Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Đề cương giới và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.25 KB, 56 trang )

ĐỀ CƯƠNG GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
1. Định nghĩa Giới và Giới tính? Phân tích sự khác biệt giữa giới và giới tính? Ý
nghĩa của sự phân biệt này trong nghiên cứu xã hội học giới?
Định nghĩa rút gọn: Giới tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ.
. Hình thức và nội dung của sự khác biệt giới tính
Chúng ta có thể phân biệt giới tính của nam và nữ về mặt sinh học thông qua
một số khác biệt sau đây:
- Khác biệt ở bộ phận sinh dục:
+ Nam có tinh hoàn, tinh trùng.
+ Nữ có buồng trứng, dạ con.
- Hệ thống hoocmôn:
+ Hình dáng cơ thể khác nhau, giọng nói khác nhau. Ví dụ: Nam thì vạm vỡ,
xương to, vai rộng, ngực phẳng có yết hầu, có râu, giọng trầm; nữ thì dáng mềm
mại, xương nhỏ, vai hẹp, ngực cao hông rộng, giọng cao.
+ Có thể nhận biết nam hoặc nữ qua quan sát.
- Hệ thống gien: Nữ: XX, Nam: XY.
Có thể nhận biết qua kiểm tra y tế.
Giới là một thuật ngữ XHH bắt nguồn từ môn Nhân loại học nghiên cứu về
vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, bao gồm việc
phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích. Giới đề cập đến các
quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ không theo thực tế cá nhân. Vai trò giới
được xác định theo văn hoá, không theo khía cạnh sinh vật học và có thể thay đổi
theo thời gian, theo xã hội và các vùng địa lý khác nhau. Khi mới sinh ra, chúng ta


không có sẵn đặc tính giới. Những đặc tính giới mà chúng ta có được là do chúng ta
học được từ gia đình, xã hội và nền văn hoá của chúng ta (Tính thay đổi).
Có thể định nghĩa ngắn gọn: Giới là quan hệ xã hội giữa nam và nữ và cách
thức mối quan hệ đó được xây dựng nên trong xã hội.
Giới không ám chỉ khái niệm nam giới hoặc phụ nữ với tư cách cá nhân mà
nói tới quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ (tính tập thể). Quan hệ này thay đổi


theo thời gian, theo hoàn cảnh kinh tế và xã hội.
Những yếu tố ảnh hưởng tới sự thay đổi quan hệ giới trong xã hội tuỳ thuộc
vào sự vận động và phát triển của chính các quan hệ xã hội. Cụ thể là các quan hệ
có liên quan tới vấn đề dân tộc, giai cấp, chính trị, tôn giáo, lịch sử, văn hoá, phong
tục, tập quán.
Các biểu hiện của giới
Biểu hiện bằng tính cách và phẩm chất
Ví dụ:
- Nam tính: Gia trưởng, mạnh mẽ, quyết đoán, dũng cảm, nóng nảy.
- Nữ tính: dịu dàng, vị tha, nhẫn nại, cần cù, khiêm nhường.
Giải thích:
Tính cách và phẩm chất của nam và nữ là do xã hội thừa nhận hay cảm nghĩ.
Các phẩm chất, tính cách này được hình thành do quá trình giáo dục của gia
đình và những tác động khách quan của thực tế xã hội (xã hội hoá Socialization).
Ở độ tuổi lên 3, trẻ em đã có thể mô tả chính xác giới tính của chúng. Chúng
đã biết mình là con gái hoặc con trai. Chúng học được điều này từ việc nghe người
khác gán cho chung và có thể dán nhãn chính xác cho người khác nhưng chúng


chưa biết các điều thuộc về giới tính như tính bất biến, mỗi người thuộc một giới
tính, chức năng tình dục và chức năng sinh sản của mỗi giới tính…
Cùng với sự xác định được giới tính, trẻ em cũng bắt đầu quá trình tiếp nhận
các giáo dục về giới từ cha mẹ, gia đình, bạn bè, trường học… Con trai bắt đầu
nhận biết mình giống với cha, rằng họ là đàn ông. Tương tự như con gái với mẹ.
Quá trình xã hội hoá diễn ra từ từ với các tiến bộ vững chắc, và như vậy đã hình
thành tính cách và phẩm chất giới theo khuôn mẫu định sẵn của nền văn hoá.
Chúng bắt đầu chọn đồ chơi là súng khi hiểu mình là nam giới và chọn búp bê nếu
biết mình là nữ giới. Sự chọn lựa này không chỉ là giới tính mà còn là giới, dưới tác
động của môi trường xã hội.
. Biểu hiện bằng tư tưởng

Sự phát triển cao hơn trong nhận thức về giới được biểu hiện trên các quan
điểm, tư tưởng và trở thành các chuẩn mực và giá trị xã hội: Chẳng hạn như trong
xã hội mẫu hệ, do vị trí vai trò khách quan của mình, người phụ nữ được đề cao.
Tất nhiên điều này là hoàn toàn theo khía cạnh bản năng. Trong xã hội phụ quyền,
tư tưởng thống trị trong xã hội là tư tưởng đề cao nam giới (hệ tư tưởng Nho giáo,
Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo) và đi cùng với nó là những chuẩn mực và giá
trị văn hoá nghiêng về lợi ích của người đàn ông.
- Thiên chúa giáo: Theo Kinh Thánh, thuỷ tổ của loài người được tạo ra bởi
sự tích: Chúa trời tạo ra A đam (nam giới) nhưng sợ ông buồn nên đã rút cái xương
sườn của ông để tạo ra bà E va (phụ nữ) để xây dựng cuộc sống dưới mặt đất. Phụ
nữ không thể đạt được các chức sắc cao trong nhà thờ như Hồng Y giáo chủ, Giám
mục…
- Hồi giáo: Kinh Co ran khẳng định địa vị vượt trội của đàn ông và chấp
nhận đa thê. Từ bao đời nay, phụ nữ được nuôi dạy để phục tùng người cha, người
chồng, thậm chí cả anh, em trai và anh, em rể. Họ phụ thuộc vào nam giới và bị xử


theo các luật lệ hà khắc. Phụ nữ phải che mặt và không được tham gia các công
việc xã hội, không được tự do yêu đương phải giữ gìn trinh tiết…
- Phật giáo ở Nhật Bản: Kinh Phật đầu thế kỷ XX quy định ai muốn tu thành
Phật thì trước hết phải trở thành đàn ông.
- Phụ nữ Việt Nam: Mặc dù Việt Nam có Phật bà (Quan âm Thị Kính), có sư
cụ nữ nhưng phụ nữ không thể có chức sắc cao trong hệ thống Phật giáo như hoà
thượng, đại đức…
Những phân biệt giới diễn ra trong mọi lĩnh vực của xã hội và trở thành
những chuẩn mực và giá trị văn hoá, thâm nhập vào từng mối quan hệ xã hội và
phong tục tập quán. Ví dụ: Tại Thế vận hội của những người Hy Lạp cổ đại, phụ nữ
không được tham gia vào các nội dung thi đấu. Để tránh điều này, Ban tổ chức yêu
cầu tất cả các vận động viên không được mặc quần áo khi thi đấu. Ở Việt Nam, “Ra
ngõ gặp gái” là câu nói thông dụng của quan điểm nam quyền đã len lỏi vào cả tập

tục xã hội. Nhiều người thích sinh con trai hơn con gái và con trai thường được ưu
đãi trong gia đình và xã hội.
. Biểu hiện bằng phân công lao động
Mô hình phân công lao động theo truyền thống “Nam ngoại, nữ nội” là nam
giới lo việc ngoài xã hội, còn phụ nữ lo việc gia đình.
Có hai hình thức phân công lao động:
- Phân công lao động về mặt kỹ thuật: Quá trình sản xuất được phân chia
thành nhiều nguyên công. Mỗi công đoạn do một hoặc một nhóm người hoặc máy
thực hiện. Các công đoạn này phối hợp với nhau để hoàn thiện quá trình sản xuất.
- Phân công lao động về mặt xã hội: Đây là lĩnh vực có liên quan trực tiếp
đến giới. Trong xã hội tồn tại hai loại công việc: Công việc đơn giản, nặng nhọc,
khó chịu, buồn tẻ, không đòi hỏi trình độ cao, bị khinh miệt, trả công thấp; hoặc


công việc nhẹ nhàng, dễ chịu, hấp dẫn, đòi hỏi trình độ cao, được tôn trọng, nhiều
quyền lợi, trả công cao.
Các công việc được phân công trong xã hội đã dựa trên các yếu tố về chủng
tộc, giai cấp…
Chủng tộc, giai cấp thống trị thì được nhận việc tết và ngược lại. (Như các
ông chủ có điều kiện làm việc tốt và hưởng lương cao hơn công nhân, hay trường
hợp công nhân ở các nước nghèo khi xuất khẩu lao động sang các nước giàu để làm
những việc mà người sở tại không muốn làm như dọn vệ sinh, bốc vác, giúp việc
gia đình…). Đây chính là sự phân công lao động bất bình đẳng tạo ra giai cấp và là
nguồn gốc của các cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Chính đấu tranh
giai cấp và cách mạng xã hội về bản chất là hướng tới xoá bỏ sự phân công lao
động bất bình đẳng này..
Thực tế lịch sử còn cho thấy, trong xã hội còn có sự phân công lao động dựa
trên giới lính và giới. Đây cũng là một sự phân công lao động bất bình đẳng nhưng
lại ít được chú ý trong lịch sử. Giống như sự phân chia chủng tộc và giai cấp, sự
phân biệt giới trong phân công lao động cũng rất phổ biến và hà khắc không kém.

Chẳng hạn, nam làm những công việc dễ chịu, hấp dẫn đòi hỏi trình độ cao, nữ
ngược lại. Nếu phân chia phân công lao động thành hai loại hình cơ bản: sản xuất
và tái sản xuất chúng ta có thể thấy:
Lao động sản xuất:
Bao gồm những việc làm ra hàng hoá, dịch vụ để trao đổi hoặc tiêu thụ. Cả
nam và nữ cùng tham gia song hình thức công việc và tiền công khác nhau. Nam
giới do có sức khoẻ, trí tuệ và rảnh rỗi việc nhà hơn phụ nữ nên thường nhận được
các công việc tốt hơn. Phụ nữ yếu hơn, phải mang thai, sinh đẻ và chăm sóc con
cái, gia đình nên thường phải nhận các công việc nặng nhọc, đơn giản, tiền công
thấp.


Lao động tái sản xuất:
- Tái sản xuất về sinh học: Trong khi nam giới sản xuất tinh trùng cho quá
trình thụ thai thì phụ nữ mang thai, sinh con, cho con bú bằng sữa mẹ. Công việc
của phụ nữ rất nặng nhọc và nguy hiểm và không được trả công hoặc trả công thấp.
- Tái sản xuất ra sức lao động: Là tất cả những công việc hỗ trợ cho người
sản xuất cả khi họ đang làm việc và khi không làm việc, tạo điều kiện cho họ nghỉ
ngơi, bồi dưỡng để có thể tiếp tục làm việc ngày hôm sau tốt hơn. Những việc này
gồm nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ, trông nom nhà cửa, chăm sóc người ốm, người già,
trẻ em. (Những nhân công lao động của quá khứ và tương lai). Công việc này do
phần lớn phụ nữ đảm trách và không được trả công. Nhiều người đã tưởng lầm đây
là công việc của riêng phụ nữ, là “thiên chức” nhưng thực tế đây là một dạng “xã
hội chức” mà xã hội phụ quyền đã trao cho phụ nữ. Điều này có thể thay đổi trong
một xã hội bình đẳng giới. Chẳng hạn, nam giới có thể cho con bú bằng sữa bình và
làm các việc khác. Hiện nay, nhiều nam giới chủ yếu tham gia vào việc xây dựng,
sửa chữa, trang trí nhà cửa, những việc mà họ cho là “lớn” nhưng không thường
xuyên và tất nhiên có sự tham gia của cả phụ nữ. Nam giới được xác nhận là những
người có năng lực trong các công việc nấu bếp và nội trợ. Họ thường là các “vua
bếp” trong các khách sạn lớn hoặc là những người thợ thêu tài giỏi.

Dịch vụ gia đình đang trở thành nghề kiếm sống quan trọng trong nền kinh tế
thị trường. Chúng ta phải trả tiền cho người giúp việc gia đình hoặc trả tiền công
cao về nấu nướng tại các tiệm ăn. Tuy nhiên, nhiều người đàn ông đã suốt đời ăn
cơm vợ nấu, hưởng thụ các dịch vụ vợ làm, nhưng trong đầu vẫn nghĩ rằng vợ là kẻ
ăn bám khi cô ta không được ai trả công, tình trạng bất công này kéo dài hàng thế
kỷ và đang cần sự thay đổi cách nhìn của cả xã hội.
Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ người nội trợ là cần thiết, bởi lẽ, đây không
chỉ là công việc gia đình mà còn là công việc xã hội. Lao động sản xuất và tái sản


xuất đã kết hợp chặt chẽ với nhau. Cả nam và nữ đều tham gia xen kẽ trong thời
gian một ngày nhưng thời gian lao động của phụ nữ thường kéo dài hơn nam giới
và vất vả cũng lớn hơn.
Tái sản xuất cơ cấu hoặc vai trò chính trị trong cộng đồng: Liên quan đến
việc truyền bá và duy trì tư tưởng chuẩn mực, cơ chế đảm bảo cho bất kỳ một xã
hội nào cũng luôn luôn tồn tại và phát triển. Công việc này chủ yếu là nam giới
tham gia được trả công cao thông qua quyền lực và uy tín xã hội. Phụ nữ thường
tham gia ở vai trò thừa hành và ít quyền ra quyết định.
- Sự phân công lao động bất bình đẳng giữa nam và nữ và quá trình xã hội
hoá mang định kiến giới đã đưa đến sự bất bình đẳng trong các vai trò giới: nam
giới mang tính xã hội cao còn phụ nữ mang tính gia đình cao. Nam giới thường là
người lãnh đạo còn phụ nữ là người thừa hành. Ví dụ: công việc của phụ nữ thường
quá tải và ảnh hưởng đến giao tiếp của họ. Việc ít điều kiện giao tiếp đã gây hạn
chế lớn cho phụ nữ trong công việc và thăng tiến. Quá trình đào tạo liên tục của
nam giới và đứt đoạn của phụ nữ do tái sản xuất cũng là yếu tố quan trọng cản trở
phụ nữ phát triển.
Công việc của nam giới thường được coi là chủ yếu, quan trọng còn công
việc của phụ nữ thường được coi là thứ yếu, không quan trọng.
Đặc tính cơ bản của mối quan hệ giới phụ thuộc vào cấu trúc của xã hội và tư
tưởng của giai cấp cầm quyền, nghĩa là nó có thể thay đổi theo từng thời đại, theo

từng nước, từng dân tộc và từng nền văn hoá khác nhau. Sự phân công lao động
đầu tiên đối với người phụ nữ xuất phát từ sự liên quan đến cấu tạo cơ thể của họ từ
việc phải mang thai, sinh con và cho con bú. Người phụ nữ phải tiếp nhận các công
việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái, chăm sóc người già,… Những
công việc đó ngày càng trói buộc và tiêu phí thời gian của người phụ nữ khiến họ
có rất ít cơ hội được nghỉ ngơi, học tập và hưởng thụ văn hoá. Cho đến nay ở nhiều


nước, công việc này vẫn chỉ được xem như là việc riêng của gia đình và không
được trả công.
Ý nghĩa của sự phân biệt này trong nghiên cứu xã hội học giới:
Phân tích giới giúp chúng ta có được những thông tin cụ thể về những ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực của một chương trình, kế hoạch, dự án, chính sách…
đối với phụ nữ và nam giới. Từ kết quả phân tích có thể hiểu được nguyên nhân để
đưa ra các biện pháp điều chỉnh và bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội
của chương trình… thông qua việc đảm bảo lợi ích của cả phụ nữ và nam giới.

2. Phân tích các biểu hiện của giới tính và giới? Liên hệ thực tiễn các biểu hiệu
giới ở Việt Nam (Câu 1)
Một số ví dụ về định kiến giới:
- Tình dục ở phụ nữ chỉ là để phục vụ cho nam giới.
- Nam giới có quyền chủ động trong tình yêu, tình dục.
- Việc không sinh được con trai hoàn toàn là do phụ nữ không biết đẻ.
- Thiên chức của phụ nữ là sinh đẻ, nuôi con và làm nội trợ.
- Để phụ nữ chăm sóc người ốm là thích hợp nhất.
- Để phụ nữ thực hiện tránh thai là phù hợp vì họ liên quan đến việc sinh đẻ,
nuôi con nhiều hơn nam giới.
- Nam giới có thể vào quán bia thư giãn vào buổi chiều còn phụ nữ thì phải
về nhà nấu cơm và dọn dẹp.
- Nam giới có đầu óc quyết đoán, do vậy họ là những người ra quyết định;

còn phụ nữ cần phục tùng các quyết định cũng như yêu cầu của nam giới.
Một số ca dao, tục ngữ mang định kiến giới:


Đàn ông nông nổi giêng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
Đàn ông rộng miệng thì sang
Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà “.
Khôn ngoan cũng thể đàn bà
Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông”.
100 con gái không bằng cái… của con trai”.
Gái goá lo việc triều đình “.
Gà mái gáy thay gà trống”.
3. Phân biệt sự giống và khác nhau giữa Phụ nữ học; Khoa học nghiên cứu về giới
và Xã hội học giới?
4. Trình bày và phân tích 5 quan điểm của Liên Hợp quốc về vấn đề giới trong
thập kỷ Liên hợp quốc vì phụ nữ?
1. Phúc lợi: Có sớm nhất (1950 - 1970)
- Đưa phụ nữ vào sự phát triển với tư cách người mẹ tốt hơn (công nhận vai
trò sinh sản).
- Tìm cách đáp ứng nhu cầu thực tế, thực dụng: phân phát viện trợ lương
thực, chống suy dinh dưỡng, thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
Quan điểm này rất phổ biến và không bị chỉ trích. Phụ nữ coi như người
hưởng thụ thụ động các kết quả phát triển.
2. Bình đẳng: Dùng trong thập kỷ phụ nữ.


- Giành quyển bình đẳng cho phụ nữ trong quá trình phát triển (công nhận 3
vai trò của phụ nữ: là vợ, mẹ và công dân).
- Tìm cách đáp ứng nhu cầu chiến lược thông qua sự can thiệp trực tiếp của

Nhà nước và các tổ chức quốc tế trao quyền tự trị về kinh tế và chính trị cho phụ
nữ.
Quan điểm này không được phổ biến trong các Chính phủ, đặc biệt là đạo
Hồi và bị chỉ trích là chủ nghĩa nữ quyền phương Tây. Phụ nữ được coi như người
tích cực tham gia vào sự phát triển.
3. Chống nghèo khổ: Quan điểm thứ hai của thập kỷ phụ nữ.
Quan điểm này giải thích về sự bình đẳng dịu hơn quan điểm trên.
- Đảm bảo cho phụ nữ nghèo tăng năng suất lao động.
- Tình trạng nghèo khổ của phụ nữ được coi là một vấn đề của tình trạng kém
phát triển chứ không phải là tình trạng phụ nữ phải chịu địa vị thấp kém (công nhận
vai trò sản xuất to lớn của phụ nữ).
- Tìm cách đáp ứng nhu cầu thực dụng của giới là có thu nhập đặc biệt tà
trong các dự án có quy mô nhỏ. Quan điểm này phổ biến trong các tổ chức NGO.
4. Hiệu quả: Quan điểm thứ ba của thập kỷ phụ nữ.
- Đảm bảo phong trào thực sự và có hiệu quả của phụ nữ.
- Công nhận sự đóng góp về kinh tế của phụ nữ.
- Sự tham gia của phụ nữ gắn với vấn đề bình đẳng.
- Đáp ứng các nhu cầu thực dụng của giới.
Quan điểm này phổ biến và chiếm ưu thế, đặc biệt là từ cuộc khủng hoảng
kinh tế năm 1980.


5. Giành quyền lực: Quan điểm mới nhất do phụ nữ thế giới thuộc thế giới
thứ ba nêu ra.
- Phụ nữ có quyền lực thông qua sự tự tin và sự hợp tác có thiện chí của các
Chính phủ và nam giới.
- Vị trí thấp kém của phụ nữ được coi là vấn đề lớn của con người, là hậu
quả của sự áp bức của thực dân cũ và mới.
- Đáp ứng nhu cầu chiến lược của giới thông qua việc vận động từ cơ sở lên.
Công nhận 3 vai trò của phụ nữ.

Quan điểm này là phổ biến trong các tổ chức NGO của phụ nữ thuộc thế giới
thứ 3.
5. Phân tích quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” và “Giới và phát triển”? Phân
biệt sự khác biệt giữa hai quan điểm này?
Phương pháp tiếp cận “Phụ nữ trong phát triển”
Phụ nữ trong phát triển (Women in development - WID) là một phương pháp tiếp
cận xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ XX, sau khi cuốn sách “Vai trò của phụ
nữ trong phát triển kinh tế” của E. Bô-sơ-ấp được xuất bản. Cuốn sách tập trung
phân tích ảnh hưởng của các dự án phát triển đối với phụ nữ ở các nước đang phát
triển. Một phát hiện quan trọng của E. Bô-sơ-ấp là hầu hết các dự án phát triển, đặc
biệt là các dự án về kỹ thuật tinh xảo đều bỏ qua vai trò của người phụ nữ, hạn chế
các cơ hội và sự tự chủ về kinh tế của phụ nữ. Các dự án này hầu như chỉ cải thiện
cơ hội và kiến thức cho nam giới và làm giảm sự tiếp cận của phụ nữ tới kỹ thuật
hiện đại và cơ hội việc làm. Các kết quả này đã đi ngược lại với quan điểm trước đó
cho rằng, những lợi ích từ các dự án phát triển sẽ tự động mang lại lợi ích cho phụ
nữ và làm tăng cường bình đẳng giới ở các quốc gia phát triển. Sau đó, thuật ngữ
“Phụ nữ trong phát triển” được Ủy ban phụ nữ của Mỹ sử dụng nhằm kêu gọi sự
chú ý của các nhà làm chính sách Mỹ đối với khái niệm này và vận động hành lang


đối với Chính phủ Mỹ trong việc gây ảnh hưởng tới các tổ chức chính sách phát
triển kinh tế.
Phương pháp tiếp cận WID bao gồm các biện pháp xây dựng các dự án tín dụng và
đào tạo dành riêng cho phụ nữ. WID chú trọng vào phụ nữ, vào các vấn đề của phụ
nữ nảy sinh trong quá trình phát triển như: cơ hội có việc làm, được học hành, bình
đẳng tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội và được hưởng dịch vụ chăm sóc
sức khỏe và đời sống. WID đã tập trung vào việc làm thế nào để phụ nữ có thể
được tham gia tốt hơn vào các sáng kiến phát triển hiện có. WID nhấn mạnh vai trò
quan trọng của phụ nữ trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đề cao vai
trò của phụ nữ trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, coi đó như là một

cách thức quan trọng để giúp họ có thể thoát khỏi sự lệ thuộc vào nam giới, cải
thiện vị trí của mình trong xã hội. Tuy nhiên, WID chủ yếu thúc đẩy sự tham gia
của phụ nữ với tư cách là người thụ hưởng chứ chưa phải là tác nhân của công cuộc
phát triển, là một chủ thể của công cuộc phát triển, vì vậy, hạn chế khả năng phát
huy tính chủ động, sáng tạo của phụ nữ. WID mới chỉ tập trung vào phụ nữ, còn
những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa lại được xem xét một cách độc
lập hoặc tách biệt. Do đó, vô hình chung đã tách phụ nữ ra khỏi quá trình ra quyết
định của chính quyền.
Một số nội dung chủ yếu của WID bao gồm: Tuyệt đại đa số các dự án đều có sự kỳ
thị đối với phụ nữ, sự tham gia của phụ nữ vào trong lĩnh vực kinh tế và sự hưởng
thụ lợi ích của phụ nữ rất hạn chế; Các vai trò thực tế của phụ nữ hầu như không
nhận được sự đánh giá cao của các quá trình chính sách; Phụ nữ bị nghèo đói hóa
và “ngoài lề hóa”. WID nhấn mạnh vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, nhưng
không tán đồng việc theo đuổi các lợi ích một cách đơn thuần, vì như thế đồng
nghĩa với việc tạo thêm gánh nặng công việc cho phụ nữ.


WID đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong thời kỳ đầu của công cuộc đấu
tranh vì sự bình đẳng nam nữ của toàn nhân loại. Nhờ có WID mà các vấn đề về
giới thu hút được sự quan tâm của cả các nhà chính trị và các nhà khoa học. WID
thúc đẩy các cơ quan phát triển và chính phủ các nước đưa phụ nữ hòa nhập vào
quá trình phát triển.
Trong những năm qua, ở Việt Nam xuất hiện nhiều dự án phát triển xã hội có mục
tiêu hướng tới việc tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của
phụ nữ. Các dự án này bao gồm việc cung cấp các gói tín dụng cho phụ nữ, trang bị
kiến thức về khoa học kỹ thuật, trang bị kỹ năng nghề nghiệp… nhằm giúp cho phụ
nữ có thể độc lập và tự chủ về mặt kinh tế, thoát khỏi sự lệ thuộc vào nam giới. Các
dự án này ban đầu được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế tại Việt Nam dưới ảnh
hưởng của cách tiếp cận WID và cho đến nay vẫn tiếp tục được thực hiện.
Các dự án hỗ trợ phụ nữ hiện nay không đơn giản chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế,

trong lĩnh vực chính trị, nhiều dự án nâng cao năng lực dành riêng cho nữ ứng cử
viên Quốc hội, nữ ứng cử viên đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nữ cán bộ,
công chức cũng đã được triển khai thực hiện nhằm nâng cao tỷ lệ và thúc đẩy vai
trò của phụ nữ trong chính trị.
Phương pháp tiếp cận “Phụ nữ và phát triển”
Vào nửa sau những năm 70, khái niệm “Phụ nữ và phát triển” (Women and
development) nổi lên từ một bài phê bình lý thuyết hiện đại hóa và phương pháp
tiếp cận WID. Khái niệm này dựa trên nhận định rằng, phụ nữ luôn là một phần của
các quá trình phát triển. Phụ nữ và tiến trình phát triển có mối liên hệ với nhau và
trên thực tế, không phải là không có biện pháp để đưa phụ nữ vào trong chiến lược
của quá trình phát triển.


Chương pháp tiếp cận này cho rằng phụ nữ luôn là một tác nhân kinh tế quan trọng
trong xã hội, công việc mà phụ nữ thực hiện cả trong gia đình và ngoài gia đình
đóng vai trò trung tâm trong việc duy trì xã hội, nhưng sự hòa nhập này chỉ góp
phần duy trì cơ cấu của sự bất bình đẳng hiện nay trên bình diện quốc tế. Tình trạng
bất bình đẳng của phụ nữ hiện nay ở cấp độ quốc tế. Nếu như trên bình diện quốc
tế, vấn đề bình đẳng được cải thiện thì địa vị của phụ nữ sẽ được nâng lên. Trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị và kết cấu xã hội đều thiếu hụt sự đại diện của phụ
nữ, con đường để giải quyết vấn đề này, đó là thông qua việc xây dựng các chiến
lược có sự tham dự của phụ nữ, chứ không phải là thông qua biện pháp biến đổi
căn bản các quan hệ giới.
Cũng giống như WID, WAD đã quá chú trọng vào lĩnh vực sản xuất, chú trọng vào
chiến lược tham dự và việc triển khai các hoạt động tạo thu nhập mà không xem xét
đến việc thực hiện các chiến lược này sẽ tạo thêm áp lực và gánh nặng cho phụ nữ.
Các quan điểm của WAD bị phê phán là đã không coi lao động gia đình như một
giá trị kinh tế và WAD đã áp dụng các thành kiến và các giả định của phương Tây
vào các nước đang phát triển.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, mặc dù bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ

đã đạt được những thành tựu to lớn, tuy nhiên trong hầu hết các lĩnh vực, phụ nữ
vẫn chưa có được địa vị tương xứng với tiềm năng và đóng góp thực tế của họ.
Trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp ủy đảng còn thấp (ở nhiệm
kỳ khóa XII, tỷ lệ này ở cấp Trung ương là 10%, cấp tỉnh là 13,3%, cấp huyện là
14,3% và cấp xã là 19,69%. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp cũng không cao, ở nhiệm kỳ 2016 - 2021, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 26,72%,
tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cụ thể như sau: cấp tỉnh là 26,4%, cấp
huyện là 27,5%, cấp xã là 26,7%).
Phương pháp tiếp cận “Giới và phát triển”


Theo kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm từ các phương pháp tiếp cận WID và
WAD, vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, người ta ngày càng nhận thấy rằng,
rào cản đối với sự bình đẳng chủ yếu do các yếu tố xã hội tạo nên và tồn tại bởi một
loạt những di chứng lịch sử, tư tưởng, văn hóa, kinh tế và tôn giáo. Những rào cản
này ăn sâu và khó thay đổi. Song, một số bằng chứng lại cho thấy, những ảnh
hưởng này có thể thay đổi được. Sự bất bình đẳng của phụ nữ thường do nhiều yếu
tố kết hợp lại (xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa), tác động tới đời sống của phụ
nữ và nam giới một cách khác nhau. Do đó, cần phải hệ thống và lý giải mối quan
hệ giữa phụ nữ và nam giới trong các bối cảnh xã hội khác nhau và xây dựng các
chiến lược thay đổi có tính đến các mối quan hệ này.
GAD quan niệm, phụ nữ và nam giới cùng có vai trò trong xây dựng và duy trì xã
hội, cùng quyết định phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, họ lại không bình đẳng
trong việc hưởng thụ lợi ích và trong việc đối mặt với những khó khăn, điều này là
do phụ nữ là nhóm yếu thế, vv́ vậy, cần phải tập trung sự quan tâm dành cho phụ nữ.
Mặc dù giữa phụ nữ và nam giới có mối quan hệ nương tựa vào nhau, tuy nhiên
phương thức và phạm vi hoạt động của họ trong xã hội lại không giống nhau, có
những vai trò khác nhau trong những lĩnh vực xã hội khác nhau. Vì vậy, mỗi giới
đều có những vấn đề ưu tiên riêng, có cách nhìn nhận sự vật riêng. Trong quan hệ
vai trò giới, nam giới có thể hạn chế hoặc mở rộng những khó khăn của phụ nữ.

Phát triển có ảnh hưởng khác nhau tới phụ nữ và nam giới, đồng thời, nam giới và
phụ nữ cũng có những ảnh hưởng khác nhau đối với các dự án sản xuất, để thúc
đẩy lợi ích và phúc lợi của xã hội, phụ nữ và nam giới phải có cùng cách nhìn nhận
về các vấn đề và cùng tìm ra phương thức để giải quyết các vấn đề đó.
Phương pháp tiếp cận GAD cung cấp cơ sở lý luận cho việc xem xét vai trò của
phụ nữ trong mối tương quan với vai trò của nam giới trong phát triển cộng đồng
trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau. GAD xem phụ nữ như là chủ thể của quá


trình biến đổi chứ không coi phụ nữ như nhóm đối tượng thụ hưởng bị động.
Phương thức thực hiện là thông qua trao quyền, tăng cường sức mạnh nội tại của
phụ nữ, thực hiện năng lực cải tạo xã hội của phụ nữ. Để thực hiện trao quyền, nội
dung căn bản nhất là lập kế hoạch giới, GAD nhấn mạnh trong thực hiện các dự án
phát triển quốc tế, phát triển đất nước, phát triển khu vực cần phải thực hiện tổng
hợp yếu tố giới. Vấn đề công bằng phải được thể hiện trong thực tiễn chứ không
phải chỉ trên khẩu hiệu.
GAD đã phát triển một số khái niệm cơ bản như: lập kế hoạch giới, lợi ích giới,
nhu cầu giới (bao gồm nhu cầu giới chiến lược và nhu cầu giới thực tiễn).
Trong công trình “Sự lệ thuộc dai dẳng của phụ nữ trong tiến trình phát triển” (năm
1978), Whitehead chỉ ra rằng, nghiên cứu phụ nữ và phát triển không thể chỉ đứng
trên quan điểm xem xét các vấn đề của phụ nữ, mà phải xem xét cả phụ nữ và nam
giới, đặc biệt phải chú trọng xem xét mối quan hệ giữa hai giới.
Một đại biểu tiêu biểu khác của GAD là K. Young, đã tổng kết các vấn đề lý luận
của GAD trên sáu phương diện:
Một là, lý luận của GAD là khi các vấn đề liên quan đến phụ nữ xuất hiện, chúng ta
không phải bàn đến các vấn đề của phụ nữ mà phải quan tâm đến mối quan hệ giới.
Mối quan hệ này luôn bị các nhà xã hội học gọi là mối quan hệ phụ thuộc, vị trí
quan hệ này được quyết định trong gia đình hoặc trong hệ thống xã hội phụ hệ (như
quan hệ cha con hoặc quan hệ hôn nhân), cũng có một số quan hệ được hình thành
từ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Hai loại quan hệ này có mối liên hệ lẫn

nhau dưới ảnh hưởng của các yếu tố như giai cấp, chủng tộc, dân tộc và tôn giáo.
Hai là, lý luận của GAD không coi phụ nữ như những đối tượng thụ hưởng một
cách bị động mà coi phụ nữ như là những thành phần chủ động tham gia vào quá
trình phát triển, nhưng không giả định rằng, phụ nữ hiểu biết một cách đầy đủ và


toàn diện về địa vị xã hội của họ. Lý luận của GAD giả định, phụ nữ hoàn toàn biết
được địa vị phụ thuộc của họ nhưng không giải thích được căn nguyên của sự kì thị
và phụ thuộc. Lý luận của GAD cũng cho rằng, nam giới biết được vị trí chủ đạo
của họ trong xã hội, nhưng không phải tất cả nam giới đều cố gắng nỗ lực để dành
và giữ lấy vị trí chủ đạo đó. Không phải tất cả hành vi và mục tiêu của phụ nữ đều
là đúng đắn, không nghi ngờ, cũng không phải tất cả nam giới đều là những người
“gian ác”. Nhưng GAD cho rằng, nếu như không có sự nỗ lực tuyên truyền, vận
động, nam giới sẽ không sẵn sàng ủng hộ sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ,
Ba là, lý luận của GAD có được cái nhìn toàn diện. GAD đã đứng trên tổng thể
kinh tế, chính trị, tổ chức của xã hội để giải thích từng phương diện, từng vấn đề
của xã hội. Ví dụ, để tìm hiểu mô hình đời sống của phụ nữ, GAD không chỉ quan
tâm đến vai trò sinh sản của phụ nữ (vai trò làm mẹ, chăm sóc con cái của phụ nữ).
Hay khi phân tích đời sống kinh tế - xã hội, GAD không chỉ đơn giản quan tâm đến
từng công việc, như trao đổi và sản xuất các sản phẩm, các loại dịch vụ của các
công xưởng hay các bệnh viện. Mà GAD đã quan tâm đến mối quan hệ giữa gia
đình, các công việc gia đình và các hình thức tổ chức kinh tế… Nói một cách cụ thể
hơn, đứng dưới góc độ giới, chỉ khi thấu hiểu các lĩnh vực, các vấn đề trong gia
đình mới có thể giải thích được cơ chế cơ bản để các công việc hằng ngày của lĩnh
vực sản xuất có thể hoàn thành.
Bốn là, GAD nhìn nhận phát triển như là một quá trình phức tạp của tiến bộ văn
hóa, kinh tế, chính trị, xã hội của cá nhân và xã hội. Ở đây tiến bộ để chỉ trong mỗi
bối cảnh lịch sử nhất định, các thành viên được thỏa mãn đầy đủ về nhu cầu vật
chất, tình cảm và năng lực sáng tạo. Để kiểm chứng ảnh hưởng của phát triển kinh
tế đối với mỗi xã hội, GAD sẽ quan tâm đến các vấn đề: Ai là người được hưởng

lợi ích? Ai là người phải chịu ảnh hưởng, thiệt thòi? Tiến hành giao dịch như thế


nào? Quyền lợi và nghĩa vụ của phụ nữ và nam giới và sự cân bằng giữa các nhóm
xã hội đặc thù như thế nào?
Năm là, lý luận của GAD cho rằng, phúc lợi, chống nghèo đói và bình đẳng không
phải là ba vấn đề đối lập, không thể đồng thời lựa chọn. Mà ngược lại, phúc lợi và
chống nghèo đói chính là tiền đề của bình đẳng. Điều then chốt của cách tư duy này
là làm thế nào để các cách thức thực hiện phúc lợi có thể phục vụ được cho mục
tiêu bình đẳng. Cách tư duy này đã tiến thêm một bước: thông qua cải cách để có
thể đạt được mục đích, hoặc tất yếu phải thông qua biến đổi xã hội một cách cấp
tiến mới có thể đạt được mục đích trên. Bất luận lựa chọn cách nào ở trên đều phải
tiến hành một loạt các lựa chọn và quyết sách, mà những lựa chọn và quyết sách
này đều gặp phải những ảnh hưởng từ những bối cảnh chính trị, lịch sử nhất định.
Sáu là, về mặt chiến lược, GAD tập trung quan tâm đến việc phụ nữ trở thành
những cá thể hay những nhóm có thu nhập. GAD có thái độ không tích cực đối với
vai trò phân phối lợi ích của thị trường. GAD nhấn mạnh, phụ nữ cần được liên kết
thành các tổ chức nhằm tăng cường năng lực thương thuyết của mình trong hệ
thống kinh tế. Cụ thể hơn, việc liên kết thành các tổ chức sẽ giúp cho phụ nữ tăng
cường uy tín. GAD nhấn mạnh vai trò của tổ chức, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
các tổ chức của riêng phụ nữ nhằm nâng cao quyền lực chính trị cho phụ nữ trong
các hệ thống kinh tế.
Có thể nói, trong các nghiên cứu về phụ nữ ở Việt Nam, đặc biệt trong những năm
gần đây, phương pháp tiếp cận GAD có những ảnh hưởng tới nhiều tác giả và nhiều
công trình nghiên cứu. Các nghiên cứu về phụ nữ không chỉ đơn thuần là mô tả các
vấn đề của phụ nữ mà thường xuyên đặt các vấn đề của phụ nữ trong mối tương
quan với các vấn đề của nam giới để thấy được sự khác biệt và chỉ ra những vấn đề,
những bất bình đẳng, những thiệt thòi và cả những áp lực mà phụ nữ đang thật sự
phải đối mặt. Từ kết quả của các công trình nghiên cứu này và dưới tác động của



các nhà nghiên cứu về phụ nữ, các nhà nghiên cứu giới, nội dung của GAD đã hiện
diện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, chẳng hạn như lĩnh vực ban
hành và thực thi chính sách xã hội… Các khái niệm trao quyền cho phụ nữ, lập kế
hoạch giới và lồng ghép giới hiện nay đã trở nên khá phổ biến ở Việt Nam. Trong
quá trình xây dựng chính sách, luật pháp và xây dựng các dự án đều phải xem xét
yếu tố giới. Về mặt nguyên tắc, việc lồng ghép giới, bảo đảm cơ hội bình đẳng cho
cả phụ nữ và nam giới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trở thành yếu tố
bắt buộc trong quy trình xây dựng và thực thi chính sách ở Việt Nam. Nghị quyết
23-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ngày 12-03-2003, của Ban Bí thư Trung ương
Đảng nêu rõ: “tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
về công tác phụ nữ và vấn đề bất bình đẳng giới, khẩn trương cụ thể hóa các chủ
trương của Đảng thành luật pháp, chính sách, lồng ghép giới trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện các chương trình, kế hoạch chung… Tạo điều kiện để phụ nữ
tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản
lý các cấp”.
Để cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, năm 2006, Luật Bình đẳng giới
đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực. Việc ra đời của Luật Bình đẳng giới là
một dấu mốc quan trọng, thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Chính phủ trong việc
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Đảng và Chính phủ luôn tạo
mọi điều kiện cho phụ nữ được tham gia và phát huy năng lực của mình trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị.
Mặc dù đã đạt được những bước tiến dài trong lĩnh vực bình đẳng giới, tuy nhiên
do tác động của nhiều nguyên nhân, bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị. Để phụ nữ có thể
khẳng định được vai trò, vị trí và phát huy hết tiềm năng của mình cho xã hội, xóa


bỏ hoàn toàn khoảng cách giới đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn xã hội trong

thời gian tiếp theo.
6. Phân tích Bình đẳng giới là gì? Đặc điểm của bình đẳng giới? Nội dung của
bình đẳng giới và Chính sách bình đẳng giới ở Việt Nam?

Bình đẳng giới có thể được xem xét trên hai quan điểm:
- Quan điểm bình đẳng khi chưa có nhận thức giới.
- Quan điểm bình đẳng khi có nhận thức giới.
Quan điểm bình đẳng khi chưa có nhận thức về giới: Theo Từ điển Bách
khoa Việt Nam (1995) tập I thì: Bình đẳng là sự được đối xử như nhau về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hoá, không phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó
trước tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật. Theo đó, bình đẳng giới sẽ
được hiểu là sự đối xử như nhau giữa nam và nữ trên mọi phương diện, không phân
biệt, hạn chế, loại trừ quyền của bất cứ giới nam hay giới nữ. Ởđây, điều kiện cần
thiết chỉ là cung cấp cho phụ nữ các cơ hội bình đẳng, sau đó người ta tin rằng, họ
sẽ thực hiện và được hưởng thụ theo các nguyên tắc và tiêu chuẩn như nam giới và
đem lại các kết quả như nhau, nhưng thực tế, sự đối xử bình đẳng không luôn luôn
đem lại kết quả bình đẳng. Quan điểm trên, sau này được nhiều nhà nghiên cứu về
giới cho rằng là một loại “bình đẳng giới mà không tôn trọng sự khác biệt về giới
tính”.
Nguyên tắc đối xử như nhau, không phân biệt là điều hết sức cần thiết, song
có lẽ chưa đủ để phụ nữ được bình đẳng thực sự. Ở nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam, xuất phát từ vấn đề quyền con người, hiến pháp đã ghi nhận
quyền bình đẳng giữa nam và nữ trên mọi phương diện. Điều đó là một sự tiến bộ
lớn, tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ này, phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng
thực sự. Cũng là con người như nam giới nhưng phụ nữ lại có những đặc tính về


giới tính hết sức riêng biệt do đặc trưng sinh học và đặc trưng xã hội quy định chi
phối, cho nên, nếu chỉ thực hiện sự đối xử như nhau (căn cứ vào cái chung) mà
không chú ý đến cái riêng để có các đối xử đặc biệt thì sẽ không có bình đẳng thực

sự.
Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển, giữa nam và nữ đã không có
cùng một điểm xuất phát, cho nên cơ hội mở ra như nhau nhưng phụ nữ khó nắm
bắt được như nam giới. Ví dụ, khi cơ hội tìm việc làm, có thu nhập cao mở ra cho
cả nam và nữ thì phụ nữ khó có thể đón nhận được cơ hội đó như nam giới (vì lý do
sức khoẻ, công việc gia đình, các quan niệm cứng nhắc trong phân công lao động);
ngay cả khi có điểm xuất phát như nhau (do đã được tạo điều kiện) thì quá trình
phát triển tiếp theo của phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn, cản trở hơn so với nam
giới.
Ví dụ, hai sinh viên nam và nữ cùng tốt nghiệp đại học, mười năm sau, trình
độ, khả năng thăng tiến giữa họ lại rất khác nhau. Trong thời gian này, nam giới cớ
thể chuyên tâm vào học tập, nâng cao trình độ, còn phụ nữ lại phải chi phối hơn
cho việc sinh đẻ và nuôi con nhỏ. Vậy là đối xử như nhau không thể đem lại sự
bình đẳng giữa hai giới nam và nữ vốn rất khác nhau về mặt tự nhiên và xã hội (do
lịch sử để lại).
Theo quan điểm này thì mọi điều kiện cần thiết chỉ là cung cấp cho phụ nữ
các cơ hội bình đẳng và người ta mong đợi phụ nữ sẽ tiếp cận các cơ hội này, thực
hiện và hưởng lợi theo các nguyên tắc và tiêu chuẩn như nam giới. Điều này đặt ra
sức ép vô cùng lớn đối với phụ nữ trong khi đó lại thu hẹp sự tiếp cận của họ tới
các kỹ năng và các nguồn cần thiết để có thể tận dụng “các cơ hội bình đẳng”. Bình
đẳng về cơ hội, về sự lựa chọn và đối xử là cơ hội cần thiết nhưng không phải là cơ
hội quan trọng để hỗ trợ cho sự phát triển của phụ nữ.


Quan điểm bình đẳng với nhận thức giới: Theo chúng tôi, khi đã thừa nhận
phụ nữ có những khác biệt cả về tự nhiên và xã hội so với nam giới, thì đối xử như
nhau sẽ không đạt được bình đẳng. Cho nên, bình đẳng giới không chỉ là việc thực
hiện sự đối xử như nhau giữa nam và nữ trên mọi lĩnh vực xã hội, theo phương
châm phụ nữ có thể có quyền làm tất cả những gì nam giới có thể và có quyền làm.
Bình đẳng giới còn là quá trình khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa hai giới

nhưng không triệt tiêu những khác biệt tự nhiên giữa họ, thông qua các đối xử đặc
biệt với phụ nữ. (Trong Luật Bình đẳng giới hiện nay đã có các quy định cụ thể về
những điều khoản “đặc biệt tạm thời” mà không coi là phân biệt giới để thực hiện
bình đẳng giới).
Những đối xử đặc biệt tác động đến khác biệt tự nhiên giữa nam và nữ hạn
chế những thiệt thòi của phụ nữ còn được duy trì thường xuyên như chương trình
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Các đối xử đặc biệt tác động làm thay đổi vị thế
người phụ nữ do lịch sử để lại được duy trì chừng nào đạt được sự bình đẳng hoàn
toàn. Đối xử đặc biệt khác không chỉ căn cứ vào sự khác biệt giữa nam và nữ, quá
trình tiến tới bình đẳng giới còn phải chú ý sự khác biệt ngay trong giới nữ, thể hiện
qua các nhóm phụ nữ khác nhau, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân với
nông dân, trí thức, giữa phụ nữ giàu và phụ nữ nghèo…
Như vậy việc đối xử như nhau giữa các bộ phận xã hội không giống nhau sẽ
không thể đạt tới được sự bình đẳng thực sự. Ở đây, điều kiện để đạt tới sự bình
đẳng chính là cần phải có các đối xử đặc biệt, thậm chí là các điều kiện ưu tiên
dành cho các nhóm xã hội yếu thế. Trong một môi trường mà cơ hội, điều kiện và
vị trí xã hội của phụ nữ còn thấp hơn nam giới thì để có bình đẳng giới thực sự,
cách đối xử đặc biệt như trên đối với phụ nữ là điều kiện cần thiết phải có.
Bình đẳng giới là một tình trạng lý tưởng trong đó phụ nữ và nam giới được
hưởng vị trí xã hội như nhau, được tạo cơ hội và điều kiện thích hợp để phát huy đủ


khả năng của mình nhằm đóng góp cho sự phát triển của quốc gia và được hưởng
lợi từ các kết quả của quá trình phát triển đó.
Quan điểm bình đẳng có nhận thức về giới đưa ra sự tiếp cận đúng đắn, công
nhận sự khác biệt và thực tế là phụ nữ đang ở vị trí bất bình đẳng do sự phân biệt
đối xử trong quá khứ và hiện tại. Mô hình này không chỉ quan tâm đến cơ hội bình
đẳng mà còn quan tâm đến kết quả của sự bình đẳng, sự đối xử bình đẳng, tiếp cận
bình đẳng và lợi ích bình đẳng. Chúng ta cần phải xem xét cẩn thận những cản trở
tiềm ẩn đối với sự tham gia bình đẳng cũng như có cơ hội, điều này có nghĩa là có

thể phải đối xử khác nhau đối với phụ nữ và nam giới để họ có thể được hưởng lợi
một cách chính đáng và đó không thể coi là phân biệt giới.
Tóm lại: Bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được trải nghiệm
những điều kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của mình, có cơ hội
để tham gia, đóng góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của quốc
gia về kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Bình đẳng giới còn là quá trình khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa hai
giới nhưng không triệt tiêu những khác biệt tự nhiên giữa họ, thông qua các đối xử
đặc biệt với phụ nữ. Để đạt tới bình đẳng giới trong một môi trường mà cơ hội,
điều kiện và vị trí xã hội của phụ nữ còn thấp hơn nam giới thì việc đối xử đặc biệt
với phụ nữ, ưu tiên cho phụ nữ trên một số mặt, chính là cơ sở để tạo lập sự bình
đẳng thực sự.
* Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó (Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới).
* Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
- Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.


- Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
- Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
- Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.
(Điều 6 - L
7. Lồng ghép giới là gì? Nêu và phân tích các bước trong chu trình lồng ghép giới?
Liên hệ thực tiễn hoặc có ví dụ minh họa
Lồng ghép giới là khái niệm đã đoược định nghĩa trong Kết luận của ủy ban
Kinh tế - Xã hội của LHQ tháng 2/1997 như sau: Lồng ghép giới là quá trình đánh
giá những tác động đối với phụ nữ và nam giới của bất kỳ quá trình hoạch định

chính sách nào, bao gồm cả luật pháp, chính sách hay chương trình trong tất cả các
lĩnh vực và tất cả các cấp độ. Đó là chiến lược để đưa những mối quan tâm và kinh
nghiệm của cả phụ nữ và nam giới thành một bộ phận không thể tách rời của công
tác thiết kế, thực hiện, kiểm tra, đánh giá các chính sách, chương trình ở mọi lĩnh
vực chính trị, kinh tế, xã hội với mục đích phụ nữ cũng như nam giới được tham
gia và thụ hưởng một cách bình đẳng và công bằng những thành quả đạt được và sự
bất bình đẳng sẽ không còn tồn tại. Mục đích cuối cùng là đạt được bình đẳng giới.
Lồng ghép giới được xác định trong chiến lược toàn cầu để thúc đẩy bình
đẳng giới. Theo Cương lĩnh hành động của Hội nghị Bắc Kinh năn 1995, lồng ghép
giới có mặt trong tất cả các chính sách, chương trình độ bảo đảm trước khi một
quyết định dược đưa ra, phải phân tích được tác động của quyết định đó đối với
phụ nữ và nam giới. Lồng ghép giới đã bình đẳng giới vào trung tâm của các quyết
định về chính sách, kế hoạch trung hạn, ngân sách, các quá trình vận hành và cơ
cấu của thể chế. Lồng ghép giới đòi hỏi phải đưa được những nhận thức, kinh
nghiệm, kiến thức và lợi ích của cả phụ nữ và nam giới vào việc hoạch định chính


sách, lập kế hoạch và ra quyết định. Điều này cần tới những thay đổi trong cơ cấu –
tổ chức, thủ tục và văn hoá nhằm tạo ra những môi trường thuận lợi để thúc đẩy
bình đẳng giới. Lồng ghép giới nhằm khắc phục những thiếu sót của các dự án mù
giới và tạo ra các chính sách công bằng giới. Quá trình tham gia của cả nam và nữ
đảm bảo rằng phân công lao động công bằng, cả hai giới đều có sự tiếp cận và kiểm
soát bình đẳng đối với nguồn lực, lợi ích, cơ hội ra quyết định, đảm bảo đáp ứng
nhu cầu giới chiến lược và thực tế dựa trên tính nhạy cảm giới. Lồng ghép giới cần
có quá trình thu thập số liệu, phân tích tình hình, xác định mục tiêu và đưa ra những
chính sách có thể cho địa phương và Nhà nước. Lồng ghép giới tiến tới thay đổi vai
trò giới, qua đó nam giới chịu trách nhiệm nhiều hơn trong công việc gia đình, phụ
nữ chịu trách nhiệm nhiều hơn trong công việc chính trị, xã hội.
TIẾN TRÌNH LỒNG GHÉP GIỚi
Để lồng ghép giới vào chính sách, chương trình, hoạt động cần thực hiện các bước

Phân tích giới, Lập kế hoạch giới và Thực hiện, giám sát và đánh giá lồng ghép
giới.
1. Phân tích giới
a) Thu thập số liệu về nhóm đối tượng tách biệt theo giới tính, khi phân tích vấn đề,
phân tích tình hình;
b) Phân tích số liệu thu thập được để xác định các xu hướng bất bình đẳng;
c) Xác định sự phân chia lao động và khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực
và lợi ích;
d) Hiểu được nhu cầu, khó khăn và cơ hội của nam giới và phụ nữ;
e) Rà soát năng lực của các tổ chức liên quan trong việc thúc đẩy bình đẳng giới.
2. Lập kế hoạch giới
Khi phân tích giới cho thấy vị thế và tình trạng của nam giới và phụ nữ tương đối
bình đẳng, cần duy trì. Nhưng khi thấy nguy cơ bất bình đẳng giới, cần lập kế
hoạch giới để xoá bỏ bất bình đẳng. Lập kế hoạch giới gồm:


×