ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
Phạm Văn Thành
BÁO CHÍ HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ
QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
Phạm Văn Thành
BÁO CHÍ HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ
QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Đinh Văn Hường
Hà Nội - 2019
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bài phát biểu với chủ đề Hãy để báo chí phát triển mạnh mẽ của
nguyên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-Moon nhân ngày Tự do báo chí
thế giới 3/5/2015, khẳng định, việc bảo vệ những người làm nghề báo không
chỉ là bảo vệ một trong những nền tảng của dân chủ mà cũng chính là bảo vệ
những giá trị mà Liên Hiệp Quốc đại diện. Thông điệp của Tổng thư kí đưa ra
trong bối cảnh tình trạng bạo lực nhằm vào nhà báo ngày càng gia tăng không
chỉ ở trong vùng có chiến sự mà trong cả thời bình ở nhiều quốc gia. Các nhà
báo là mục tiêu tấn công vì những sự thật mà họ nói hoặc viết để phơi bày các
vụ việc nhạy cảm như tham nhũng, buôn lậu, vi phạm pháp luật, xâm hại
quyền lợi quốc gia, công chúng. Theo Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, những vụ
tấn công này là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được trong các nỗ lực
chung để thúc đẩy an toàn, nhân phẩm và thịnh vượng cho tất cả mọi người.
Đó là trên thế giới, còn ở Việt Nam thì sao? Với vai trò là công cụ của
Đảng, Nhà nước, tiếng nói của các tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân,
báo chí đã bám sát các sự kiện xảy ra trong xã hội, phản ánh đa chiều những
vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống cũng như lột tả bản chất các hiện tượng
xung đột, mâu thuẫn xảy ra trong quá trình đi lên của đất nước. Sự tham gia
của báo chí vừa để thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người dân theo
Hiến pháp, vừa giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước với tư cách là nhân
tố chủ chốt điều hành và phân chia các nguồn lực trong xã hội. Chính vì đánh
giá rất cao vai trò của báo chí nên từ năm 1989, Quốc hội đã ban hành Luật
Báo chí nhằm tạo hành lang pháp lý cho các phóng viên, nhà báo hoạt động.
Luật này không những minh định quyền thu thập và công bố thông tin của
nhà báo mà còn nghiêm cấm tất cả những hành vi cản trở nhà báo hành nghề
đúng pháp luật. Sau đó, Luật Phòng chống tham nhũng và nhiều văn bản khác
tiếp tục cụ thể hóa quyền này của báo chí với mục tiêu tạo điều kiện tốt hơn
cho các nhà báo hoạt động, cũng là nhằm phục vụ xã hội tốt hơn.
1
Với sứ mệnh vẻ vang và trách nhiệm cao cả gánh trên vai, đội ngũ báo
chí nước ta thời gian qua đã luôn nỗ lực phấn đấu, và góp phần quan trọng
vào sự phát triển toàn diện của đất nước. Vì trách nhiệm thông tin nhanh nhạy,
chuẩn xác; vì mục đích đi đến cùng sự thật, người làm báo đã vượt qua rất
nhiều khó khăn và thử thách, thậm chí những hiểm nguy luôn rình rập để
chiến đấu bằng ngòi bút của mình chống lại những việc làm mờ ám, tiêu cực,
vạch trần những hành vi sai trái xâm hại đến lợi ích của người dân, do vậy
những kẻ có hành vi tham nhũng, trục lợi thường có những thủ đoạn đê hèn,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thậm chí tới sức khoẻ, tính mạng nhà báo, có
trường hợp rất nghiêm trọng, gây bức xúc dư luận xã hội. Trong vài năm gần
đây, hiện tượng này diễn ra ngày một nhiều, hậu quả ngày một lớn, ở tất cả
mọi vùng miền, lĩnh vực… nhưng kết quả xử lý các hành vi cản trở nhà báo
lại không tương xứng với mong muốn của các cơ quan quản lý, chỉ đạo, của
chính giới báo chí cũng như của các tầng lớp nhân dân.
Chúng ta vẫn chưa quên sự việc nhiều nhà báo đã bị hành hung khi
đang tác nghiệp trong khoảng 5 năm trở lại đây (2013 – 2018), trong đó có
một số vụ khá nghiêm trọng. Đáng lo ngại, các vụ tấn công, cản trở nhà báo
tác nghiệp có xu hướng gia tăng cả về mức độ và tần suất, thậm chí các hành
vi cản trở mang tính chất trả thù, cảnh cáo còn nhằm vào thân nhân các nhà
báo cho thấy tình trạng “coi thường hoạt động báo chí” cũng như các quy
định pháp luật nói chung đã đến mức đáng báo động. Đặc biệt tình trạng này
thường xuất hiện khi nhà báo tác nghiệp chống tiêu cực. Những kẻ liên quan
sẵn sàng bất chấp, kể cả tính mạng của nhà báo cho tới pháp luật để thực hiện
bằng được hành vi che đậy, bưng bít các hoạt động tiêu cực của mình. Với
tình trạng trên, những người làm báo có thể an tâm sử dụng ngòi bút của mình
vào các mục tiêu truyền thông chính xác và trung thực hay không? Bên cạnh
đó, không ít nhà báo dù tác nghiệp đúng quy định pháp luật nhưng đang gặp
phải nhiều rào cản trong tiếp cận thông tin, đặc biệt là thông tin về các vụ việc
liên quan chống tham nhũng, tiêu cực.
2
Vì sao lại có sự coi thường dư luận và pháp luật như vậy? Câu trả lời
rằng một phần xuất phát từ sự thờ ơ, vào cuộc một cách đối phó của một số cơ
quan chức năng khi giải quyết sự việc khiến “chìm xuồng”, rơi dần vào quên
lãng. Trên thực tế, các vụ hành hung người làm báo bị xử lý rất ít và thường
nghiêng về các biện pháp hành chính. Qua báo cáo công tác kiểm tra của Hội
Nhà báo Việt Nam nhận thấy gần đây, hầu hết các cơ quan ở địa phương đã
quan tâm xử lý việc các nhà báo bị tấn công nhưng mức xử lý đưa ra còn quá
nhẹ. Một số địa phương thậm chí còn thờ ơ, chưa làm hết trách nhiệm hoặc
làm cho qua chuyện. Chính vì sự giải quyết không thỏa đáng, mức độ xử lý
còn thấp, không đủ sức răn đe; bên cạnh đó những bất cập tồn tại trong hệ
thống pháp luật và cơ chế thực thi cũng như chưa có một quy trình tác nghiệp
và quy tắc ứng xử đúng mực của nhà báo đã góp phần làm cho vòng luẩn
quẩn tác nghiệp – bị hành hung gia tăng, kèm theo sự hung hăng, ngang nhiên
coi thường pháp luật của không ít đối tượng.
Vai trò của báo chí là rất lớn, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, là
một trong những lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực vì sự bình yên của xã hội. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài và đầy khó
khăn, thử thách. Để cuộc đấu tranh này đem lại hiệu quả cao hơn, nhà báo cần
phải được khuyến khích, động viên và rất cần được bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực
tế vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của các nhà báo chưa thực sự nhận
được sư quan tâm đúng mức của toàn xã hội. Quyền hành nghề hợp pháp của
nhà báo đã được nêu rõ trong luật định, mới đây nhất là Luật Báo chí năm 2016
đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2017. Xét về mặt hình
thức, các quy định của pháp luật về lĩnh vực này có tương đối nhiều, hệ thống cơ
quan quản lý, chỉ đạo báo chí và tổ chức của hội nghề nghiệp cũng khá đầy đủ
nhưng chưa thực sự hiệu quả, cơ chế thực thi còn nhiều lỗ hổng. Hiện tượng
phóng viên, nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp đã diễn ra từ lâu, ở nhiều vùng, do
nhiều loại đối tượng gây ra với đủ loại hậu quả.
Thường trực Thường vụ Hội Nhà báo Việt Nam hết sức coi trọng công
tác bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo. Bởi lẽ, Hội Nhà báo Việt
3
Nam có một vai trò, chức năng rất trọng yếu đó là bảo vệ quyền lợi chính
đáng của các nhà báo. Trong các quyền lợi của nhà báo thì quyền lợi tối
thượng, thiêng liêng nhất đó là quyền được làm nghề trong khuôn khổ của
pháp luật. Đó là quyền lợi tinh thần, cũng là quyền lợi thiết thân nhất. Với
chức trách ấy, Hội Nhà báo Việt Nam nói chung, các cơ quan báo chí của Hội
nói riêng luôn có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi các hội viên của mình – một
trách nhiệm nặng nề nhưng cũng hết sức thiêng liêng.
Có thể nói, việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo luôn là
vấn đề mang tính thời sự, có giá trị thực tiễn sâu sắc, cần có sự nghiên cứu kỹ
lưỡng, bàn luận thấu đáo, quan tâm thỏa đáng, phân tích làm rõ thực trạng,
các vấn đề đặt ra trong hoạt động tác nghiệp thực tiễn. Ngay tại thời điểm
người viết đề xuất ý tưởng nghiên cứu (tháng 12/2017), đã xảy ra liên tiếp các
vụ cản trở, hành hung nhà báo gây xôn xao dư luận và giống như nhiều sự
việc khác, các vụ cản trở này đa phần không tìm ra thủ phạm hoặc thủ phạm
không bị xử lý nghiêm minh.
Trước những đòi hỏi cấp thiết đang đặt ra, cũng như ý nghĩa, tầm quan
trọng cùng với vinh dự và trách nhiệm lớn lao mà đội ngũ báo chí cách mạng
nước ta đã và đang gánh vác, học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài Thông tin
bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo trên báo chí Hội Nhà báo Việt
Nam hiện nay, hi vọng có thể đưa ra cái nhìn toàn diện về vấn đề này, góp
phần kiến tạo hành lang pháp lý cần thiết để bảo vệ môi trường tác nghiệp
lành mạnh, hạn chế tình trạng xâm phạm, cản trở nhà báo tác nghiệp. Đó cũng
là trăn trở của các nhà báo, những người làm công tác quản lý báo chí và các
cấp Hội Nhà báo hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thông tin bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo đã xuất
hiện khá nhiều trên các phương tiện báo chí, truyền thông thời gian qua. Nói
đúng hơn, đây là những vấn đề không mới đối với báo giới và công chúng cả
nước. Nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, bài viết gần đây đều tập trung nêu lại các
4
vụ cản trở, hành hung nhà báo thời gian qua để kêu gọi phải bảo vệ nhà báo,
xem tác nghiệp báo chí là thi hành công vụ, phải có đường dây nóng cho nhà
báo thông tin kịp thời cho cơ quan chức năng khi bị cản trở, hành hung.
Trong Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về các hành vi cản trở tác nghiệp
báo chí, do Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Phát triển (RED
Communication) và Đại sứ quán Anh tại Việt Nam, thống kê giai đoạn 20102015 cho thấy rằng, việc đấu tranh phòng, chống hành vi cản trở báo chí tác
nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Báo cáo khẳng định, ngoài
những nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan từ phía chính các
nhà báo cũng góp phần không nhỏ, thậm chí đáng lo ngại. Cụ thể là một bộ
phận nhà báo cậy thế, nhũng nhiễu tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Trong báo
cáo này, RED đã nhận diện 12 hành vi cản trở báo chí tác nghiệp. Nghiên cứu
dựa trên ý kiến của 7,2 vạn bạn đọc của 6 tờ báo trực tuyến uy tín, đồng thời
khảo sát trực tiếp 384 nhà báo đang hành nghề. RED cho rằng, những bất cập
tồn tại trong hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi không phải là nguyên nhân
trực tiếp nhưng để hạn chế các vụ việc cản trở, góp phần xây dựng một xã hội
minh bạch thông tin, thì luật pháp đóng vai trò tối quan trọng.
PGS, TS Nguyễn Thành Lợi, trong bài viết Khi công luận lên tiếng: Vì
sao số vụ nhà báo bị hành hung không giảm? (Kỳ II), Tạp chí Người Làm
Báo, số 11/2016, cho rằng, báo chí ngày nay có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống xã hội. Sứ mệnh của người làm báo là đưa ra những thông tin
chính xác, nhanh nhạy và kịp thời đến với công chúng. Tuy nhiên, không ít
nhà báo đang phải đối mặt với những rủi ro khi bị đe dọa và hành hung. Trên
thực tế, số vụ việc các nhà báo bị đe dọa, hành hung được xử lý chỉ mới
chiếm khoảng 1/5 tổng số vụ xảy ra được báo chí phản ánh. Theo PGS, TS
Nguyễn Thành Lợi, hiện nay còn rất nhiều vụ đe dọa, cản trở nhà báo tác
nghiệp chưa được kịp thời phát hiện, xử lý, nhiều nhà báo và gia đình vẫn
từng ngày, từng giờ sống, làm việc trong sự lo lắng, thấp thỏm. Trong bài viết
này, PGS, TS Nguyễn Thành Lợi đã đề xuất một số giải pháp để ngăn chặn và
5
hạn chế tình trạng nhà báo bị cản trở, hành hung, đề nghị cơ quan chức năng
cần vào cuộc điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức có hành vi
xâm phạm hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật, nhằm đấu tranh và
răn đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật tương tự có thể tái diễn trong
tương lai.
Cùng quan điểm, nhà báo Phan Hữu Minh, Trưởng Ban Kiểm tra Hội
Nhà báo Việt Nam trong tham luận tại hội thảo Bảo vệ quyền hành nghề hợp
pháp của nhà báo do Tạp chí Người Làm Báo – Hội Nhà báo Việt Nam và
Hội Nhà báo Quảng Ngãi phối hợp tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 8/8/2017 cho
rằng, văn hóa, chuẩn mực và mức độ tuân thủ quy trình, đạo đức tác nghiệp
báo chí đã thay đổi theo chiều hướng tiêu cực. Nhà báo Phan Hữu Minh cũng
thẳng thắn cảnh báo tình trạng một số tờ báo đang khai thác lợi thế thông tin
vụ án lá cải, một số nhà báo đang hành nghề với sức mạnh của các cơ quan
chủ quản. Tình trạng lạm dụng quyền lực và sử dụng thông tin án của các cơ
quan chủ quản để quấy rối doanh nghiệp và các cơ quan địa phương đang tạo
ra những ức chế và trở thành nguyên nhân của một số vụ bạo hành nhà báo
thời gian qua.
Thực tế, không chỉ câu chuyện hành hung nhà báo mới là cản trở mà
chính sự im lặng đáng sợ, cố tình không cung cấp thông tin cho báo chí mới
thật sự đang là rào cản trở lớn trên hành trình bảo vệ niềm tin và lẽ phải của
mỗi người làm báo. Đã có nơi nhân danh “vùng cấm”, nhân danh “thông tin
mật”, nhân danh lợi ích quốc gia, an ninh quốc gia, hoặc an toàn quản lý để
không cung cấp thông tin cho báo chí.
Bàn về vấn đề trên, nhà báo Hạnh Nguyên trong bài viết Không được
“né” cung cấp thông tin cho báo chí, đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam, ngày 14/02/2017 chỉ rõ, vẫn còn hiện tượng các phóng viên chầu
chực ở nhiều cơ quan Nhà nước để mong chuyển tải những thông tin chính
thống tới bạn đọc, nhưng đáp lại là “cổng đóng, then cài”; hoặc là những lời
khất hứa: “lãnh đạo bận họp”, “người phát ngôn ốm, hẹn khi khác”…
6
Trong bài viết Cùng nhìn lại những vụ nhà báo bị hành hung, cản trở
khi tác nghiệp từ đầu năm 2017 đến nay, trên báo Pháp luật Việt Nam số ra
ngày 01/09/2017, tác giả Duy Khương - Như Trường đã thống kê có tới 5 vụ
hành hung nhà báo đã được các cơ quan báo chí đồng loạt lên tiếng nhưng
vẫn chưa được xử lý dứt điểm gây bức xúc dư luận.
Tác giả Anh Quân trong bài viết Bảo vệ nhà báo tác nghiệp đúng pháp
luật đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 18/06/2017 đề xuất một số
giải pháp bước đầu để giảm tối đa các vụ cản trở, hành hung nhà báo như: Cơ
quan báo chí cần phối hợp với cơ quan chức năng, chính quyền địa phương có
kế hoạch bảo vệ phóng viên khi tiến hành điều tra, thu thập tin tức… ở các địa
bàn dễ xảy ra nguy hiểm. Bên cạnh đó, mỗi phóng viên phải không ngừng học
hỏi, trang bị cho mình kiến thức pháp luật, nhất là nắm vững Luật Báo chí;
thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ, tránh để
xảy ra sai sót, vi phạm trong quá trình tác nghiệp.
Nhìn chung, cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có một đề tài nghiên cứu
một cách toàn diện, hệ thống và chuyên sâu về bảo vệ quyền hành nghề hợp
pháp của nhà báo. Các bài viết, bài nghiên cứu khá phong phú về mặt số
lượng chủ yếu tập trung vào các trường hợp đơn lẻ khi xảy ra vụ việc, một số
đã bước đầu đề xuất giải pháp nhưng còn khá chung chung không mang tính
tổng thể. Những bài viết, tài liệu nêu trên có tính chất tham khảo để người viết
nghiên cứu đề tài Thông tin bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo
trên báo chí Hội Nhà báo Việt Nam hiện nay nhằm phát huy những mặt tích
cực, khắc phục những của các nghiên cứu trước nhằm đề xuất các giải pháp
hiệu quả nâng cao kỹ năng tác nghiệp nghiệp, góp phần làm phong phú hơn
nguồn tài liệu trong lĩnh vực này, đồng thời bổ sung thêm kiến thức về bảo
việc vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo nói riêng, xây dựng quy trình
tác nghiệp báo chí, quy tắc ứng xử của người làm báo, ngăn ngừa những hành
vi xâm phạm thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của nhà báo, cản trở
hoạt động báo chí đúng pháp luật; đồng thời nâng cao đạo đức nghề nghiệp,
7
năng lực và trách nhiệm của nhà báo, những người quản lí báo chí, các cấp
hội và hội viên ở các cơ quan báo chí.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn báo chí học, luận văn sẽ khảo sát, nghiên
cứu đánh giá thực trạng về thông tin bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của
nhà báo trên báo chí Hội Nhà báo Việt Nam, từ đó đề xuất, kiến nghị các giải
pháp để bảo vệ quyền hành nghề của nhà báo đúng pháp luật và nâng cao đạo
đức nghề nghiệp hiện nay cũng như thời gian tiếp theo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
Nghiên cứu các tài liệu, sách tham khảo, các bài viết, các tài liệu trên
Internet; tiến hành thu thập tài liệu, khảo sát thực trạng việc sử dụng công cụ
pháp lý (hành chính, hình sự) trong việc bảo vệ quyền tác nghiệp của nhà báo;
việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; kinh nghiệm nước ngoài xử lý các hành vi cản trở nhà
báo tác nghiệp đặc biệt trên các ấn phẩm của Tạp chí Người Làm Báo, báo
Nhà báo & Công luận, các nội san, nguyệt san nghiệp vụ của một số Hội Nhà
báo địa phương qua một số trường hợp bị xâm phạm quyền hành nghề điển
hình trong 5 năm (2013 – 2018), làm sáng tỏ các khái niệm liên quan tới
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà báo trong tác nghiệp báo chí.
Khảo sát và đánh giá thực trạng, chỉ ra được cơ sở pháp lý và yêu cầu
đạo đức, kỹ năng tác nghiệp, văn hóa ứng xử của người làm báo, nhất là các
vấn đề “nóng”, “nhạy cảm”, từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi của các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tiễn.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề thông tin bảo vệ quyền hành nghề hợp
pháp của nhà báo trên báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam hiện nay.
8
5. 2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Tạp chí Người Làm Báo, báo Nhà báo & Công luận,
các nội san nghiệp vụ của một số Hội Nhà báo địa phương.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2018.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của luận văn gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu thống kê: Được sử dụng để
chứng minh làm sáng tỏ thực trạng, đánh giá những ưu điểm, hạn chế, những
thành công và các vấn đề đặt ra về tình trạng nhà báo bị xâm phạm, cản trở
quyền hành nghề hợp pháp trong thời gian qua. Ngoài ra, để đảm bảo cơ sở
thực tiễn, tính cấp thiết của các vấn đề khoa học cần giải quyết, đặc biệt để
nâng cao tính thuyết phục của các giải pháp khoa học, phương pháp phân tích,
tổng hợp số liệu thống kê được sử dụng trong các luận điểm thể hiện các
phương diện của các giải pháp đề xuất.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Được sử dụng với mục
đích khái quát, hệ thống lý thuyết về nghiên cứu thông tin đã đăng tải trên các
cơ quan báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam (Tạp chí Người Làm Báo, Báo
Nhà báo & Công luận và các nội san, nguyệt san nghiệp vụ của một số Hội
Nhà báo địa phương). Đây chính là khung lý thuyết làm cơ sở cho việc đánh
giá các kết quả khảo sát thực tế và tìm kiếm các giải pháp khoa học cho vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích nội dung: Được sử dụng vào việc phân tích
các loại hình thông tin khác nhau trên Tạp chí Người Làm Báo (Số in, số
chuyên đề, Tạp chí điện tử), Báo Nhà báo & Công luận và một số ấn phẩm
khác của các Hội Nhà báo địa phương.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Phỏng vấn lãnh đạo Hội Nhà
báo Việt Nam, các Tổng biên tập (hoặc Phó Tổng biên tập) Tạp chí Người
Làm Báo, Báo Nhà báo & Công luận về các vấn đề liên quan. Phỏng vấn các
9
phóng viên, nhà báo từng là nạn nhân bị hành hung ở các cơ quan báo chí
khác nhau.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Chọn các nhóm phóng viên, nhà báo ở
nhiều độ tuổi khác nhau bao gồm các nhà báo có thẻ tác nghiệp, nhiều năm
kinh nghiệm trong nghề, lẫn các phóng viên trẻ, chưa được cấp thẻ, tác nghiệp
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa giải trí…), tại các cơ quan báo chí khác nhau để thảo luận, chia sẻ kinh
nghiệm, đóng góp ý kiến xây dựng quy trình tác nghiệp, quy tắc ứng xử của
người làm báo.
- Phương pháp phân tích – dự báo khoa học: Nhằm dự báo xu hướng
phát triển của báo chí, về vị trí, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội nói
riêng và quyền tiếp cận thông tin của người dân nói chung.
- Phương pháp anket: Phát phiếu điều tra với khoảng 100 phiếu để thu thập
ý kiến của các phóng viên, nhà báo về những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn nghiên cứu cơ bản, có hệ thống và chuyên sâu, bổ sung
thêm cho hệ thống khái niệm và khung lý thuyết về ưu điểm và tồn tại trong
việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo và quyền tự ngôn luận
trên báo chí của công dân đã được quy định trong Luật Báo chí nước ta.
- Từ góc độ pháp lý, luận văn đã phân tích các quy định về bảo vệ nhà
báo hành nghề hợp pháp được ban hành hiện nay và hiệu quả thực thi.
7.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn giúp cho các cơ quan báo chí truyền thông, những người
người làm báo, nghiên cứu về báo chí truyền thông, học viên, sinh viên báo
chí và những ai quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của
nhà báo hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra những vấn đề còn tồn tại
của cơ chế, chính sách hạn chế vai trò, nhiệm vụ của báo chí, nhà báo trong
việc tiếp cận nguồn tin.
10
- Luận văn đã xây dựng được hệ thống các giải pháp khoa học phù hợp
với điều kiện thực tế và định hướng nâng cao vai trò, hoạt động của Hội Nhà
báo Việt Nam trong tình hình mới, qua đó nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và của toàn xã hội trong việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp
của nhà báo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được bố cục thành 3 phần chính
Chương 1: Cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý trong việc bảo vệ quyền
hành nghề hợp pháp của nhà báo
Chương 2: Nhận diện các hành vi xâm phạm, cản trở quyền hành nghề
hợp pháp của nhà báo và vai trò của báo chí Hội Nhà báo Việt Nam.
Chương 3: Những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
báo chí Hội Nhà báo Việt Nam trong việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp
của nhà báo
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm thông tin
Khái niệm thông tin được bắt nguồn từ chữ Latinh informetino, gốc của
từ tiếng Anh information. Hai tác giả Philippe Breton, Serge Proulx, trong
cuốn“Bùng nổ truyền thông: Sự ra đời một ý thức hệ mới giải thích rằng: Từ
Latin informatio, gốc của từ hiện đại “information” (thông tin), có hai hướng
nghĩa. Một, nó chỉ hành động rất cụ thể là tạo ra một hình dạng (forme). Hai,
tùy theo trạng huống, nó có nghĩa sự truyền đạt hoặc một ý tưởng, khái niệm
hay biểu tượng. Sự cùng chung sống của hai hướng nghĩa ấy, một nhằm vào
sự tạo lập cụ thể, một vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt, có vẻ tiêu biểu
cho sự phát minh của tiếng Latin1.
Có thể hiểu theo cách khác thì thông tin là sự phản ánh sự vật, sự việc,
hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động của con người trong đời
sống xã hội. Điều cơ bản là con người thông qua việc cảm nhận thông tin làm
tăng hiểu biết cho mình và tiến hành những hoạt động có ích cho cộng đồng.
Thông tin được lưu trữ trên nhiều dạng vật liệu khác nhau như được khắc trên
đá, được ghi lại trên giấy, trên bìa, trên băng từ, đĩa từ... Ngày nay, thuật ngữ
"thông tin" (information) được sử dụng khá phổ biến. Thông tin chính là tất cả
những gì mang lại hiểu biết cho con người. Con người luôn có nhu cầu thu
thập thông tin bằng nhiều cách khác nhau: đọc báo, nghe đài, xem truyền
hình, giao tiếp với người khác... Thông tin làm tăng hiểu biết của con người,
là nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.
1
Philippe Breton, Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông: Sự ra đời một ý thức hệ mới, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, tr 28 - 39.
12
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tượng vốn có của
vật chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông
tin chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện
tượng được bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự
vật khác. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại
chính là những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất
khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung
chung mà thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin
cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin
truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin cao). Như vậy, thông tin được hiểu
theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội dung thông tin; Thứ hai, đó là
phương tiện thông báo, báo tin.
Còn trong khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu “Chiến lược
phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết định số
219/2005/QĐ – TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ: “Thông tin
được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều
hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng
giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi
mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội”. Đặc biệt,
Chiến lược phát triển thông tin đã nêu lên một luận điểm quan trọng về vai
trò của thông tin trong đời sống xã hội: Sự chênh lệch về trình độ phát triển
thông tin giữa các nước là một đặc điểm về quy mô và trình độ phát triển
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Nước nào không vượt qua
được những thách thức về thông tin, nước đó mất cơ hội phát triển và có nguy
cơ mất khả năng tự chủ. Thiếu thông tin, sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra
các quyết định hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học, không
thực tiễn và trở nên kém hiệu quả.
13
Theo cuốn “Cơ sở lí luận báo chí truyền thông” của tác giả Dương
Xuân Sơn, Đinh Văn Hương, Trần Quang thì, hiện nay khoa học đã phát triển
đến trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học, thuật ngữ thông tin cũng có
những cách hiểu khác nhau khi sử dụng đến nó. Có thể phân biệt sự khác
nhau giữa ba lĩnh vực lớn có mối quan hệ hỗ trợ nhau trong truyền thông là
truyền thông đại chúng, viễn thông và tin học. Trong lĩnh vực truyền thông,
hoạt động chủ yếu dựa trên nội dung của các thông điệp, nhất là khi tiếp xúc
với công chúng. Người ta gọi là thông tin chất lượng. Trong lĩnh vực viễn
thông, hoạt động nhằm mục đích vận chuyển và bảo đảm tính chính xác của
các thông điệp, đó là tính tương tác của thông tin nhờ việc đưa vào mạng. Từ
các yêu cầu về điều kiện sản xuất trí tuệ dựa trên hình thái chính thức của các
thông tin đã ra đời bộ môn thông tin học. Có thể coi lĩnh vực này là cách xử lý
thông tin phần mềm, nghĩa là thông tin dưới hình thức số. Tóm lại, cùng sử
dụng thuật ngữ thông tin nhưng khái niệm thông tin của các nhà báo sử dụng
lại hoàn toàn khác với những khái niệm thông tin mà các nhà kĩ thuật viễn
thông xử lí hoặc thông tin mà các nhà tin học chế tạo.
Như vậy, có thể khái quát về khái niệm thông tin như sau: Thông tin là
khối lượng tri thức được sử dụng để tuyên truyền, phổ biến qua các phương
tiện kỹ thuật, các loại hình chuyển tải nhằm tác động đến những hành vi của
công chúng trong xã hội, định hướng dư luận xã hội, thực hiện chức năng
giám sát, quản lý để góp phần hoàn thiện, phát triển xã hội.
1.1.1.2. Thông tin báo chí
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng
lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính
điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng
rộng rãi và năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có
được. Theo đó, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
14
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ
hiện thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội được báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu,
khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới
công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là mục đích chủ yếu. Thông tin trở
thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo
phương thức thể hiện, người ta chia thông tin báo chí thành các loại hình:
Thông tin chủ yếu bằng chữ viết (báo in); thông tin chủ yếu bằng tiếng nói
(phát thanh); thông tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên
mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau:
có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi
là một chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác
phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách
xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin. Thuật ngữ “Thông tin”
trong hoạt động báo chí còn có cách hiểu rộng hơn, chúng còn được hiểu như
một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống
những tin tức là thông tin.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Thông tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Theo
các nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin được con người chú ý về mặt ý
nghĩa xã hội của nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những
năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Và từ đây, “Thông tin chính là những cái mới
khác với những điều đã biết”.
Hiện nay, đặc biệt trong thời đại “bùng nổ thông tin” Đảng và Nhà
nước ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thông tin. Đây không chỉ
15
là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, là một trong những công
cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nước mà còn là nơi để phản hồi
những thông tin từ nhân dân đối với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hoá
trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ cung cấp tri thức, dự báo
sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Đời sống nhân
dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao nên nhu cầu
thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn. Có thể nói, thông tin là
chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương tiện kỹ thuật để
phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện chức năng thông
tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời
sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. Và
do vậy, có một cách định nghĩa khác về thông tin như sau: Thông tin không
chỉ đơn giản là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí khi đã được
công chúng tiếp nhận.
Có thể hiểu Thông tin là phần tri thức được sử dụng để định hướng, tác
động đến những hành động tích cực và quản lý xã hội, thực hiện mục đích giữ
gìn những đặc điểm, phẩm chất, sự hoàn thiện và sự phát triển hệ thống”2
Thông tin báo chí là những thông tin được đăng tải trên các loại hình
báo chí. Thông tin báo chí có thể chia thành các cấp độ khác nhau, từ thong
tin mô tả, thông tin phân tích, thông tin khái quát và thông tin hướng dẫn.
Trong giai đoạn cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão hiện
nay, thông tin báo chí có những nét đặc thù sau:
Một là, thông tin báo chí phản ánh mọi mặt đời sống xã hội, đối tượng
phản ánh ngày càng mở rộng (ít còn “vùng cấm” như trước đây). Phản ánh là
bản chất của thông tin báo chí. Trong quá trình đó, các sự kiện của thế giới có
liên quan đến đời sống con người, phục vụ các quá trình xã hội được báo chí
2
Afanaxiep- Thông tin xã hội và định hướng xã hội, Mátxcơva, 1975, tr.33.
16
lưu giữ, tái hiện và chuyển tải trong xã hội, phục vụ các quá trình phát triển xã
hội.
Nội dung phản ánh của thông tin báo chí rất đa dạng, nhiều chiều. Thông tin
báo chí đem lại tri thức về thế giới khách quan, về sự tồn tại của xã hội, về
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới tự
nhiên; về những tri thức khoa học - công nghệ do con người tạo ra và đang
được sử dụng ngày càng có hiệu quả trong nhận thức, cải tạo thế giới; về các
thành tựu vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại…
Hai là, thông tin báo chí hiện nay là kết quả của mối quan hệ đa
phương, sự tác động chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, sự kiện tồn
tại như khách thể, bộc lộ những tín hiệu – thông tin mà mà chủ thể (nhà báo,
cơ quan báo chí) hướng tới tiếp nhận, tái tạo, xử lý và chuyển tải. Đồng thời,
hoạt động báo chí lại hướng tới khách thể tiếp nhận sản phẩm báo chí là công
chúng. Công chúng vừa là đối tượng, vừa là chủ thể trong quá trình tìm kiếm,
tiếp nhận và xử lý thông tin báo chí.
Ba là, báo chí có khối lượng thông tin chuyển tải rất lớn, hoạt động
thông tin diễn ra liên tục. Bên cạnh việc phản ánh những thông tin mang tính
đại chúng, phục vụ cho đối tượng là đông đảo các tầng lớp người trong xã hội,
báo chí còn chuyển tải thông tin cho các nhóm đối tượng đặc thù: các nhà
lãnh đạo, quản lý; giới khoa học; những người sản xuất, kinh doanh; người
già, người trẻ; đồng bào dân tộc thiểu số… Thông tin báo chí là nhu cầu rất cơ
bản của con người và xã hội. Trong thời kỳ bùng nổ thông tin, xu thế mở cửa,
hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, thông tin báo chí có vai trò ngày càng
quan trọng trong các quá trình chính trị, phát triển kinh tế, phổ biến văn hóa,
tổ chức và quản lý xã hội.
Bốn là, thông tin báo chí được coi là vũ khí tinh thần trong quá trình
xây dựng xã hội vì một mục tiêu chính trị nhất định. Thông tin báo chí phục
17
vụ trực tiếp, là công cụ và phương tiện không thể thiếu cho hoạt động chính
trị, công tác chính trị tư tưởng của các đảng chính trị. Báo chí đưa đến công
chúng những hiểu biết về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, từng bước tuyên truyền, xác lập thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn
cho các thành viên trong xã hội, đồng thời đấu tranh vạch trần những âm mưu
xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Với khả năng tác động nhanh
chóng đến mọi thành viên trong xã hội, thông tin báo chí có khả năng xâm
nhập vào các lực lượng xã hội, nâng cao năng lực, trình độ giác ngộ cách
mạng, tăng thêm niềm tin về lý tưởng cách mạng cho quần chúng nhân dân.
Năm là, thông tin báo chí phản ánh kịp thời, trung thực tâm tư, tình
cảm, thái độ của quần chúng nhân dân trước các vấn đề của đời sống xã hội.
Trong xu thế dân chủ hóa hiện nay, báo chí là kênh chuyển tải thông tin về
nguyện vọng, yêu cầu của công chúng đối với sự lãnh đạo, cách thức tổ chức,
quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước. Thông tin báo chí thể hiện vai trò quan
trọng trong quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, phát huy giá trị tinh thần
tốt đẹp của dân tộc và hoàn thiện lối sống văn hóa trong cộng đồng xã hội.
Đồng thời, thông tin báo chí phản ánh mặt trái của xã hội, những vấn đề bức
xúc của nhân dân, những hiện tượng tiêu cực, như quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, suy thoái đạo đức, lối sống... Thông tin về những hiện tượng tiêu
cực có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Thông tin báo chí đề cập đến mọi mặt của đời sống một cách xác thực,
cụ thể, tỷ mỷ. Nó đặc biệt chú ý đến những cái mới (tính thời sự) và việc phản
ánh những cái mới đó dưới một góc nhìn thể hiện lập trường của người viết.
1.1.1.3. Nhà báo
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Nhà báo, còn gọi là ký giả, là
người làm công tác báo chí chuyên nghiệp như: phóng viên, biên tập viên, thư
ký tòa soạn, Tổng Biên tập, Phó Tổng Biên tập, các trưởng ban nghiệp vụ báo
chí,... một nghề nguy hiểm nhưng họ vẫn chưa được bảo vệ đúng mức3.
3
/>
18
Nhà báo phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại
Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do
Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ
quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo4.
Đến Luật Báo chí năm 2016, tại khoản 1 Điều 25 quy định, Nhà báo là
người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo5.
Trong luật Báo chí năm 2016, quy định về đối tượng đưược cấp thẻ và
điều kiện, tiêu chuẩn được xét cấp thẻ nhà báo tại Điều 26, Điều 27. Cụ thể:
“Điều 26. Đối tượng được xét cấp thẻ nhà báo
1. Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, tổng
biên tập, phó tổng biên tập cơ quan báo chí, thông tấn.
2. Trưởng phòng (ban), phó trưởng phòng (ban) nghiệp vụ báo chí của
cơ quan báo chí, thông tấn.
3. Phóng viên, biên tập viên của cơ quan báo chí, thông tấn.
4. Người quay phim, đạo diễn chương trình phát thanh, truyền hình (trừ
phim truyện) của các đơn vị được cấp giấy phép hoạt động báo chí trong lĩnh
vực phát thanh, truyền hình và sản xuất phim tài liệu của Nhà nước.
5. Phóng viên, biên tập viên, người phụ trách công tác phóng viên, biên
tập ở đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện và tương đương.
6. Người đã được cấp thẻ nhà báo nhưng được Điều chuyển sang làm
công việc khác vẫn tiếp tục có tác phẩm báo chí được sử dụng, được cơ quan
báo chí xác nhận, được xét cấp thẻ nhà báo trong các trường hợp cụ thể sau:
a) Được Điều động công tác tại các đơn vị không trực tiếp thực hiện
nghiệp vụ báo chí của cơ quan báo chí;
b) Được Điều chuyển sang làm công tác giảng dạy chuyên ngành báo
chí tại các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật giáo dục đại học;
4
Luật Báo chí năm 1989, Điều 14
5
Luật Báo chí năm 2016, Điều 25, khoản 1.
19
c) Được Điều chuyển sang làm cán bộ chuyên trách tại hội nhà báo các
cấp, trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về báo chí.
Điều 27. Điều kiện, tiêu chuẩn được xét cấp thẻ nhà báo
1. Người công tác tại cơ quan báo chí quy định tại các Khoản 1, 2, 3 và
4 Điều 26 của Luật này được xét cấp thẻ nhà báo phải bảo đảm các Điều kiện
và tiêu chuẩn sau đây:
a) Là công dân Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam;
b) Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên; trường hợp là người dân tộc thiểu
số đang thực hiện các ấn phẩm báo in, chương trình phát thanh, truyền hình,
chuyên trang của báo điện tử bằng tiếng dân tộc thiểu số phải có bằng tốt
nghiệp cao đẳng trở lên;
c) Đối với trường hợp cấp thẻ lần đầu, phải có thời gian công tác liên
tục tại cơ quan báo chí đề nghị cấp thẻ từ 02 năm trở lên tính đến thời Điểm
xét cấp thẻ, trừ tổng biên tập tạp chí khoa học và những trường hợp khác theo
quy định của pháp luật;
d) Được cơ quan báo chí hoặc cơ quan công tác đề nghị cấp thẻ nhà
báo.
2. Những trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều 26 của Luật này được
xét cấp thẻ nhà báo phải bảo đảm Điều kiện, tiêu chuẩn quy định tại các Điểm
a, b và d Khoản 1 Điều này và phải bảo đảm các Điều kiện, tiêu chuẩn sau
đây:
a) Là cộng tác viên thường xuyên của đài phát thanh và truyền hình
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Có ít nhất mười hai tác phẩm báo chí đã được phát sóng trên đài phát
thanh và truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong 01 năm tính
đến thời Điểm xét cấp thẻ;
20
c) Đối với trường hợp cấp thẻ lần đầu, phải có thời gian công tác liên
tục tại đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện và tương đương từ 02 năm trở
lên tính đến thời Điểm xét cấp thẻ;
d) Được đài phát thanh và truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đề nghị cấp thẻ nhà báo”.
Tại Luật Báo chí năm 2016, đã đưa ra khái niệm nhà báo là người hoạt
động báo chí được cấp thẻ nhà báo, và đã tách quy định về đối tượng được
cấp thẻ và điều kiện, tiêu chuẩn được xét cấp thẻ nhà báo ra riêng từng điều,
rõ ràng và cụ thể hơn Luật Báo chí năm 1989.
1.1.1.4. Quyền hành nghề của nhà báo
Quyền hành nghề của nhà báo được quy định tại khoản 2 Điều 25, Luật
Báo chí năm 2016.
2. Nhà báo có các quyền sau đây:
a) Hoạt động báo chí trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, hoạt động báo chí ở nước ngoài theo quy định của pháp luật và được
pháp luật bảo hộ trong hoạt động nghề nghiệp;
b) Được khai thác, cung cấp và sử dụng thông tin trong hoạt động báo
chí theo quy định của pháp luật;
c) Được đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí. Khi
đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo. Các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi
bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của
pháp luật;
d) Được hoạt động nghiệp vụ báo chí tại các phiên tòa xét xử công
khai; được bố trí khu vực riêng để tác nghiệp; được liên lạc trực tiếp với
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để lấy tin, phỏng vấn theo quy
định của pháp luật;
đ) Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ báo
chí;
21
e) Khước từ việc tham gia biên soạn hoặc thể hiện tác phẩm báo chí trái
với quy định của pháp luật.
Để có thể hành nghề hợp pháp, theo quy định, nhà báo phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật. Cụ thể, ngoài các quyền nói trên thì Quyền hành
nghề hợp pháp của nhà báo còn phải gắn với nghĩa vụ của nhà báo, được quy
định tại khoản 3 Điều 25, Luật Báo chí năm 2016.
3. Nhà báo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với
lợi ích của đất nước và của Nhân dân; phản ánh ý kiến, nguyện vọng chính
đáng của Nhân dân;
b) Bảo vệ quan Điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước; phát hiện, tuyên truyền và bảo vệ nhân tố tích cực;
đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm;
c) Không được lạm dụng danh nghĩa nhà báo để sách nhiễu và làm việc
vi phạm pháp luật;
d) Phải cải chính, xin lỗi trong trường hợp thông tin sai sự thật, xuyên
tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của
cá nhân;
đ) Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người đứng đầu cơ quan
báo chí về nội dung tác phẩm báo chí của mình và về những hành vi vi phạm
pháp luật;
e) Tuân thủ quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.
Như vây, khái niệm nhà báo và quyền, nghĩa vụ của nhà báo đã được
quy định rõ ràng trong Luật Báo chí năm 2016.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến hoạt động tác nghiệp của nhà báo
1.1.2.1. Thái độ của người dân và doanh nghiệp đối với báo chí
Giai đoạn vừa qua chứng kiến chiều hướng suy giảm đáng lo ngại về
đạo đức tác nghiệp, về tính chuyên nghiệp và mức độ tuân thủ quy trình tác
nghiệp của những người làm báo. Thái độ và đánh giá của người dân, đặc biệt
22