Phá sản là vấn đề hết sức phức tạp và gây những hậu quả rất nghiêm trọng cho
xã hội. Do đó, việc giải quyết phá sản phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất
định. Thủ tục phá sản (TTPS) là một thủ tục tư pháp đặc biệt, một cách thức chủ nợ
thực hiện quyền đòi nợ khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Luật phá
sản 2004 (LPS) đã có bổ sung nhiều quy định mới về thủ tục phá sản của Doanh
nghiệp, Hợp tác xã so với luật phá sản doanh nghiệp 1993 (LPSDN). Trong phạm vi
bài làm dưới đây em xin tiếp cận một số nội dung mới của luật phá sản 2004 so với
luật phá sản doanh nghiệp 1993 như sau :
Thứ nhất, LPS 2004 đã dành riêng một điều luật để quy định về TTPS.
Điều 5. Thủ tục phá sản
1. Thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng
phá sản bao gồm: Nộp đơn yêu cầu và mở TTPS; Phục hồi hoạt động kinh doanh;
Thanh lý tài sản, các khoản nợ; Tuyên bố doanh nghiệp, HTX bị phá sản....v..v…
Theo Điều 5 LPS, TTPS là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành và
giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc
khác nhau. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục
cấu thành và giữa chúng có sự độc lập tương đối (còn LPSDN không nhìn nhận đó
là những thủ tục độc lập và mối liên hệ giữa chúng…):“Sau khi có quyết định mở
TTPS, tùy vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, HTX mà thẩm phán quyết định
áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ thục tục thanh lý
tài sản, các khoản nợ khác hoặc chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh sang thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc thủ tục tuyên bố doanh
nghiệp, HTX bị phá sản” (khoản 2 Điều 5 LPS). Chính quy định về mối quan hệ đặc
thù giữa các thủ tục cấu thành trong TTPS đó cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa
án có thể tuyên bố phá sản mà không cần thụ lí đơn yêu cầu (K1-Đ87 LPS) hoặc sau
khi thụ lí ( K2-Đ87 LPS) hoặc đình chỉ thủ tục thanh lí tài sản( Đ86 LPS) .
- Về thủ tục phục hồi: LPS quy định bổ sung về đối tượng có quyền xây dựng
phương án phục hồi, theo đó không chỉ có doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng
phá sản phải lập phương án phục hồi như LPSDN (Điều 20 LPSDN) mà bất kì chủ
nợ hay người nào nhận nhiệm vụ phục hồi đều có quyền xây dựng phương án phục
hồi. LPS cho phép kéo dài thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh (LPS thời hạn tối đa là 3 năm còn LPSDN tối đa không quá 2
năm). Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, HTX có thể phục
hồi hoạt động kinh doanh của mình.
Ngoài ra, LPS quy định thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt buộc
trước thủ tục thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu giải quyết
tuyên bố phá sản đã có nhiều con nợ ngừng hoạt động, hoàn toàn không còn khả
năng phục hồi nhưng do Luật quy định, thẩm phán vẫn phải tuần tự thực hiện các
quy định của thủ tục phục hồi. Điều này chỉ làm kéo dài thời gian vô ích, không có ý
nghĩa gì cả. Tuy nhiên LPS cũng quy định khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không
1
thể thực hiện hoặc thực hiện không thành công thì có thể chuyển sang thủ tục thanh
lý tài sản ngay (Điều 79, 80). Đây là bước phát triển về lý luận của pháp luật phá sản
nước ta, theo đó TTPS được rút gọn tiết kiệm thời gian và chi phí giải quyết phá sản.
- Ở thủ tục thanh lí tài sản: LPS đã bỏ sự ưu tiên thanh toán cho các khoản nợ thuế
(Đ37- LPS) mà xem đó như là các khoản nợ thông thường khác. Đây là quy định
hợp lí nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa chủ nợ là Nhà nước với các chủ nợ khác.
Ngoài ra LPS quy định Tòa án có thể mở thủ tục thanh lí tài sản đối với con nợ là:
thứ nhất là trong trường hợp đặc biệt (điều 78); thứ hai là khi Hội nghị chủ nợ không
thành (điều 79); thứ ba khi Doanh nghiệp, HTX không xây dựng được phương án
phục hồi sản xuất kinh doanh; và cuối cùng là khi Hội nghị chủ nợ không thông qua
phương án phục hồi sản xuất kinh doanh của Doang nghiệp, HTX ( K2-Đ80 ).
- Về quan hệ giữa thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản: LPSDN quy định phải
tuyên bố phá sản rùi sau đó mới thanh lý tài sản của doanh nghiệp, HTX. Quy định
này là bất hợp lí vì sau khi bị tuyên bố phá sản, doanh nghiệp sẽ chấm dứt hoạt động
và như vậy quyền lợi của doanh nghiệp trong việc thanh lí tài sản không được đảm
bảo. Mặt khác, do chưa thanh lí tài sản nên Tòa án khó mà xác định Doanh nghiệp
đã phá sản hay chưa. Khắc phục điểm này LPS quy định sau khi kết thúc thủ tục
thanh lí tài sản, Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản chính thức, chấm dứt hoạt
động của Doanh nghiệp, HTX. Với trình tự mới này, Doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên
bố phá sản vẫn là một chủ thể trong quá trình thanh lí tài sản, do đó quyền lợi của
doanh nghiệp sẽ được đảm bảo và doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục thực hiện các
nghĩa vụ đối với chủ nợ, Tòa án có quyết định rõ ràng trong việc tuyên bố doanh
nghiệp bị phá sản.
Thứ hai, LPS đã quy định rõ, đầy đủ và hợp lý hơn về các đối tượng có quyền,
nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu cầu mở TTPS:
- Mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở TTPS: Ngoài những chủ thể có quyền nộp
đơn yêu cầu mở TTPS như quy định của LPSDN thì LPS bổ sung một số đối tượng
khác là: chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16-LPS),cổ đông công ty cổ phần
(Điều 17-LPS) và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh (Điều 18-LPS).
- Đồng thời LPS cũng loại bỏ quy định về nghĩa vụ của các chủ nợ khi nộp đơn
yêu cầu mở TTPS phải cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn. Họ chỉ cần chứng minh chủ nợ đã đòi nợ nhưng
không được doanh nghiệp mắc nợ thanh toán nợ đến hạn. Cho phép người lao động
được quyền nộp đơn yêu cầu mở TTPS trong trường hợp doanh nghiệp, HTX khi họ
không được trả lương cũng như các khoản nợ khác và nhận thấy doanh nghiệp, HTX
lâm vào tình trạng phá sản mà không cần điều kiện “không trả được lương cho người
lao động trong thời hạn ba tháng” như quy định của LPSDN. Những quy định trên,
nhằm tạo điều kiện thúc đẩy việc làm đơn yêu cầu giải quyết phá sản, góp phần
chấm dứt tình trạng có doanh nghiệp thực chất đã không thể hoạt động trên thực tế
nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý.
Thứ ba, LPS mở rộng thẩm quyền tiến hành TTPS của Tòa án. LPSDN quy định
chỉ có Tòa án nhân dân tỉnh (TP trực thuộc TW) mới có quyền tiến hành TTPS. Quy
2
định này không phù hợp với thực tiễn khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển số
lượng doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản rất nhiều, nếu chỉ có tòa án
cấp tỉnh giải quyết thì không thể giải quyết hết các yêu cầu tuyên bố phá sản. Do đó,
LPS đã quy định thêm thẩm quyền của Tòa án cấp huyện (quận, thị xã ) thuộc tỉnh.
Thay quy định trong quá trình thực thi công việc, nếu phát hiện Doanh nghiệp,
HTX lâm vào tình trạng phá sản chỉ Tòa án mới có trách nhiệm thông báo cho
những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở TTPS như LPSDN, thì LPS quy định
thêm các cơ quan: Viện Kiểm sát, Thanh tra nhà nước, cơ quan quản lý vốn, tổ chức
kiểm toán hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là chủ sở
hữu nhà nước của doanh nghiệp cũng có quyền và nghĩa vụ đó (Điều 20 LPS). Bên
cạnh đó, LPS thành lập một tổ duy nhất gọi là tổ quản lí, thanh lí tài sản thay tổ quản
lí tài sản như LPSDN. Đồng thời LPS cũng giảm bớt thành phần tham gia của tổ
quản lí, thanh lí tài sản, bổ sung trách nhiệm của tổ trưởng tổ quản lí thanh lí tài sản.
Thứ tư, Hội nghị chủ nợ theo quy định của LPS không còn là thủ tục bắt buộc
trong tiến trình giải quyết đơn yêu cầu mở TTPS như LPSDN. Khi tiến hành TTPS
thẩm phán có thể không cần triệu tập hội nghị chủ nợ nếu thuộc trường hợp quy định
tại Điều 78 LPS. Quy định khắt khe hơn, cao hơn về điều kiện hợp lệ của hội nghị
chủ nợ, bổ sung thêm phải có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia hội nghị
chủ nợ (Điều 65). Bổ sung căn cứ để tòa án ra quyết định đình chỉ tiến hành TTPS
khi người nộp đơn yêu cầu mở TTPS rút đơn yêu cầu (Điều 67).
Thứ năm, Điều 19 LPSDN chỉ quy định một cách chung chung về tài sản của
doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản còn LPS đã có quy định chi tiết, cụ
thể về việc xác định tài sản, nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, HTX lâm vào tình
trạng phá sản tại chương III và tăng cường các biện pháp bảo toàn tài sản tại chương
IV nhằm tạo khả năng phục hồi cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bổ
sung trách nhiệm của ngân hàng, nhân viên và người lao động trong doanh nghiệp,
HTX bị mở TTPS và các quy định về tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu doanh nghiệp,
HTX lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ tài sản (Điều 27 và đình chỉ thi
hành án dân sự hoặc giải quyết vụ án (Điều 57). Đây là những quy định mới so với
LPSDN nó tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản
phục hồi hoạt động kinh doanh và thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ nợ trong vụ
việc phá sản.
LPS đã quy định một cách cụ thể và hợp lý hơn về TTPS so với LPSDN. Với
việc quy định TTPS một cách cụ thể và hợp lí như vậy tạo cơ hội cho doanh nghiệp,
HTX tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, giúp họ khắc phục những khó khăn
về tài chính để trở lại hoạt động bình thường, cũng như bảo vệ được quyền lợi của
chủ nợ, người lao động khi doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, LPS
vẫn còn một số hạn chế nhất định, TTPS đúng luật vẫn chưa thực sự phù hợp với
thực tiễn nên hiện tượng “sinh dễ, tử khó” của doanh nghiệp vẫn đang diễn ra. Do
vậy, trong thời gian tới nhà làm luật cần nghiên cứu để hoàn thiện hơn các quy định
về thủ tục phá sản nói riêng và phá sản nói chung, để LPS có thể phát huy được
đúng vai trò và mục đích của nó.
3