh phải
vốn kiến thức nhất định. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh đã không có
được những vốn kiến thức cơ bản ngay từ lớp nhỏ, từ đó càng lên các lớp lớn
hơn, học những kiến thức mới có kiên quan đến những kiến thức cũ thì học sinh
đã quên hết cho nên việc tiếp thu kiến thức mới trở thành điều rất khó khăn đối
với các em.
- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em
học sinh yếu kém là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên
tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, không làm bài
tập, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em
không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp,
nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy vở
ra “học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương
pháp và động cơ học tập đúng đắn. Học sinh không dành thời gian cho việc học
bài cũ, chuẩn bị bài mới,các em chỉ học đối phó còn trông chờ thầy cô giải giúp.
- Chưa nắm được phương pháp học tập: Các em vừa từ tiểu học lên cấp 2 chưa
quen với phương pháp học tập mới. Khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh còn
hạn chế chưa mạnh dạn phát biểu thiếu tự tin trong học tập do hiểu chưa sâu,
nắm kiến thức chưa chắc; đôi khi hay mặc cảm không dám hỏi thầy cô hoặc bạn
bè.
3


- Đa số học sinh yếu kém hay ỷ lại vào sách tham khảo, sách hướng dẫn, sách
giải có sẵn ngoài thị trường, không chịu đầu tư tìm hiểu.
- Do sức khỏe yếu, khả năng nhận thức hạn chế, tiếp thu chậm: Một số em thể
trạng yếu, không thích nghi với điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột dễ
mắc bệnh dẫn đến phải nghỉ học, đến khi khỏi bệnh đi học lại thì tiếp thu không

kịp bài. Hoặc một số em có bệnh bẩm sinh, trí tuệ kém thông minh cũng là
nguyên nhân dẫn đến yếu kém.
Nguyên nhân khách quan
- Xã hội phát triển, nhiều trò chơi giải trí vô bổ như games, chat qua mạng, tin
nhắn điện thoại đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học của các em.
- Điều kiện học tập của học sinh thời nay tốt hơn trước rất nhiều. Ngoài sách
giáo khoa, học sinh còn được trang bị khá nhiều loại sách tham khảo, sách nâng
cao… Phải chăng do bị “bội thực” từ các loại sách tham khảo nên nhiều em
không hề biết cách tự học, tự sáng tạo, tự đào sâu kiến thức.
3.2 Về phía giáo viên
- Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học sinh yếu
kém không theo kịp.
- Giáo viên sợ không khống chế được thời gian nên còn mang tính hình thức, áp
đặt kiến thức cho học sinh khá giỏi, chưa quan tâm đến học sinh yếu kém. Dẫn
đến việc học tập của học sinh bị thụ động và không phát huy được khả năng chịu
khó trong học tập.
- Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hoá học sinh yếu kém, không gây
hứng thú cho học sinh thích học môn mình...
- Thực tế cho thấy, mấy năm gần đây chương trình giáo dục ở bậc Tiểu
học không kiểm tra, đánh giá và cho điểm thường xuyên mà chỉ nhận xét mang
tính khích lệ. Ngoài ra giáo viên còn không được giao bài tập cho học sinh về
nhà, chính vì vậy mà các em không có sự cố gắng trong học tập. Nhưng khi lên
cấp hai các em phải kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì nên chưa quen
với cách học ở cấp 2.
3.3 Về phía phụ huynh: Còn một số phụ huynh HS:
- Thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em. Phó mặc mọi việc cho nhà
trường và thầy cô.
- Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế (bố mẹ mải đi làm ăn, không
có thời gian quan tâm việc học của con.) hoặc đời sống tình cảm (Bố mẹ hay cãi
vã nhau, li thân, li hôn...) cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc học của trẻ, thường là

ảnh hưởng tiêu cực, trẻ dễ buồn bã, chán nản, tự ti.. Từ đó khiến trẻ không chú
tâm vào học tập, dần dần sa sút, không theo kịp bạn bè. Hậu quả ắt dẫn đến sự
yếu kém trong học tập của các em.

4


- Một số gia đình có khả năng về điều kiện kinh tế nhưng không quan tâm đến
việc học hành của con em hàng ngày, không biết được thời gian học của
các em bắt đầu lúc mấy giờ và kết thúc khi nào, thời khóa biểu hôm nay có
mấy tiết gồm những môn gì? Không đôn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện
học tập cho các em, họ cứ nghĩ học đến đâu hay đến đó, thích học thì cho
học, chán thì cho nghỉ.
- Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh
lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, đi du lịch, giả vờ ốm,...) cha
mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém.
Trước tình hình như vậy tôi đã xây dựng chuyên đề: “ Phụ đạo học sinh
yếu kém môn Ngữ văn lớp 6 - phần Tiếng Việt” nhằm giảm tỉ lệ học sinh yếu
kém nâng cao chất lượng giáo dục.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI LƯỢNG.
- Đối tượng: Học sinh yếu kém môn Ngữ văn lớp 6.
- Thời lượng: Dự kiến thời lượng dạy phụ đạo là 12 tiết.
V. HỆ THỐNG CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ.
Hiện nay một bộ phận học sinh học yếu phần Tiếng Việt do các em còn
yếu về việc nhận diện từ, câu, chưa biết vận dụng từ câu trong khi nói và viết.
Chính vì vậy tôi đưa ra một số dạng bài tập như sau:
Dạng 1: Bài tập nhận diện từ.
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận biết và
thông hiểu những kiến thức cơ bản về khái niệm về từ, nghĩa của từ, từ loại

trong phần tiếng Việt lớp 6.
Ở dạng bài tập này giáo viên đặt các câu hỏi để kiểm tra trí nhớ của học sinh
về các dữ liệu, số liệu, các định nghĩa,. . .
Việc trả lời các câu hỏi này giúp học sinh ôn lại được những gì đã học, đã
đọc hoặc đã trải qua.
Các từ để hỏi thường là:
- Tìm. . .
- Cái gì?
- Bao nhiêu?
- Cái nào?
- Em biết những gì về?
- Khi nào?
- Bao giờ?
- Hãy mô tả?
Dạng 2: Bài tập giải nghĩa từ.

5


Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận biết và
thông hiểu những kiến thức cơ bản về nghĩa của từ trong phần tiếng Việt
lớp 6.
Ở dạng bài tập này giáo viên đặt các câu hỏi để kiểm tra cách học sinh
liên hệ, kết nối các dữ liệu, số liệu, tên tuổi, địa điểm, các định nghĩa…
Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng diễn tả bằng lời
nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội
dung đang học.
Các cụm từ để hỏi thường là:
- Từ (yếu tố) .... nghĩa là gì?
- Nêu?

- Hãy xác định.
- Hãy phân biệt.
Dạng 3: Bài tập đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng từ (Từ ghép, từ láy, danh từ,
động từ,…)
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh hiểu và vận dụng
những kiến thức cơ bản về các kiến thức đã học về cấu tạo từ, nghĩa của từ
để đặt câu phù hợp với yêu câu.
Các cụm từ trong mệnh lệnh để yêu cầu thường là:
- Hãy đặt câu ...
- Hãy viết câu ...
- Hãy tạo câu …
Dạng 4: Bài tập về biện pháp tu từ.
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận diện, thông
hiểu và vận dụng những kiến thức cơ bản về các kiến thức đã học về các
biện pháp tu từ để viết các đoạn văn bản ngắn theo yêu cầu.
Cụm từ thường dùng cho dạng bài tập này là:
- Viết đoạn văn ngắn từ …
- Viết một đoạn văn ngắn …
VI. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI
CÁC BÀI TẬP TRONG CHUYÊN ĐỀ:
1. Các phương pháp đặc trưng để giải các bài tập của phân môn tiếng Việt
6:
- Phương pháp vấn đáp gợi mở.
- Phương pháp thuyết trình.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp viết tích cực.
2. Các biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp
6



Ngoài các phương pháp trên để giảm tỉ lệ học sinh yếu kém tôi cũng đã
kết hợp một số biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp:
2. 1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo
cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý
thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế
để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn.
Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học
sinh sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Giáo
viên không nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngoài không cho học sinh học
tiết học đó khi học sinh không ngoan, không chép bài. Vì làm như thế học sinh
sẽ không được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học không thu hoạch
được gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh giáo dục ý thức
học tập của học sinh hoặc dùng một biện pháp giáo dục đó chứ đừng đuổi học
sinh ra ngoài trong giờ học.
Ví dụ 1: Học sinh Hạ Văn A, học sinh lớp 6C, không thích học môn văn
và các môn học khác nhưng vì bị gia đình ép buộc đi học nên đến lớp không chú
ý nghe giảng mà chỉ lo nói chuyện, làm mất trật tự trong giờ học, chọc phá bạn
bè làm cho bạn học không được. Kết quả là học sinh đó học tập kém.
Hướng giải quyết:
Trước tiên, giáo viên cần trao đổi với chính học sinh đó để tìm hiểu
nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của học sinh, đồng thời hỏi bạn bè của học
sinh đó về hoàn cảnh gia đình và sinh hoạt của học sinh. Từ đó giáo viên tìm
hiểu được nguyên nhân và thường xuyên gần gũi, khuyên nhủ học sinh về thái
độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức
học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh nhận thấy tầm
quan trọng của việc học. Bên cạnh đó, giáo viên trao đổi với gia đình, phối hợp
với gia đình giáo dục ý thức của học sinh, khuyên nhủ gia đình không nên quá
gò ép học sinh mà từ từ hướng dẫn học sinh học tập, thường xuyên gần gũi giúp

đỡ em để em thấy được sự quan tâm của gia đình mà phấn đấu.
2. 2. Kèm cặp học sinh yếu kém:
Ngay từ đầu năm, giáo viên phải lập danh sách học sinh yếu kém bộ môn
mình ở năm học trước để nắm rõ các đối tượng học sinh, lập danh sách học sinh
yếu kém và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết học
như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời, khen ngợi khi các em trả lời đúng…
Tổ chức các nhóm học tập cho học sinh, trong nhóm có đủ các đối tượng
học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu kém. Lên kế hoạch cụ thể cho các nhóm học
sinh này hoạt động và thường xuyên theo dõi, đôn đốc, và thường xuyên kiểm
tra các nhóm để có thể nắm bắt kịp thời tình hình của học sinh.
7


Tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém: lập danh sách học sinh học
yếu kém lên kế hoạch dạy phụ đạo cho các em, một mặt là giúp các em có thể
nêu lên những thắc mắc của các em về những điều các em chưa hiểu trong tiết
học chính khóa để giáo viên có thể giải đáp cho học sinh đồng thời hướng dẫn
cho học sinh làm bài tập. Mặt khác, ở buổi học phụ đạo này, giáo viên từng bước
bồi dưỡng cho học sinh, từng bước lấp đầy những chổ hỏng kiến thức của học
sinh, giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản nhất về chương trình học.
Khi thực hiện việc dạy phụ đạo, giáo viên phải thường xuyên theo dõi kiểm tra
học sinh để luôn nắm được tình hình học tập của các em, từ đó giáo viên rút
kinh nghiệm cho những giờ học sau.
Ví dụ 2: Trong lớp 6C có vài học sinh học yếu môn Ngữ văn do là ở
những lớp trước học sinh không nắm rõ các kiến thức cơ bản, khi lên các lớp sau
học sinh học tới những kiến thức mới có liên quan đến kiến thức lớp dưới thì
học sinh không nhớ nên không thể hiểu được nội dung của bài mới. Từ đó làm
học sinh chán nản và không thích học tập môn văn nữa. Và kết quả là học sinh
đó chỉ đạt điểm yếu qua các bài kiểm tra.
Hướng giải quyết:

Đối với giáo viên bộ môn Ngữ văn phải lập danh sách học sinh có kết quả
học tập yếu, kém. Qua quá trình giảng dạy giáo viên tìm hiểu nguyên nhân. Từ
những nguyên nhân đó, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo cho các em. Giáo viên
soạn ra các bài tập cơ bản, tập hợp các em học yếu, kém lại hướng dẫn các em
học tập. Tổ chức nhóm học tập cho học sinh trong mỗi nhóm có 1 – 2 học sinh
khá giỏi để các em giúp đỡ nhau học tập. Trong quá trình phụ đạo giáo viên
thường xuyên kiểm tra để nắm bắt kịp thời sự tiến bộ của học sinh để có hướng
dạy thích hợp hơn.
2.3. Động viên, khích lệ học sinh.
- Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời có tác động rất lớn đối với những
học sinh yếu, kém, chậm tiến bộ, tạo cho các em sự tự tin, phấn chấn trong học
tập. Bởi vì điều đó:
- Xác nhận sự tiến bộ của các em. Kích thích sự say mê hứng thú học tập, đồng
thời giúp học sinh tự tin là mình học được, mình có thể giỏi như bạn. Từ đó sữa
chữa hành vi sai lệch, kiềm chế sự bộc phát lười biếng, tập thói quen chu đáo và
cẩn thận,…
- Trong quá trình giảng dạy, chúng ta nên chú ý đến những em yếu, kém. Học
sinh yếu vào lớp thường thụ động, ít tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài, ta
nên đặt những câu hỏi dễ và tạo cơ hội cho các em trình bày ý kiến của mình.
Dù câu trả lời của các em chưa thật sự đầy đủ, trọn vẹn ý mà ta mong muốn
nhưng ta vẫn khen, tuyên dương trước lớp, động viên các em có tiến bộ để
khuyến khích các em sự tự tin khi trả lời và hứng thú học tập hơn.
8


- Ngược lại, nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập sáng tạo của học
sinh.
2. 4. Một số biện pháp đối với học sinh cá biệt.
Đối với các học sinh cá biệt thì việc giúp cho các em vươn lên là một điều
hết sức khó khăn vì các em không có ý thức học tập, vào lớp thì không chịu học

bài, không chú ý nghe giáo viên giảng bài, về nhà không chuẩn bị bài. . .
Đối với đối tượng học sinh này, giáo viên bộ môn cần phải phối hợp chặt
chẽ với giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắc nhở các em về ý thức học tập,
thường xuyên kiểm tra tập của học sinh, khi học sinh vi phạm thì giáo viên nên
kết hợp với phụ huynh để răn đe, giáo dục các em. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường và gia đình giám sát việc học nhóm, học phụ đạo của học sinh.
2. 5. Rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên:
Giáo viên cần phải không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tìm ra và vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới.
Người giáo viên dạy giỏi mới giúp cho học sinh có thể đi đến lĩnh hội tri thức
một cách dễ dàng và nhanh chóng. Giáo viên thường xuyên dự giờ trao đổi rút
kinh nghiệm một cách thẳng thắng để cùng bàn bạc tìm ra phương pháp dạy học
hay cho từng nội dung giảng dạy.
Với mức độ phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì việc giáo
viên tìm tòi học hỏi những sáng kiến kinh nghiệm của các bạn ở nơi xa cũng
không phải là một chuyện quá khó. Giáo viên chỉ cần chịu khó tìm hiểu thêm về
Internet để biết cách truy cập mạng tìm những sáng kiến kinh nghiệm về đọc để
có thể rèn luyện thêm về kĩ năng và phương pháp giảng dạy.
VII. HỆ THỐNG CÁC VÍ DỤ, BÀI TẬP CỤ THỂ CÙNG LỜI GIẢI MINH
HỌA CHO CHUYÊN ĐỀ.
Dạng 1: Bài tập nhận diện từ.
1. Nhận diện từ xét về mặt cấu tạo:
- Đối với dạng bài tập này trước hết giáo viên giúp các em nắm được về
cấu tạo từ: gồm từ đơn và từ phức.
+ Từ đơn:là từ chỉ gồm một tiếng.
+ Từ phức: là từ gồm hai hoặc nhiều tiếng. Những từ phức được tạo
ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau được gọi là từ ghép. Còn
những từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng được gọi là từ láy.
- Từ lí thuyết giúp các em nhận diện từ thông qua các bài tập.
* Lưu ý, trước khi làm bài tập giáo viên nhắc học sinh

- Đọc kỹ đầu bài.
- Xác định chính xác các yêu cầu.
- Vận dụng kiến thức đã học để trả lời từng yêu cầu cụ thể.

9


Bài 1: Hãy xác định từ ghép, từ láy trong các từ sau: Nhà máy, lom khom, cây
cối, long lanh, mênh mông, thoăn thoắt, đi đứng, mếu máo, thăm thẳm, nảy nở,
hoa hồng, cây cỏ.
Hướng dẫn giải
- Từ ghép: nhà máy, cây cối, đi đứng, nảy nở, hoa hồng, cây cỏ.
- Từ láy: lom khom, long lanh, mênh mông, thoăn thoắt, mếu máo, thăm thẳm.
* Lưu ý về sự nhầm lẫn một số từ ghép có cùng phụ âm đầu
Bài 2 : Cho đoạn văn sau: “Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền buồm lớn. Vua,
hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền.
Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn,
thuyền từ từ ra khơi”
Hãy xác định các từ ghép, từ láy trong đoạn văn?
Giải
- Các từ ghép là: thuyền buồm, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử, quan đại
thần, nét bút, mặt biển.
- Các từ láy là: nhè nhẹ, lăn tăn, từ từ.
Bài 3: Em hãy tìm các từ láy:
a) Tượng hình.
b) Tượng thanh.
c) Chỉ tâm trạng.
Gợi ý giải BT:
- Từ láy tượng hình là loại từ láy gợi hình dáng của người, vật, hiện tượng,…
Ví dụ: ngoằn ngoèo, khấp khểnh,…

- Từ láy tượng thanh là loại từ láy mô phỏng, gợi tả âm thanh trong thực tế.
Ví dụ: lách cách, rột roạt,…
- Từ láy chỉ tâm trạng là những từ láy chỉ trạng thái của người như trạng thái vui,
buồn, suy nghĩ,…
Ví dụ: bâng khuâng, thẫn thờ,…
Từ những gợi ý này học sinh cố gắng tìm càng nhiều từ láy càng tốt.
2. Nhận diện từ xét về mặt từ loại:
- Ở dạng bài tập này giáo viên cần ôn lại cho học sinh:
+ Khái niệm của các từ loại: danh từ, động từ, tính từ, số từ, lượng từ,chỉ
từ,…
+ Đặc điểm của các từ loại.
+ Đặc điểm của các cụm từ loại: Cụm danh từ,cụm động từ, cụm tính từ.
- Sau đó giúp các em vận dụng khái niệm để giải các bài tập.
Một số ví dụ:
Bài 1: Cho đoạn văn sau:

10


“ Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên
có tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía
tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền
biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Người ta gọi
chàng là Thuỷ Tinh…”
(Sơn Tinh, Thuỷ Tinh)
a, Tìm danh từ trong đoạn văn trên
b, Phân loại các danh từ vừa tìm được.
Gợi ý giải BT:
HS tự xác định các danh từ và phân loại. Trong đoạn văn các danh từ chia
làm hai loại:

- Danh từ đơn vị: dãy.
- Danh từ chỉ sự vật:
+ Danh từ chung: chàng trai, người, vùng, núi, tay, phía đông, cồn bãi, miền,
biển, gió, mưa,…
+ Danh từ riêng: Tản Viên, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh.
Bài 2: Cho các nhóm từ sau:
- nhớ, buồn, thương, vui
- Huế, Hà Nội, Việt Nam
- tròn, méo
a) Hãy cho biết từ loại của các từ trong nhóm từ trên.
b) Chuyển nhóm từ ấy sang nhóm từ loại khác bằng cách thêm vào một số từ
loại khác ở trước.
Gợi ý giải BT:
a) Xác định từ loại của các từ trong nhóm từ:
- nhớ, buồn, thương, vui: động từ.
- Huế, Hà Nội, Việt Nam: danh từ.
- tròn, méo: tính từ.
b) Chuyển nhóm từ đã cho sang nhóm từ loại khác:
- (nỗi) nhớ, (niềm) thương, (nỗi) buồn, (niềm) vui: danh từ.
- (rất) Huế, (rất) Hà Nội, (rất) Việt Nam: tính từ.
- tròn (mắt nhìn), méo (mặt): động từ.
Bài 3: Cho đoạn văn sau:
“Khi cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong một túp lều
cũ dựng dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Người ta gọi
cậu là Thạch Sanh. Năm Thạch Sanh bắt đầu biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai
thiên thần xuống dạy cho đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.”
(Thạch Sanh)
a) Tìm cụm danh từ, cụm động từ và phân tích cấu tạo của các cụm từ.
11



b) Tìm số từ và cho biết ý nghĩa của số từ.
Gợi ý giải BT:
a) Ví dụ một số cụm danh từ, học sinh tự tìm và phân tích cấu tạo các cụm danh
từ còn lại.
+ một/ túp lều/ cũ
- một: PT
- túp lều: PTT
- cũ: PS
Ví dụ một số cụm động từ, HS tự tìm và phân tích cấu tạo các cụm động từ còn
lại.
+ vừa/khôn lớn
- vừa: PT
- khôn lớn: PTT
+ sống/ lủi thủi
- sống: PT
- lủi thủi: PS
b) Số từ và ý nghĩa của số từ:
một (túp lều), một (lưỡi búa): số từ chỉ số lượng.
Dạng 2: Bài tập giải nghĩa từ.
- Ở dạng bài tập này giáo viên cũng cho học sinh:
- Ôn lại khái niệm về nghĩa của từ.
- Ôn lại về các cách giải nghĩa từ.
Từ lí thuyết giúp các em làm các bài tập có liên quan:
Bài 1: Khi giải thích từ “cầu hôn”: xin được lấy làm vợ là đã giải thích từ theo
cách nào?
A. Dùng từ trái nghĩa với từ cần được giải thích
B. Trình bày khái niệm mà từ biểu thị
C. Dùng từ đồng nghĩa với từ cần được giải thích
D. Miêu tả hành động kết hợp với trình bày khái niệm mà từ biểu thị.

Đáp án B
Bài 2: Giải nghĩa và cách dùng từ của các từ: nho nhẻ, nhỏ nhắn, nhỏ nhen.
Gợi ý:
- Nhỏ nhẻ:( nói năng, ăn uống) thong thả, chậm rãi với ý giữ gìn, từ tốn.
Ví dụ: Nói năng nhỏ nhẻ như cô dâu mới.
- Nhỏ nhắn: thường nói về hình dáng của người - nhỏ và trông cân đối dễ
thương.
Ví dụ: Chị ấy có thân hình nhỏ nhắn.
- Nhỏ nhen: thường nói về tính cách của người- tỏ ra hẹp hòi, hay chú ý đến cả
những việc nhỏ nhặt về quyền lợi tronh quan hệ đối xử.
12


Ví dụ: Ông ấy là con người nhỏ nhen.
Bài 3: Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là gì? Thế nào là nghĩa gốc, nghĩa
chuyển? Từ chân trong hai ví dụ sau, từ nào mang nghĩa gốc, từ nào mang nghĩa
chuyển?
- Anh ấy bị thương ở chân. (1)
- Ông ấy có chân trong Hội đồng quản trị. (2)
Gợi ý giải:
- Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là hiện tượng biến đổi nghĩa của từ tạo ra
những từ nhiều nghĩa.
- Nghĩa gốc là nghĩ xuất hiện từ dầu làm cơ sở hình thành các nghĩa khác.
- Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc.
- Thông thường, trong câu, từ chỉ có một nghĩa nhất định. Tuy nhiên trong một
số trường hợp, từ có thể được hiểu đồng thời theo cả nghĩa gốc lẫn nghĩachuyển.
1 - Nghĩa đen; nghĩa gốc.
2 - Nghĩa chuyển
Bài 4: Đọc kĩ đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu ở dưới:
“Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên

có tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía
tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Son Tinh. Một người ở miền
biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Người ta gọi
chàng là Thuỷ Tinh…”
(Sơn Tinh, Thuỷ Tinh)
a) Hãy giải nghĩa từ tay và cho biết từ tay trong đoạn văn trên được dùng với
nghĩa nào.
b) Đặt câu có từ tay được dùng với nghĩa chuyển.
Gợi ý
a) Giải nghĩa từ tay: là một bộ phận của cơ thể dùng để cầm nắm. Từ tay
trong đoạn văn được dùng với nghĩa gốc.
b) Đặt câu có từ tay được dùng với nghĩa chuyển.
Ví dụ: Cô ấy có tay nghề rất giỏi.
Bài 5: Đọc kĩ đoạn văn và trả lời các câu hỏi:
“Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời
từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên
bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng
trời, cuối cùng Son Tinh vẫn vững vàng mà sức Thuỷ Tinh đã kiệt. Thần Nước
đành rút quân…”
(Sơn Tinh, Thuỷ Tinh)
a) Tìm những động từ chỉ hành động của Sơn Tinh trong đoạn văn.
13


b) Những động từ ấy giúp em cảm nhận được vẻ đẹp nào của thần núi Tản Viên?
c) Từ đó viết một câu văn có sử dụng một tính từ chỉ đặc điểm tuyệt đối miêu tả
sức mạnh của Sơn Tinh.
Gợi ý giải:
a. Những động từ chỉ hành động của Sơn Tinh trong đoạn văn: nao núng, bốc,
dời, dựng, ngăn chặn, dâng.

b. Những động từ ấy giúp chúng ta cảm nhận sức mạnh phi thường của vị thần
núi Tản… Đó là tinh thần quyết tâm chống lũ lụt của người Việt cổ.
c. HS cần nắm được đặc điểm của tính từ chỉ đặc điểm tuyệt đối.
Ví dụ: Sơn Tinh, vị thần núi Tản có sức mạnh vô song.
Dạng 3: Bài tập đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng từ (Từ ghép, từ láy, danh
từ, động từ,…)
Học sinh sẽ viết các câu văn, các đoạn văn với các từ giáo viên yêu cầu.
Ví dụ:
Bài 1: Đặt câu có từ kỉ niệm là danh từ, một câu có từ kỉ niệm là động từ.
Gợi ý:
- Kỉ niệm là danh từ: chỉ những gì người ta còn nhớ về nhau hoặc những gì
người ta nhớ về nhau khi xa nhau.
Câu: Những kỉ niệm thời thơ ấu không bao giờ em quên.
- Kỉ niệm là động từ: chỉ một việc làm (đồng nghĩa với tặng).
Câu: Tớ kỉ niệm bạn chiếc bút máy.
Bài 2 : Viết đoạn văn tả cảnh (từ 5 - 7 câu) có sử dụng từ láy và từ ghép (mỗi
loại 2 từ và chỉ rõ).
Gợi ý: HS trình bày được các ý sau:
- Viết đúng, đủ số câu, từ quy định.
- Lời văn có hình ảnh, cảm xúc.
- Diễn đạt rõ ràng, chỉ rõ từ láy, từ ghép.
Bài 3: Viết đoạn văn (Khoảng 8- 10 câu) tả lại một trò chơi dân gian mà em đã
tham gia hoặc chứng kiến. Sau đó chỉ ra trong đoạn văn vừa viết một cụm danh
từ, một cụm động từ, một cụm tính từ…
Gợi ý:
- Yêu cầu về hình thức:
+ HS viết đúng một đoạn văn (bắt đầu từ chữ cái đầu tiên viết hoa lùi vào một ô
và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng).
+ Đoạn văn khoảng 8- 10 câu.
- Yêu cầu về nội dung: tả lại một trò chơi dân gian đã tham gia hoặc chứng kiến

(thả diều, bịt mắt bắt dê, ô ăn quan…).
HS cần xác định trình tự miêu tả cho hợp lí. Sau đây là một số gợi ý:
+ Giới thiệu thời gian, lí do được tham gia, chứng kiến trò chơi.
14


+ Tả địa điểm diễn ra trò chơi.
+ Tả quang cảnh chung: thời tiết, cảnh vật xung quanh: ấm áp, cây cối xanh
tươi; không khí chung: đông vui, nhộn nhịp; màu sắc: rực rỡ, tươi tắn; âm thanh
rộn ràng…
+ Tả cụ thể: tả hoạt động, tư thế, động tác, tả gương mặt, hành động, lời nói của
mọi người khi tham gia trò chơi.
- Sau đó, HS chỉ ra trong đoạn văn vừa viết một cụm danh từ, một cụm động từ,
một cụm tính từ…
Dạng 4: Bài tập về biện pháp tu từ.
Dạng bài tập này học sinh phải:
- Nêu được lại khái niệm về các phép tu từ: nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ.
- Nhận biết biện pháp tu từ đó thể hiện qua từ ngữ nào.
- Nêu được tác dụng của biện pháp tu từ.
- Viết đoạn văn có sử dụng biện pháp tu từ.
Ví dụ:
Bài 1: Chỉ ra biện pháp tu từ trong đoạn văn sau:
“Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn
xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một
nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam
dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang,…”
Gợi ý:
- Đoạn văn của Thép Mới sử dụng thành công biện pháp tu từ nhân hoá.
- Phép nhân hoá được thể hiện qua hình ảnh: Bóng tre trùm lên âu yếm làng,
bản, xóm, thôn. Phép nhân hoá được tao ra bằng cách dùng từ chỉ hoạt động của

người cho cây tre.
Bài 2: So sánh hai cách diễn đạt sau, cho biết cách diễn đạt nào hay hơn? Vì
sao?
a) Phía đông mặt trời đã lên toả ánh sáng màu hồng xuống mặt sân. Bố em xách
điếu chuẩn bị đi cày còn mẹ em tát nước. Con mèo lười hôm nay dậy sớm đang
lấy hai tay cào lên mặt, cái đầu nghênh nghênh trông thật ngộ. Con gà mái cục
ta… cục tác liên hồi, con gà trống nói luyên thuyên một lúc. Cây na sau vườn đã
có quả, cây tre toả những tán lá xuống mặt ao.
b)
Ông Trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay.
Bố em xách điếu đi cày
Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khay.
Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng.
15


Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi.
Cái Na đã tỉnh giấc rồi
Đàn Chuối đứng vỗ tay cười vui sao!
Chị Tre chải tóc bên ao…
(Trần Đăng Khoa)
Gợi ý: So sánh hai cách diễn đạt, chúng ta thấy cách diễn đạt ở (b) hay hơn, sinh
động và gợi cảm hơn.
- Cách diễn đạt ở (a): chủ yếu miêu tả đơn thuần nên chỉ có tác dụng tái hiện cụ
thể cảnh buổi sớm.
- Cách diễn đạt ở (b): khi miêu tả có sử dụng phép tu từ nhân hoá bằng cách gọi
vật như gọi người, dùng từ chỉ hoạt động, tính chất của người cho vật vì thế hay

hơn.
Bài 3: Trong câu ca dao:
Nhớ ai bồi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
a) Từ bồi hổi bồi hồi là từ gì?
b) Giải nghĩa từ bồi hổi bồi hồi?
c) Phân tích cái hay của câu thơ do phép so sánh đem lại.
Gợi ý:
Đây là từ láy chỉ mức độ cao.
b) Giải nghĩa: trạng thái có những cảm xúc, ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong cơ thể
con người.
c) Trạng thái mơ hồ, trừu tượng chỉ được bộc lộ bằng cách đưa ra hình ảnh cụ
thể: đứng đống lửa, ngồi đống than để người khác hiểu được cái mình muốn nói
một cách dễ dàng. Hình ảnh so sánh có tính chất phóng đại nên rất gợi cảm.
Bài 4: Đọc kĩ đoạn văn và trả lời câu hỏi:
“Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở trắng
xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thom như mùi mít
chín ở góc vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để
hút mật ở hoa. Chúng đuổi cà bướm. Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn
rủ nhau lặng lẽ bay đi.
Sớm. Chúng tôi tụ hội ở góc sân. Toàn chuyện trẻ em. Râm ran.”
(Duy Khán)
a. Có mấy kiểu so sánh? Tìm biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong đoạn
văn trên. Nêu tác dụng của biện pháp đó.
b. Viết một đoạn văn (khoảng 8- 10 câu) tả vẻ đẹp của miền quê, trong đoạn văn
có sử dụng hai biện pháp tu từ đã học.
Gợi ý:
16



a. Có hai kiểu so sánh:
– So sánh ngang bằng
– So sánh không ngang bằng
->Tác giả sử dụng biện pháp tu từ so sánh: hoa móng rồng bụ bẫm thơm như
mùi mít chín ở góc vườn.
–> Tác dụng của biện pháp so sánh: Làm cho câu văn sinh động, tăng sức gợi
hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Thể hiện một cách cụ thể vẻ đẹp hiền hoà, ngọt
ngào, thơm ngát của những bông hoa móng rồng trong một khu vườn quê.
b. Yêu cầu về hình thức:
+ HS viết đúng một đoạn văn (bắt đầu từ chữ cái đầu tiên viết hoa lùi vào một ô
và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng).
+ Đoạn văn khoảng 8- 10 câu.
– Yêu cầu về nội dung: tả vẻ đẹp của miền quê, trong đoạn văn có sử dụng hai
biện pháp tu từ đã học. HS cần xác định trình tự miêu tả cho hợp lí.
Sau đây là một số gợi ý:
+ Giới thiệu về miền quê.
+ Tả quang cảnh chung của miền quê: thanh bình, yên ả, tươi đẹp.
+ Tả cụ thể một số hình ảnh của miền quê; luỹ tre, hàng cau, cánh đồng, dòng
kênh,…
Sau đó, HS chỉ ra trong đoạn văn vừa viết hai biện pháp tu từ mà mình đã
tạo ra.
VIII. KẾT QUẢ SAU KHI TRIỂN KHAI CHUYÊN ĐỀ.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp như đã nêu ở
trên, qua một năm thực nghiệm, tôi thấy có sự chuyển biến rõ rệt ở các học sinh
yếu. Các em đã nắm được những kiến thức tối thiểu của chương trình. Các em
đã mạnh dạn phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài. Đặc biệt, các em đã bỏ
qua được mặc cảm tự ti, biết trao đổi với thầy cô những chỗ mình chưa hiểu. Sự
tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua điểm số, qua việc học sinh có ý thức học
bài ở lớp cũng như ở nhà. Vì thế cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà
trường, tích cực ủng hộ việc dạy học của nhà trường. Qua khảo sát bằng việc so

sánh, đối chiếu điểm của bài khảo sát đầu năm và giữa học kì I, kết quả chung
của bộ môn cuối năm tỉ lệ học sinh yếu kém đã giảm.
Kết quả bộ môn cụ thể như sau:
Môn

Tổng
số hs

Ngữ
văn 6

136

Giỏi
SL %

Khá
SL %

Trung bình
SL
%

26

68

42

19,1


50

30,9

Yếu
SL %
2

1,5

Kém
SL %
0

0,0

17


IX. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Để khắc phục tình trạng học sinh yếu kém ta vừa phải cố gắng nâng cao hiệu
quả giảng dạy ở trên lớp vừa phải tăng cường phụ đạo giúp đỡ riêng các học
sinh yếu kém (ngoài giờ chính khóa) theo các nhóm nhỏ cá biệt. Lý do là vì
trong các lớp đồng loạt, dù giáo viên có cố gắng giảng dạy sát ba loại đối tượng
đến đâu đi nữa thì việc truyền thụ kiến thức và luyện tập cũng cần phải được tiến
hành theo trình độ và nhịp chung của cả lớp, nếu quá chú ý đến đối tượng học
sinh yếu, kém thì các em giỏi, khá, trung bình sẽ buồn chán, không muốn học.
- Giáo viên phải là người chịu khó, kiên trì, không nản lòng trước sự chậm tiến

của học sinh, phải biết phát hiện ra sự tiến bộ của các em cho dù là rất nhỏ để
kịp thời động viên khuyến khích làm niềm tin cho các em cầu tiến.
Nói tóm lại, không có phương pháp nào là vạn năng, muốn khắc phục tình
trạng học sinh yếu kém, đồng thời tạo sự hứng thú, hướng niềm say mê và yêu
thích các em đến với bộ môn văn thì giáo viên phải linh hoạt kết hợp nhiều
phương pháp, phải yêu thương và giúp đỡ các em hết lòng, thực sự là người thầy
“Tận tâm, tận lực, tận tụy hết lòng vì học sinh thân yêu”. Trong việc uốn nắn
các em, giáo viên phải luôn giữ thái độ vui vẻ, thoải mái, nhẹ nhàng, không
nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, xem học sinh là con em của
mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp
giảng dạy và giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tôi luôn tâm niệm
và ghi nhớ lời Bác dạy: “Người thầy giáo không phải dạy những câu, những
chữ có sẵn mà phải dạy bằng cả tâm hồn mình”.
2. Đề xuất, kiến nghị.
Các cấp quản lí cần:
+ Cần biên soạn tài liệu, phương pháp, kinh nghiệm dạy học sinh yếu kém tập
hợp thành tài liệu phổ biến cho các giáo viên dùng chung cho toàn ngành.
+ Thống kê danh sách học sinh yếu kém của các khối lớp trong các nhà trường
(cụm chuyên môn) từ đó có những giải pháp phụ đạo tập trung, đồng bộ.
Trên đây là “Một số giải pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn
lớp 6 - phần Tiếng Việt” nhằm nâng cao chất lượng học sinh, hy vọng rằng sẽ
nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ phía đồng nghiệp giúp cho chuyên đề này
thêm hoàn thiện.
------------------------------------------------------------------------------

18




×