Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN Phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.99 KB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN NGỮ VĂN”
PHẦN I MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

Để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, trong công tác giảng dạy phụ đạo giúp đỡ học
sinh yếu kém học ngày càng tốt hơn đối với môn Văn ở trường THCS . Là một giáo
viên trực tiếp giảng dạy tôi xin đề xuất sáng kiến kinh nghiệm của mình trong quá
trình giảng dạy, mà tôi áp dụng thực tế có hiệu quả ở trường học của mình thuộc vùng
sâu , vùng xa khi điều kiện kinh tế, sự nhận thức về văn hoá của phụ huynh và học
sinh đa số còn hạn chế .
Nay tôi xin viết bài "Sáng kiến kinh nghiêm phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ
Văn" nhằm tham gia , trao đổi với đồng nghiệp trong trường nói riêng, trong các
trường THCS trong huyện nói chung, để cùng góp ý trao đổi lẫn nhau, cùng xây dựng
phương pháp dạy phụ đạo học sinh yếu kém, để có thể dần nâng cao chất lượng dạy và
học đối với học sinh và giáo viên .
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy cũng gặp không ít khó khăn trong việc phụ đạo
nâng cao chất lượng dạy và học đối với học sinh. Vì vậy, tôi muốn cùng được chia sẻ
với các đồng nghiệp trong bài "Sáng kiến kinh nghiệm phụ đạo học sinh yếu kém môn
Ngữ Văn lớp 8 ở trường THCS ".
II. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU.

Do năm học 2012 - 2013 tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công giảng
dạy Ngữ Văn lớp 8 , chính vì thế phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm này
không chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh khối 8 mà có thể áp dụng cho các khối khác
của trường trong năm học 2013 -2014.
2
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Khi đặt ra vấn đề : Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học đối với học


sinh yếu kém ở môn Ngữ Văn của học sinh lớp 8 bậc THCS ? tôi muốn các đồng
nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệmgiảng dạy , trao đổi , bàn luận để tìm ra
biện pháp thiết thực, khả thi nhất , giải quyết triệt để nhất tình trạng học sinh yếu kém
ở môn Ngữ Văn, khi học sinh chú ý đến môn học tự nhiên hơn môn học xã hội, bộc lộ
tình cảm, cảm xúc trong các bài văn còn rất hạn chế. Mục đích cuối cùng của tôi khi
viết bài sáng kiến kinh nghiệm này là mỗi giáo viên Văn sẽ đào tạo cho đất nước
những thế hệ học sinh, không chỉ thành thục về kĩ năng mà còn giàu về cảm xúc, có
tâm hồn trong sáng, nhân ái, biết vươn tới Chân - Thiện - Mĩ .
PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
I . CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

Trung học cơ sở là cấp học mang tính chất kế thừa kiến thức ở cấp Tiểu học và
khởi đầu cho việc hình thành vốn kiến thức cơ bản cho học sinh, làm nền tảng vững
chắc cho cấp học Trung học phổ thông và Cao Đẳng Đại Học. Nó tạo mối quan hệ mật
thiết giữa các môn học xã hội trong nhà trường, Ngữ Văn là một môn học quan trọng
mà ngành Giáo Dục đặc biệt quan tâm. Do đó, cần có sự nhận thức rõ giá trị thực tiễn
của môn Ngữ Văn giúp cho học sinh vận dụng kiến thức một cách sâu sắc làm nền
tảng vững chắc cho cấc cấp học sau này.

Từ những cơ sở khoa học đó , dạy học môn Ngữ Văn ở trường THCS nói chung
và dạy môn Ngữ Văn ở lớp 8 nói riêng là hết sức quan trọng, giúp học sinh có được
3
vốn kiến thức cơ bản thiết thực, giáo viên phải hệ thống hoá kiến thức cơ bản giúp học
sinh yếu kém biết được, hiểu được các kiến thức đó. Nhưng muốn để học sinh hiểu
được người giáo viên phải có lòng quyết tâm, yêu nghề, không chỉ vậy mà còn cần có
một tâm lí nhẹ nhàng, phương pháp phù hợp giảng dạy cho các đối tượng này, người
giáo viên phải vận dụng từ những khái niệm đơn giản, để học sinh biết được nhằm lấy
lại kiến thức mà các em bị hổng. Đặc biệt , khái quát kiến thức trọng tâm, cơ bản, ngắn
gọn, cô đọng làm nền tảng cho các kiến thức có liên quan vận dụng cho suốt quá trình
một năm học và cho cả các lớp trên sau này.Về phương pháp đòi hỏi người giáo viên

phải sử dụng triệt để các đồ dùng dạy hoc như tranh ảnh, sưu tầm đồ dùng dạy học
phục vụ cho bài học đó, phân chia nhóm phải đảm bảo có đủ các đối tượng như giỏi,
khá, trung bình, yếu, kém để có điều kiện trao đổi lẫn nhảu trong học tập. Để giảng
dạy, phụ đạo học sinh yếu kém đạt hiệu quả cao, người giáo viên gặp không ít những
khó khăn, vướng mắc.

Môn Ngữ Văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn : Văn học,
Tiếng việt , Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phần Văn học khi tìm hiểu một
văn bản các em học sinh khó có thể rút ra kết luận về nội dung và nghệ thuật, phần
Tiếng việt thì vốn từ vựng của các em lại ít, còn khi viết một bài văn nhiều em học
sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để "khơi gợi lòng đồng cảm nơi người
đọc" . Vì vậy để học sinh yếu kém học tốt thì người giáo viên phải gây được hứng thú
học tập, cần định hướng, giúp đỡ, hỗ trợ kiến thức cũ mà các em học sinh đã bị khuyết,
trên cơ sở đó các em có thể tự tìm hiểu ra vấn đề để vận dụng kiến thức vào bài học.
Cho nên, nhiệm vụ cần thiết của người giáo viên là phải đầu tư , nghiên cứu các
phương pháp giảng dạy áp dụng phù hợp cho từng đối tượng học sinh, đặc biệt là giáo
viên tổ chức nhóm học tập : học sinh khá, giỏi phụ đạo học sinh yếu, kém nếu được
như thế thì giúp ta từng bước nâng dần chất lượng , hiệu quả giảng dạy và học tập của
học sinh yếu kém ngày được nâng cao.
4

Trong chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 8 bậc THCS hiện nay, thực
hiện theo sách đại trà, rèn luyện kĩ năng suy luận trên cơ sở đọc - hiêủ văn bản, tìm
hiểu qua ví dụ, qua đồ dùng dạy học , qua tranh ảnh minh hoạ, qua thực tế tham quan
tìm hiểu. Để từ đó học sinh rút ra kiến thức và cách trình bày lập luận trên hệ thống
kiến thức mang tính lôgíc, tạo ra một chuỗi hệ thống kiến thức. Vậy làm thế nào để sử
dụng phương tiện phục vụ cho việc truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh
yếu kém, lĩnh hội kiến thức, thu hút khả năng tìm tòi, nghiên cứu của học sinh một
cách có hiệu quả vẫn là mối quan tâm hành đầu , là điều kiện khó nhất của giáo viên
tìm phương pháp dạy học.


Vậy, để đảm bảo việc giảng dạy phụ đạo học sinh yếu kém đạt hiệu quả thì đòi
hỏi người giáo viên có vốn kiến thức vững vàng, chịu khó học hỏi ở đồng nghiệp, các
giáo viên nhiều năm có kinh nghiệm. Về học sinh, giáo viên phải tìm hiểu về tâm lí,
hoàn cảnh gia đình, đối tượng học sinh, và phải xem đây là một vấn đề nghiêm túc cần
tìm ra những phương pháp cụ thể và áp dụng một cách đồng bộ, phù hợp với học sinh
yếu kém nhằm nâng dần chất lượng, hiệu quả giảng dạy cũng như kết quả học tập đạt
chất lượng.
II. THỰC TRẠNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Về học sinh.
Trường THCS An Phúc B là một trường ở xa trung tâm huyện so với các trường
khác, đa số là gia đình nghèo, nên các em ngoài giờ học còn phải phụ giúp gia đình
nhiều công việc ,vì vậy thời gian dành cho việc tự học còn hạn chế, phần đông trình độ
nhận thức của các bậc phụ huynh còn thấp, thậm chí có những phụ huynh còn không
biết chữ. chính vì những yếu tố trên nên nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập
của các em học sinh.
5
Qua nhiều năm thực hiện chương trình thay Sách giáo khoa, nhưng học sinh
vẫn còn lúng túngtrong việc tiếp thu kiến thức mới. Năm nay là năm tiếp tục thực
hiệncuộc vận động hai không với bốn nội dung của Bộ GD&ĐT, trong đó thể hiện rõ
ở hai nội dung với học sinh là "Tránh tiêu cực trong thi cử và tránh tình trạng học sinh
không đủ điều kiện lên lớp".

Kiến thức học sinh hiện nay còn hổng rất nhiều, mà kiến thức cũ liên quan đến
kiến thức mới. Đồng thời ý thức chịu khó học tập và mối quan tâm của phụ huynh thể
hiện chưa cao. Do tình hình thực tế chung của trường, hiện nay có một số em tính toán
vẫn chưa được nhanh nhạy, thậm chí viết chữ còn sai lỗi chính tả nhiều, đây cũng là
vấn đề khó khăn, nan giải.

Do thực tại tiết dạy 45 phút với một lượng kiến thức nhất định, đồng thời lớp

học có đủ dạng học sinh nên nếu giáo viên đầu tư nhiều cho các em học sinh yếu kém
am hiểu sâu và nhận biết rõ kiến thức dẫn đến tiết dạy trái giáo án, không đảm bảo
truyền tải hết nội dung kiến thức. Đây là một khó khăn chung của người giáo viên.
2. Về giáo viên.
Do một số giáo viên chưa chịu khó đầu tư, nghiên cứu, mày mò, tìm
hiểuđối tượng học sinh yếu kém, dẫn đến giáo viên rất ngại tổ chức cho học sinh học
nhóm, trong giờ học còn hạn chế.
Giáo viên sợ không khống ché được thời gian, nên một số giáo viên còn mang
tính hình thức, áp đặt kiến thức cho học sinh khá , giỏi, chưa quan tâm đến học sinh
yếu kém. Dẫn đến việc học tập của học sinh bị thụ động và không phát huy được khả
năng chịu khó trong học tập.
Giáo viên bộ môn còn gặp khó khăn trong việc phối hợp gặp phụ huynh để trao
đổi cụ thể về việc họpc tập của con em mìnhtại lớp, để từ đocs biện pháp phù hợp cho
6
con em mình học tốt từ nhà trường , nên việc học tập của học sinhyếu kém chưa được
nâng cao.

3. Về gia đình.
Đa số các gia đình phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn và trình độ nhận thức của
phụ huynh còn hạn chế, nên phần lớn phụ huynh chỉ quan tâm theo cách riêng của
mình như tạo điều kiện cho con em mình đến lớp. Nhưng chưa có biện pháp theo dõi
quá trình đi học, chưa có biện pháp giúp con học ở nhà, chưa kiểm tra được khả năng
tiếp thu của con em ở trường học, cũng như chưa kiểm tra thời gian học hành của con
em tại nhà. Dẫn đến chất lượng học tập không cao. Đây là những nguyên nhân không
nhỏ trong việc giảng dạy của giáo viên ở nhà trường.
Với sự đổi mới về chương trình thay SGK hiện nay và sự nhận thức của phụ
huynh còn có giới hạn nên không nắm được kịp thời về việc học tập của con em mình.
Từ đó chấp nhận thực tế chăm sóc con mình theo một phía, còn lại là giao hẳn cho
thầy, cô giáo.


4. Nhà trường:
Trường THCS An Phúc B trong năm học vừa qua đã cố gắng tạo mọi điều kiện
từ trang thiết bị đến cơ sở vật chất. chuyên môn nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho công
tác giảng dạy phụ đạo học sinh yếu kém đối với tất cả các bộ môn trong đó có môn
Ngữ Văn.
Các loại SGK, sách tham khảo và các loại sách khác nhằm phục vụ tốt cho công
tác giảng dạy và học tập của học sinh.
Nhà trường cũng đã phân công giáo viên kiêm phụ trách làm công tác thư viện,
nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh không có điều kiện mua sách giáo khoa để các
em có điều kiện học tập tốt, cũng như việc tìm hiểu kiến thức tốt vun vén cho kiến
thức cũ.Tuy nhiên, thư viện nhà trường chưa được trang bị đầy đủ các loại sách tham
7
khảo, mà chỉ có sách giáo khoa cho học sinh mượn, cũng như chỉ có đủ sách cho giáo
viên mượn , nên việc tìm hiểu còn hạn chế, chưa tạo được tính chủ động, lôi cuốn học
sinh để tìm hiểu và nâng cao kiến thức hiểu biết của học sinh.

III. NGUYÊN NHÂN.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều, song theo tôi do một số
nguyên nhân chủ yếu sau :

1. Đối với giáo viên.
Đa số giáo viên đều tận tuỵ với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học
sinh nhưng vẫn còn những hạn chế sau:
- Phương pháp giảng dạy chưa thật sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ
học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học , phương pháp
trực quan vào tiết học còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học
sinh, nhất là học sinh yếu kém.
- Một số giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúcẩn sau mõi trái tim người học.

- Do lớp học có đủ dạng học sinhnên rất khó cho giáo viên kèm cặp, theo sát
từng học sinh trong một tiết dạy.

2. Đối với học sinh.
- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thếcho
giờ học Ngữ Văn.
- Vì trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết đều làm
vuông, nên các em phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
8
- Đa số các em lười hoặc không bao giờ đọc sách , kể cả đọc văn bản, hay
đọc trước bài trong sách giáo khoa.
- Đời sống tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem
tivi, chơi điện tử, ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn,
xao nhãng việc học.
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
ĐỐI VỚI HỌC SINH YẾU KÉM Ở MÔN NGỮ VĂN.
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường, theo tôi để dạy tốt
phụ đạo học sinh yếu kém học tiến bộ đạt hiệu quả cao thì mỗi giáo viên phải hiểu rõ
những nguyên nhân thiết thực cụ thể dẫn đến học sinh yếu kém để từ đó tìm ra những
giải pháp cụ thể, thiết thực dạy học học sinh thuộc đối tượng này. Theo tôi, để thực
hiện tốt việc dạy phụ đạo học sinh yếu kém đạt hiệu quả cao, tôi xin đề xuất một số
giải pháp mang tính thiết thực áp dụng cho đối tượng học sinh ở trường tôi. Những
giải pháp này đưa ra nhằm thông qua đồng nghiệp để cùng nhau trao đổi, góp ý.
1. Về học sinh:
+ Khách quan:
- Cần cho học sinh nhận thức rõ tầm quan trọng của việc học tập đối với thực
tế sau này khi đi vào công tác.
- Chỉ ra cho học sinh thấy giá trị của việc lao động trí óc và lao động chân tay
của một chuỗi dày tương lai sau này.
+ Giá trị kiến thức môn Ngữ Văn:

- Giáo viên chỉ cho học sinh thấy giá trị đích thực của môn Ngữ Văn nó làm cơ
sở giúp và hỗ trợ rất nhiều cho các môn học khoa học xã hội, khoa học tự nhiên khác
như : Sử, Sinh, Hóa, Địa,
9
- Giúp chúng ta rất nhiều trong việc áp dụng trong thực tế, đời sống hàng
ngày
+ Tích cực chủ động trong học tập:
- Chuẩn bị tốt đồ dùng, kiến thức và xem kiến thức mới ở nhà trước khi lên lớp.
- Giáo viên giới thiệu chuẩn bị kiến thức mới ở nhà và phân chia thời gian học
tập cụ thể. Bên cạnh đó cần tổ chức thảo luận nhóm, trao đổi cùng các bạn ở gần nhà
để có điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Ở lớp biết tổ chức nhóm thảo luận trao đổi, giúp đỡ nhau, em khá kèm em yếu
để cùng nhau tiến bộ và chiếm lĩnh tri thức.

2. Giáo viên:
Để dạy tốt phụ đạo học sinh yếu kém trong lớp học đại trà giáo viên cần định
hướng nội dung, kỹ năng và phương pháp cụ thể.
+ Chuẩn bị:
- Giáo viên cho học sinh chuẩn bị tốt các đồ dùng dạy học, tranh ảnh, kiến thức
bài cũ làm nền tảng vận dụng tìm ra kiến thức mới.

- Giáo viên phân bố học sinh khá giỏi nhận nhiệm vụ cụ thể hỗ trợ, giúp đỡ dạy
kèm thêm cho học sinh yếu kém và ngồi gần để trong quá trình thảo luận nhóm trao
đổi và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đặc biệt, khi gọi một em trong nhóm nên ưu tiên
gọi những em học sinh yếu kém, đồng thời gợi mở những câu hỏi nhẹ nhàng, khi học
sinh đó trả lời được tuyên dương em đó và tuyên dương cả nhóm nhằm gây được sự
khích lệ học tập của các em đó. Đồng thời, thúc đẩy được tính đoàn kết hỗ trợ giúp
nhau trong học tập.

- Giáo viên phải biết được tâm lý học sinh yếu kém, vì kiến thức bị hổng, bị khuyết

không theo kịp kiến thức của các bạn dẫn đến ngày càng chán nản, buông thả. Từ
10
nguyên nhân đó, giáo viên phải có một tâm lý nhẹ nhàng, phóng khoáng, không gò bó,
không áp đặt, mọi tình huống luôn gợi mở. Đồng thời, ưu tiên các bài tập dễ hoặc câu
hỏi dễ cho các em học sinh yếu kém làm hoặc tra lời và luôn gợi mở, nhắc lại kiến
thức đó dẫn đến làm được bài tập hoặc trả lời được các câu hỏi. Đặc biệt, khi trả lời
cần được tuyên dương trước lớp nhằm khích ngọn lửa học tập trong lòng các em, đồng
thời đẩy mạnh tư tưởng phấn đấu trong em.
- Giáo viên tạo ra các nhóm học tập dạy kèm nhau ở nhà (phân bố các em ở nhà gần
nhau), đồng thời đưa ra thi đua ở các nhóm và tổng kết tuyên dương nhóm lớp đó sau
tiết học. Đây là một động lực mạnh thúc đẩy nhằm tạo được sự hòa nhã nhằm giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Tiến hành dạy:
Trước khi tiến hành giảng dạy bài mới giáo viên kiểm tra lại kiến thức cũ các em
yếu kém của các nhóm đã chuẩn bị ở nhà (kiến thức dặn dò ở tiết trước) để nhận xét,
so sánh và tuyên dương gây được hưng phấn khi bước vào tiết học mới.

- Trong tiết dạy giáo viên chuẩn bị các dụng cụ, tranh ảnh, hệ thống câu hỏi gợi mở
sinh động, dễ hiểu cho từng đối tượng học sinh.

- Giáo viên phải phân bố được thời gian và định hướng trước tình huống học sinh
trả lời để có hướng chủ động giải quyết, chỉ ra những sai sót, nhầm lẫn của học sinh.
Đặc biệt, cần tạo ra được tình huống nhẹ nhàng, gợi mở, gây kích thích, hưng phấn
trong học tập.

- Khi tổ chức các nhóm phải có đủ các đối tượng như khá, giỏi, yếu, kém để có
điều kiện trao đổi, hỗ trợ nhau cùng tiến bộ.
11
- Giáo viên khắc sâu kiến thức trọng tâm và cách học và lưu nhớ kiến thức dưới
dạng tổng quát cơ bản làm nền tảng cho việc vận dụng học tập và làm bài tập ở nhà.

Theo tôi để thực hiện dạy phụ đạo tốt và đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải
chịu khó đầu tư, nghiên cứu từ nhiều vấn đề.
- Chọn lựa, sử dụng các phương pháp, phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong học tập và phát huy khả năng tự học. Hoạt động hóa việc học bằng những
phương pháp dẫn dắt cho học sinh tự thân trải nghiệm chiếm lĩnh tri thức, tận dụng ưu
thế của từng phương pháp dạy học tích cực, chú trọng phương pháp dạy học. Phát hiện
và giải quyết vấn đề thiết thực, trọng tâm cơ bản cần truyền đạt.
- Tìm hiểu về đối tượng học sinh, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình để có biện
pháp hỗ trợ.
+ Củng cố:
- Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để khẳng định sự nhận thức, lĩnh hội kiến
thức của học sinh hoặc dưới dạng bài tập trắc nghiệm khách quan.
- Hệ thống hóa kiến thức dưới dạng các câu hỏi.
- Hướng dẫn về nhà.
Đây cũng là một mục tiêu quan trọng giúp học sinh định hướng được việc học ở
nhà và chuẩn bị bài trước ở nhà.

3. Nhà trường:
- Ban giám hiệu luôn có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên đúng chuyên môn và có kế
hoạch dự giờ, thăm lớp rút kinh nghiệm; tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ kiến thức kịp
thời.
- Tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ kinh phí, động viên khuyến khích giáo viên mạnh
dạn tham gia thi giáo viên dạy giỏi cấp huyên để học hỏi kinh nghiệm, sáng tạo và tự
làm đồ dùng dạy học phục vụ cho việc giảng dạy mang tính chất lâu dài và có hiệu
quả. Đảm bảo đúng, phù hợp với phương pháp dạy mới.
12

4. Gia đình:
- Cần thường xuyên quan tâm việc học tập ở trường và bố trí thời gian học ở nhà
của con em mình.

- Đi họp phụ huynh theo định kỳ, theo dõi sổ liên lạc để trao đổi với giáo viên và
nắm bắt kịp thời việc học tập của con em mình.
- Cung cấp các dụng cụ sách vở đầy đủ để các em học tốt.
V. CÁC ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ CHO GIẢI PHÁP:
- Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở, mang tính chất đơn giản, nhẹ
nhàng.
- Chuẩn bị các đồ dùng dạy học, phiếu học tập, bảng phụ, tranh ảnh sinh động,
- Chia nhóm học tập hợp lý (có đủ các đối tượng như khá, giỏi, TB, yếu, kém) để
có điều kiện hỗ trợ nhau.
- Định hình bài tập trắc nghiệm dạng nhận dạng để thông hiểu. Dạng đơn giản và
bài tạp tự luận áp dụng mang tính chất gợi mở.
- Tổ chức cho đôi bạn học tập hoặc các nhóm học ở nhà.
- Kết hợp trao đổi thường xuyên giữa phụ huynh và nhà trường về việc học tập của
học sinh để có biện pháp hỗ trợ giúp đỡ kịp thời.
VI. KẾT QUẢ.

Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi
nhận thấy chất lượng dạy và học đối với học sinh yếu kém ở môn Ngữ Văn lớp 8 năm
học 2012 - 2013 được nâng cao rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng
lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin , say mê hơnvới
sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói "Nghiệp Văn là nghiệp khổ", nhưng tôi
chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy mình sung sướng, hạnh phúc vì được
13
cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Đối với các em học sinh yếu kém, các em
bước đầu ý thức được tầm quan trọng của môn Ngữ Văn, biết bộc lộ cảm xúc, biết
dùng câu , dùng từ đúng nơi, đúng lúc.
Cụ thể qua quá trình thực thi sáng kiến kinh nghiệm này của tôi đưa vào áp dụng
giảng dạy trực tiếp ở lớp có nhiều hiệu quả như sau:
Tôi đảm nhiệm môn Ngữ Văn lớp 8A, 8B có tất cả 79 em. Kết quả thi khảo sát
đầu năm môn Ngữ Văn có tới: 10 em/79 em yếu kém. Kết quả học kỳ I: Loại yếu, kém

không còn. Kết quả cả năm hy vọng sẽ khả quan hơn so với cùng kì.
14
PHẦN III KẾT LUẬN.

I. KẾT LUẬN CHUNG.
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Ngữ
Văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại
hiện nay, khoa học-kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Ngữ Văn sẽ giữ mãi tâm hồn con
người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim
hoà cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này,
bản thân người học và người dạy sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp
dạy và học phụ đạo đối với học sinh yếu kém. Từ đó, rất hi vọng kết quả học Văn của
các em sẽ tốt hơn, các em sẽ yêu thích, ham mê học môn Ngữ Văn hơn nữa.


II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT , KIẾN NGHỊ.

1. Đối với phụ huynh.
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian
cho con cái học tập, không nên để cho các em thời gian phụ giúp công việc gia đình
nhiều hơn thời gian học của các em.
- Hướng dẫn và tạo cho con cái thói quen đọc sách, chia sẻ tư vấn , định hướng,
bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát
triển tư duy, cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống .
- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn Ngữ Văn để tìm hiểu,
nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.

2. Đối với nhà trường và phòng Giáo Dục.
15
- Tổ chức hội thảo chuyên đề nhiều hơn cho giáo viên môn Ngữ Văn để giáo

viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao
chất lượng dạy học môn Ngữ Văn.
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế đọ đãi ngộ hợp lí đối với giáo
viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn Ngữ Văn.
- Đầu tư trang thiết bị , đồ dùng dạy học , tranh ảnh, đặc biệt là đầu tư công
nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy Ngữ Văn.

3. Đối với địa phương.
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh Intenet làm ảnh hưởng đến chất lượng
học tập của học sinh.
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ
sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.

Trên đây là những kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy phụ đạo trực tiếp học
sinh yếu kém trên lớp của tôi đưa ra để cùng Hội đồng khoa học của trường, cùng các
đồng nghiệp trao đổi góp ý kiến bổ sung nhằm nâng dần chất lượng dạy học môn Ngữ
Văn trong trường học. Tuy nhiên, trong quá trình viết sáng kiến này của tôi còn rất
nhiều hạn chế và thiếu sót. Tôi xin chân thành lắng nghe sự đóng góp ý kiến quý báu
của Hội đồng khoa học trường, của Ngành, và các đồng nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn!

An Phúc, ngày… tháng…. năm……

16
Người viết
Phan Hiền Lương
17

×