Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

BIỆN PHÁP tạm GIAM THEO PHÁP LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM từ THỰC TIỄN QUẬN THỦ đức, THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.56 KB, 91 trang )

TRẦ NTH ỊHUY ỀN

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HUYỀN
NGÀNH LUẬ THÌNH SỰ VÀT ỐT ỤNGHÌNHS Ự

BIỆN PHÁP TẠM GIAM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHÓAII/2017

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HUYỀN

BIỆN PHÁP TẠM GIAM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.380.104


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi – Trần Thị Huyền - xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong Luận văn này là trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Huyền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

2. BPNC
3. BPTG

: Biện pháp ngăn chặn
: Biện pháp tạm giam

4.


CQĐT: Cơ quan điều tra

5.

CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng

6.

HĐXX: Hội đồng xét xử

7.
8.

KSV
Nxb

: Kiểm sát viên
: Nhà xuất bản

9.

TAND

: Tòa án nhân dân

10. TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
11. TTHS

: Tố tụng hình sự


12. VAHS

: Vụ án hình sự

13. VKS

: Viện kiểm sát

14. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
15. XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Thống kê tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.2. Thống kê số bị can, bị cáo bị bị áp dụng biện pháp ngăn chặn theo quyết
định của cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.3. Thống kê kết quả điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự cấp huyện trên địa
bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018);
Bảng 2.4. Thống kê các trường hợp Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức không
phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam (Giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018);
Bảng 2.5. Thống kê các trường hợp người bị tạm giam được thay thế bằng biện
pháp ngăn chặn khác hoặc được trả tự do trên địa bàn quận Thủ Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.6. Tổng hợp tình hình thi hành các Lệnh, quyết định về biện pháp tạm giam
của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố
Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.7. Thống kê kiến nghị của VKSND quận Thủ Đức với các cơ quan có thẩm
quyền trên địa bàn trong việc tạm giam thông qua công tác kiểm sát tạm
giữ, tạm giam (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018).


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM.......6
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam................................................................... 6
1.2. Quy định về biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành................................................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN

THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................................................ 31
2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ
Đức, Thành phố Hồ Chí Minh............................................................................................... 31
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam của các cơ quan tiến hành
tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.................................. 33
CHƯƠNG 3. NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM VIỆC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TỪ THỰC
TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................... 60
3.1. Nhu cầu về bảo đảm áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam.............................. 60
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm
giam trong thời gian tới........................................................................................................... 68

KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................ 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tạm giam là một trong những BPNC trong TTHS có vai trò quan trọng trong
việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, cũng như bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự được diễn ra một cách thuận lợi, hiệu quả. Tuy nhiên,
BPNC này có phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối với quá trình giải quyết
VAHS nói riêng và yêu cầu của công cuộc phòng, chống tội phạm nói chung hay không
thì phụ thuộc rất nhiều vào sự đúng đắn trong nhận thức cũng như áp dụng pháp luật về
BPTG của các cơ quan, người có thẩm quyền. Chính vì thế, đây chính là yêu cầu đối
với tất cả cơ quan, người THTT trong lĩnh vực hình sự trên cả nước nói chung và ở
từng địa phương nói riêng trong đó có quận Thủ Đức, TP.HCM.

Là một quận ngoại thành của TP.HCM, quận Thủ Đức ngày nay đang có
những bước chuyển mạnh mẽ cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, thu hút lượng lớn dân
nhập cư đến sinh sống và làm việc. Mặt trái của sự phát triển đó là tình hình tội
phạm trên địa bàn này trong thời gian qua có diễn biến rất phức tạp. Mặc dù số vụ
phạm tội tăng giảm hàng năm không đều nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm ngày càng cao, tạo áp lực đáng kể cho CQĐT, VKS, TA quận Thủ Đức trong
việc điều tra, khám phá, xử lý tội phạm và người phạm tội đảm bảo nhanh chóng,
khách quan, chính xác.
Thực tiễn công tác TTHS ở địa phương này cho thấy, tạm giam là BPNC được
các cơ quan THTT áp dụng một cách thường xuyên trong quá trình giải quyết phần lớn
VAHS xảy ra ở địa phương. Bên cạnh những giá trị tích cực của việc áp dụng pháp luật
về BPTG một cách đúng đắn, vẫn có lúc, có nơi còn xảy ra tình trạng áp dụng BPTG
không đảm bảo về căn cứ, đối tượng, thẩm quyền, thời hạn theo quy định pháp luật.
Điều đó không chỉ gây ra tác động tiêu cực cho bản thân, gia đình người bị tạm giam,

mà còn làm giảm sút uy tín của các cơ quan THTT, gây suy giảm lòng tin của nhân dân
vào Đảng và Nhà nước, không phù hợp với định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền, thực hiện đề cao, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, đáp
1


ứng các chuẩn mực quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của nước ta hiện nay.
Vì thế, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh”,
nhằm góp phần đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết VAHS,
tăng cường bảo đảm quyền con người trong TTHS cũng như hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm từ thực tiễn ở quận Thủ Đức, TP.HCM trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
BPNC trong TTHS nói chung và BPTG nói riêng là vấn đề được nghiên cứu
trong nhiều công trình khoa học ở các góc độ, mức độ khác nhau, tiêu biểu như một
số công trình sau:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Đồi mới công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015” do Lê Hữu Thể và các thành viên thực
hiện, năm 2018. Đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về công tác kiểm sát
đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam, các chế độ và quyền của người bị tạm giữ, tạm giam
trên cơ sở các quy định pháp luật về BPTG và nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các
cấp. Công trình không đi sâu phân tích quy định pháp luật TTHS về

BPTG. Do đó, những kết quả nghiên cứu về quy định pháp luật và áp dụng pháp
luật về BPTG trong công trình này chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc.
- Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của tác giả Nguyễn Văn
Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005. Công trình này nghiên cứu về những vấn đề lý
luận, pháp lý, thực tiễn áp dụng cũng như đề xuất các giái pháp về nâng cao hiệu quả
áp dụng BPNC trong TTHS Việt Nam trên cơ sở phân tích quy định pháp luật tố tụng

hình sự năm 2003. Trong đó, BPTG chỉ là một trong những BPNC được nghiên cứu
nên mức độ và phạm vi nghiên cứu về BPNC này chưa thật sự đầy đủ.
+ Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của Nguyễn Công Thành, Học viện khoa học xã hội, năm 2016.
Công trình luận văn này nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp
dụng BPTG trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
2


áp dụng BPNC từ thực tiễn áp dụng ở địa bàn này. Do đó, công trình này có giá trị
tham khảo cho Luận văn khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và
đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật về BPTG một cách
đúng đắn trên địa bàn quận Thủ Đức.
+ Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sở thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Tháp” của Trương Huỳnh
Anh, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Luận văn này nghiên cứu về những vấn
đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng BPTG trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn áp dụng ở địa bàn này. Quy định pháp
luật và việc áp dụng pháp luật về BPTG ở các giai đoạn tố tụng khác như điều tra,
truy tố không được nghiên cứu, làm rõ.
+ Luận văn thạc sĩ “Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can trong tố
tụng hình sự Việt Nam” của Đào Nguyễn Hồng Minh, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2018. Luận văn này nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
áp dụng BPTG được áp dụng với những đối tượng là bị can. Quy định pháp luật và
việc áp dụng pháp luật về BPTG đối với các đối tượng khác như bị cáo, người bị
yêu cầu dẫn độ không được nghiên cứu, làm rõ.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết khoa học liên quan đến BPTG được đăng trên
Tạp chí Kiểm sát; Tạp chí Tòa án… như: “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của Hoàng Tám Phi, đăng trên tạp chí

Kiểm sát, Số 7/2018, tr.46 -49; “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ,
tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và một số kiến nghị” của tác
giả Nguyễn Văn Đổng, đăng trên Tạp chí Tòa án số 2/2019, tr.28-33…
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết khoa học trên, tác giả nhận thấy
chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài “Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh”. Do đó,
đề tài Luận văn này không bị trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào khác đã
được công bố.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng đến mục đích là thống nhất nhận thức
về một số vấn đề lý luận và nghiên cứu các quy định pháp luật TTHS Việt Nam hiện
hành về BPTG, làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTHS về tạm giam và đưa ra các

giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ADPL về BPTG trong pháp luật TTHS
Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, Luận văn tập trung thực
hiện các nhiệm vụ sau:
+ Hệ thống những vấn đề lý luận về tạm giam trong TTHS;
+ Phân tích làm rõ quy định của pháp luật TTHS hiện hành về tạm giam;
+ Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTHS về tạm giam;
+ Nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật TTHS về tạm giam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn này những vấn
đề lý luận về BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật
về biện pháp tạm giam trên địa bàn Quận Thủ Đức, TP.HCM.
- Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung: Những vấn đề lý luận, pháp lý về BPTG trong TTHS Việt Nam
và thực tiễn áp dụng BPTG trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử VAHS.
Về không gian: Địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM.
Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học duy vật
biện chứng Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về cải

cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
4


+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ quá trình
nghiên cứu đề thực hiện các nhiệm vụ và đạt được mục đích nghiên cứu đề ra.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình đối chiếu, so sánh quy
định của BLTTHS năm 2015 và BLTTHS 2003 về BPTG qua đó thấy được những
điểm mới của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về BPTG so với trước đây.
+ Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm thống kê số lượng bị can, bị cáo
bị áp dụng BPTG và các số liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn được sử dụng nhằm làm rõ thực trạng áp
dụng, đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân trong quá trình áp dụng BPTG trên địa bàn thuộc phạm vi nghiên cứu
để đưa ra các giải pháp phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn này góp phần hoàn thiện
lý luận về BPTG trong TTHS.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể giúp cơ quan, cá

nhân có thẩm quyền tham khảo để vận dụng vào việc xây dựng, áp dụng pháp luật
TTHS về BPTG cũng như cân nhắc, thực hiện những giải pháp được đề cập trong
Luận văn để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng BPTG. Ngoài ra, Luận văn này có
thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu về BPTG.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung Luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành về biện pháp tạm giam;
Chương 2. Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giam trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh;
Chương 3. Nhu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật tố tụng
hình sự về biện pháp tạm giam từ thực tiễn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giam
Để đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng BPTG trong công tác phòng ngừa tội
phạm, đồng thời bảo đảm quyền con người trong TTHS, đòi hỏi các cơ quan, người có
thẩm quyền và các cá nhân, công dân cần nhận thức đúng đắn về biện pháp này cả cả
về lý luận và cũng như các quy định pháp luật có liên quan. Về mặt lý luận, trước hết
cần làm rõ khái niệm biện pháp “tạm giam”. Đây chính là nền tảng để tác giả thống
nhất nhận thức và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận khác liên quan đến BPTG.

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “tạm” là chỉ trong một thời gian nào đó, khi có

điều kiện thì sẽ có thay đổi, mang tính tạm thời [56, tr.814]; “giam” tức là “giữ
người bị coi là có tội ở một nơi nhất định không cho tự do đi lại, tự do hoạt động”
[56, tr.345]. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ học, có thể hiểu khái quát rằng: Tạm
giam là biện pháp giữ người bị coi là có tội ở một nơi nhất định không cho tự do
hoạt động, đi lại trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi.
Ngoài cách hiểu khái quát về BPTG như trên, tác giả tác giả nhận thấy trong các
giáo trình, công trình nghiên cứu chuyên khảo về TTHS, khái niệm BPTG còn được
diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, điển hình như một số khái niệm sau:
- Quan điểm (1) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong
trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
[49, tr.45 ].
- Quan điểm (2) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với
xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản
6


trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm bảo
cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi” [42, tr.224].
- Quan điểm (3) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự mà theo đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong những trường
hợp nhất định có thể tước tự do đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm
hoặc đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử” [4, tr.92];
- Quan điểm (4) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng hạn
chế tự do cá nhân với mức độ nghiêm khắc nhất trong thời hạn tương đối dài đối
với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án được tiến hành thuận lợi” [41, tr.112].

Phân tích các khái niệm nêu trên có thể thấy rằng: Nội dung diễn đạt các khái
niệm có sự khác nhau do cách thức tiếp cận của nhà nghiên cứu, cụ thể như sau: Khái
niệm (1) được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các quy định pháp luật TTHS tại thời điểm
nghiên cứu về thẩm quyền, căn cứ áp dụng. Khái niệm (2, 3, 4) được xây dựng trên cơ
sở xác định rõ chủ thể có thẩm quyền, đối tượng bị áp dụng, hệ quả của việc áp dụng
BPTG đối với người bị áp dụng và mục đích của việc áp dụng BPTG. Việc xây dựng
khái niệm với các nội dung xác định bản chất của BPTG là BPNC trong TTHS, hình
thức biểu trưng và mục đích áp dụng BPTG là phù hợp. Tuy nhiên, việc liệt kê các cơ
quan có thẩm quyền áp dụng và căn cứ áp dụng BPTG theo quy định pháp luật TTHS
tại thời điểm người nghiên cứu tiếp cận sẽ không bảo đảm được tính chính xác của khái
niệm về BPTG trong trường hợp quy định pháp luật TTHS thay đổi. Do đó, theo tác
giả, để đảm bảo tính khoa học, ổn định của khái niệm, việc xây dựng khái niệm cần dựa
trên các đặc điểm thuộc về bản chất của BPTG đó là:

Một là, BPTG là một BPNC được quy định cụ thể trong pháp luật TTHS.
Trong đó, căn cứ, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn áp dụng cũng như căn cứ, thẩm
quyền, thủ tục thay thế, hủy bỏ BPTG được quy định trong các quy phạm pháp luật
tố tụng hình sự cụ thể.
Hai là, đối tượng bị áp dụng BPTG là người bị buộc tội. Đó là những người
7


mà cơ quan có thẩm quyền cho rằng người đó đã thực hiện hành vi mà BLHS quy
định là tội phạm. Đặc điểm này giúp phân biệt BPTG với những BPNC, cưỡng chế
trong các lĩnh vực tố tụng khác nhau tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Điều này
cũng phù hợp với quy định Hiến pháp và chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Tuy nhiên, không phải tất cả người bị buộc tội đều bị áp
dụng BPNC này mà pháp luật TTHS chỉ quy định cụ thể trong trường hợp nào thì
người bị buộc tội bị áp dụng BPTG. Với quy định pháp luật Việt Nam hiện nay thì
đối tượng bị áp dụng BPTG là bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ, dẫn độ trong

khi thỏa mãn những căn cứ luật định.
Ba là, hệ quả của việc áp dụng BPTG là người bị áp dụng BPNC này bị cách
ly ra khỏi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định. Theo đó, khi cơ quan có
thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG, người bị áp dụng được giao cho các cơ sở
giam giữ để chịu sự quản lý trong khoảng thời gian nhất định theo Lệnh, quyết định
tạm. Với việc bị quản lý tại cơ sở giam giữ, người bị tạm giam không thể tiếp tục
phạm tội hay có cách hành động gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS như bỏ
trốn, thông cung, tiêu hủy chứng cứ…
Từ những nhận thức nêu trên, tác giả mạnh dạn xây dựng khái niệm về
BPTG như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp luật tố tụng
hình sự, do cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn
luật định, qua đó cách ly người bị buộc tội ra khỏi đời sống xã hội trong thời gian
nhất định, nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định, áp dụng biện pháp tạm giam trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Với vai trò là một BPNC trong TTHS, tạm giam có ý nghĩa lớn đối với quá
trình giải quyết VAHS cũng như bảo đảm các quyền con người và quyền công dân
trong TTHS, cụ thể như sau:
Một là, BPTG là một biện pháp góp phần củng cố và tăng cường pháp chế
8


XHCN, thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Hai là, quy định pháp luật về BPTG là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo
đảm sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi
nhận, bảo đảm rằng không một người nào bị tạm giam trái pháp luật. Trong trường
hợp bị tạm giam trái pháp luật, người bị tạm giam có quyền khiếu nại, yêu cầu bồi
thường thiệt hại. BPTG còn bảo đảm cho mọi cá nhân, công dân được tôn trọng, bảo

vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối
tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân được yên tâm sinh sống, học tập, làm
việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ba là, BPTG bảo đảm cho sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của
cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết VAHS, góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, bảo đảm
tính chính xác, khách quan của hoạt động TTHS. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo
cho việc thi hành các bản án hình sự đã được tuyên và ngăn ngừa các đối tượng tiếp
tục phạm tội.
1.1.3. Căn cứ quy định biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam
Việc quy định một cách đúng đắn về BPTG nói riêng và các BPNC nói
chung là đảm bảo quan trọng cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ của luật TTHS, đó là:
Phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Do đó, khi quy định về BPTG và các BPNC khác, đòi hỏi nhà lập pháp phải
dựa trên các căn cứ sau đây:
- Căn cứ Hiến pháp: Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
năm 1946 và các Hiến pháp tiếp theo (1969, 1980, 1992 và 2013) đã quy định những
nền tảng cơ bản cho việc quy định và áp dụng các BPNC. Đó là những quy định về
9


vấn đề quyền con người, trong đó khẳng định quyền con người, quyền công dân được
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm thực hiện và chỉ bị hạn chế trong một số
trường hợp cần thiết theo quy định của Hiến pháp và Luật. Trên cơ sở các quy định của
Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành các quy định về BPNC trong đó có BPTG, ví dụ

như: Quy định về việc bắt giam trong Sắc lệnh số 103 ngày 20/5/1957; quy định về
những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp trong Sắc lệnh
số 002 ngày 18/6/1957; quy định về các BPNC trong BLTTHS năm 1988, năm 2003 và
năm 2015… Đến nay, các quy định về BPNC nói chung và BPTG nói riêng trong
BLTTHS năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLTTHS hiện hành) được ban hành dựa trên các
quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, cụ thể là: Điều
14 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”. Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2.Không ai bị bắt
nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện
kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật
định”. Các quy định trên đây của Hiến pháp năm 2013 chính là căn cứ để chi tiết hóa
thành các quy định cụ thể về BPTG trong BLTTHS hiện hành và các văn bản dưới luật
có liên quan.

- Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự: Luật hình sự là luật nội dung nên
luôn đi kèm với luật hình thức tương ứng. Do đó, các quy định của pháp luật TTHS nói
chung và quy định về BPNC trong đó có BPTG nói riêng luôn có xu hướng tồn tại và
thay đổi cùng với các quy định của pháp luật hình sự. Ví dụ: Sự ra đời của BLTTHS
1988 gắn liền với BLHS 1985, BLTTHS 2003 gắn với BLHS 1999 và hiện
10


nay BLTTHS hiện hành gắn với BLHS 2015. Trong đó, quy định về trình tự, thủ tục

của việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS nói chung và các BPNC nói riêng,
kể cả BPTG, cần phải được quy định phù hợp với các quy định của BLHS tương
ứng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất
nước, bảo vệ chế độ XHCN, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, phòng và chống tội phạm.
- Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS: Các nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS là kim chỉ nam cho việc quy định và thực hiện các boạt động TTHS.
Chính vì vậy, trong việc quy định các BPNC nói chung và BPTG nói riêng luôn căn
cứ vào các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN; tôn trọng
và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân, suy đoán vô tội…
- Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội
phạm từng thời kỳ cách mạng: Có thể nói rằng, trong bất kỳ chế độ xã hội nào, nếu
còn có các hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan
hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thì các biện pháp trừng phạt, ngăn ngừa tất yếu
được áp dụng. Trong đó, BPTG được sử dụng như công cụ của việc ngăn ngừa, phòng
và chống các hành vi nguy hiểm đó. Ở nước ta, việc quy định và sử dụng các BPNC
trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau cũng được vận dụng khác nhau căn cứ vào chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước trong từng thời kỳ. Ví dụ: Nếu như
trước đây, khi đất nước đang còn phải dốc sức chống thù trong giặc ngoài thì Đảng ta
chủ trường cần phải áp dụng những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất đối với rất
nhiều đối tượng phạm pháp hoặc bị nghi là phạm pháp, điển hình như: Điều 2 Sắc luật
002-SL ngày 18/6/1957 và Điều 5 của Sắc luật 02-SL ngày 15-3-1976. Tuy nhiên, các
quy định này còn thiếu chặt chẽ, cụ thể dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng, làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây dư luận không tốt trong quần chúng,
ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và tăng cường pháp chế XHCN mà Đảng
11



và Nhà nước quan tâm.
Sau ngày miền Bắc giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền dân chủ được phát huy. Trong bối cảnh ấy,
các hoạt động TTHS nói chung và các BPNC trong TTHS nói riêng đã được pháp
điển hóa thành những quy định trong BLTTHS 1988, đóng góp một phần vô cùng
quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ở giai đoạn sau đó, cùng
với công cuộc cải cách kinh tế, cải cách hành chính, Đảng ta chủ trương đầy mạnh
cải cách tư pháp, trong đó có việc chấn chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam.
Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng như Chỉ thị 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam, theo đó: “Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ,
tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam” [6]. Chủ
trương về hạn chế việc bắt, giữ, giam nêu trên đã được pháp điển trong các quy định
về các BPNC trong đó có BPTG của BLTTHS năm 2003.
Đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và triển khai thực
hiện các chủ trương cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề ra tại Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày
12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội X, XI của Đảng đòi hỏi phải tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 để thể chế hóa đầy đủ chủ
trương, quan điểm về cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đặc biệt, Hiến pháp
năm 2013 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ cần phải
được cụ thể hóa trong các văn bản Luật. Đây chính là lý do Quốc hội đã xây dựng
BLTTHS hiện hành với những nhiều điểm mới so với BLTTHS năm 2003, trong đó có
các quy định về BPNC nói chung và BPTG nói riêng.
- Căn cứ vào thực tiễn tiến hành tố tụng hình sự: Thực tiễn tiến hành TTHS cho
thấy rằng: Các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự chỉ đảm bảo
khi người bị buộc tội hợp tác với cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, đa số người

12


bị buộc tội thường có tâm lý lo sợ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, lo sợ gánh chịu hình
phạt nghiêm khắc, đặc biệt là những bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng, phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, xâm phạm an ninh quốc gia... Với tâm lý
đó, họ sẽ thực hiện những hành vi như: Bỏ trốn, tiêu hủy đồ vật, tài liệu liên quan đến
vụ án... Những hành vi đó gây khó khăn đáng kể cho các cơ quan có thẩm quyền trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người đó như: Không thể triệu
tập được bị can, bị cáo; không thu được đầy đủ chứng cứ làm rõ hành
vi phạm tội... Theo đó, trong những trường hợp cần thiết, việc áp dụng BPNC nghiêm
khắc cách ly người đó ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự sẽ đảm bảo cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cũng như không kịp thời ngăn chặn tội phạm.
BPNC này phải được quy định một cách cụ thể về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn
áp dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật về TTHS. Đây chính là một trong những
căn cứ cho việc quy định về BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam.
- Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm: Thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm còn cho thấy với xu hướng diễn biến phức tạp của tình hình tội
phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, phương thức phạm tội tinh vi, táo
bạo hơn, nhiều thủ đoạn nhằm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án… Bên cạnh đó, chủ động hội nhập quốc tế ngày nay đang trở thành nhu cầu
nội tại của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam với việc tham gia nhiều tổ
chức quốc tế và trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu
tranh phòng, chống tội phạm cùng với sự hợp tác với các quốc gia thông qua việc ký
kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp
hành hình phạt tù với các nước trên thế giới. Trong khi đó, nhiều quy định của
BLTTHS mới dừng ở những quy định chung; chưa quy định rõ về giá trị của các nguồn
tư liệu có được thông qua hoạt động tương trợ tư pháp hình sự; thiếu các quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục, mối quan hệ phối hợp giữa các CQTHTT nhằm thực hiện tốt

các cam kết quốc tế, đặc biệt là trong việc dẫn độ. Những vấn đề này đòi hỏi các
CQTHTT, người THTT cần áp dụng những biện pháp cần thiết đề kịp thời ngăn
13


chặn tội phạm và bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
trong đó có BPTG qua đó cách ly người bị buộc tội ra khỏi xã hội một thời gian
nhất định trong thời hạn luật định khi thỏa mãn các căn cứ cụ thể. Đây cũng chính là
một trong những căn cứ để quy định BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam.
1.1.4. Các nguyên tắc áp dụng biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTHS là hoạt động đa dạng, phức tạp
liên quan nhiều đến quyền và nghĩa vụ của công dân nhất; đồng thời đáp ứng yêu
cầu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải kiên quyết và thận trọng, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, các cơ quan có thẩm quyền cần quán
triệt các nguyên tắc nhất định khi quyết định áp dụng BPTG. Các nguyên tắc đó là:
- Nguyên tắc kiên quyết xử lý tội phạm: Nhiệm vụ đấu tranh trấn áp tội phạm
là yêu cầu đòi hỏi cần thiết và cấp bách để bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của
đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm
tội... đặc biệt là đối với các loại tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Theo
đó, việc áp dụng BPNC trong TTHS nói chung và BPTG nói riêng là cần thiết, để
kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để đối tượng phạm tội tiếp tục phạm tội, hoặc
gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án khi có đủ căn cứ
luật định. Đây chính là mục đích của việc áp dụng BPNC nói chung và BPTG nói
riêng trong TTHS.
Nguyên tắc kiên quyết xử lý tội phạm trong quá trình áp dụng BPTG còn thể
hiện ở việc: Đối với những đối tượng xét thấy cần thiết và có đủ căn cứ áp dụng BPTG
phải kiên quyết áp dụng để, đảm bảo thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án. Điều này thể hiện ở chỗ BPTG có thể được quyết định áp dụng đối với bị can,

bị cao phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà không cần thêm căn cứ nào
khác. Đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng thì cần căn nhắc đến
những yếu tố khác về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân
bị can, bị cáo có đảm bảo cho việc giải quyết VAHS hay không để
14


quyết định áp dụng hay không áp dụng BPTG. Khi xét thấy không còn cần thiết
phải áp dụng BPTG thì cơ quan có thẩm quyền quyết định hủy bỏ hoặc thay thế
biện pháp này bằng BPNC khác.
- Nguyên tắc pháp chế XHCN: Pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của Bộ máy Nhà nước XHCN. Đây chính là nguyên tắc Hiến định, là đòi hỏi
hoạt động của quản lý xã hội của Nhà nước nói chung và hoạt động TTHS nói riêng.
Trong hoạt động TTHS, nguyên tắc pháp chế XHCN được thể hiện ở Điều 2 của
BLTTHS: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.” Như vậy, theo
quy định của BLTTHS thì hoạt động điều tra, truy tố, xét xử chủ yếu do các cơ quan
THTT hình sự và người THTT hình sự quy định, đồng thời có sự tham gia của một
số cơ quan tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến VAHS. Các hoạt động nêu trên
phải thực hiện theo đúng quy định của BLTTHS thì mới đảm bảo việc phát hiện kịp
thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội. Như vậy, với vai trò là BPNC trong TTHS, việc áp dụng BPTG
cũng phải tuân theo nguyên tắc này, cụ thể như sau:
Một là, áp dụng BPTG khi cần thiết và có căn cứ áp dụng.
Việc áp dụng các BPTG ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do của con người,
đến sinh mệnh chính trị của người bị áp dụng nên khi áp dụng phải hết sức thận
trọng, tránh việc áp dụng tràn lan. Khi áp dụng phải chú ý chỉ khi xét thấy thật cần
thiết và có căn áp dụng rõ ràng, cần phải áp dụng mới được áp dụng. Đó chính là sự
thể hiện sự thận trọng và tuân thủ pháp chế XHCN.

Hai là, về thẩm quyền áp dụng phải tuân theo đúng quy định của BLTTHS.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan, thận trọng trong việc giải quyết VAHS,
BLTTHS đã quy định thẩm quyền rất cụ thể cho từng loại BPNC. Vì vậy, khi áp dụng
BPTG, cơ quan và người THTT phải tuân thủ quy định này. Cùng với việc tuân theo
quy định pháp luật về thẩm quyền áp dụng BPTG thì việc tuân thủ các quy định về thủ
tục áp dụng cũng rất quan trọng để tăng cường pháp chế XHCN. Việc tuân thủ nguyên
tắc này còn đòi hỏi khi áp dụng BPTG đối với một người không được tùy
15


tiện, định kiến cá nhân, đồng thời phải đảm bảo sự thống nhất trên toàn quốc, không
có trường hợp ngoại lệ nào.
Như vậy, có thể thấy rằng: Nguyên tắc kiên quyết trấn áp tội phạm pháp chế
XHCN trong áp dụng BPNC nói chung và tạm giam nói riêng có mối quan hệ với
nhau. Kiên quyết trấn áp, xử lý tội phạm phải đi đôi với vấn đề dân chủ, nhân đạo
và vấn đề pháp chế. Do vậy, kiên quyết xử lý tội phạm phải trên cơ sở của pháp luật,
đó là sự kết hợp hài hòa, không được đề cao một nguyên tắc nào.
- Nguyên tắc nhân đạo XHCN: Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, do đó hoạt động TTHS nói chung và áp dụng BPNC nói riêng trong đó
có tạm giam phải xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN. Nội dung của nguyên
tắc nhân đạo XHCN được thể hiện ở nội dung sau:
Việc áp dụng BPTG không phải là để trừng trị người phạm tội và BPTG không
phải là hình phạt. Theo đó, chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người
đang chấp hành hình phạt tù. Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên
hệ với gia đình được thực hiện theo chế độ tạm giữ, tạm giam trong Luật thi hành tạm
giữ, tạm giam và các văn bản hướng dẫn thi hành. Khi xét thấy BPTG đang áp dụng
không còn cần thiết thì cần phải hủy bỏ hoặc áp dụng bằng BPTG khác có tính chất,
mức độ ít nghiêm khắc hơn, ví dụ như thay đổi từ BPTG sang các BPNC khác như cấm
đi khỏi nơi cư trú, hoặc bảo lĩnh, đặt tiền hoặc hoặc tài sản để bảo đảm...


Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở chỗ không áp dụng BPTG đối với một
số đối tượng đặc biệt trừ trường hợp Luật cho phép, ví dụ các đối tượng quy định tại
khoản 4 Điều 119 BLTTHS hiện hành như: “bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
mà nơi cư trú rõ ràng…”.
Ngoài ra, đối với các đối tượng là người chưa thành niên phạm tội thì Luật
cũng có những quy định riêng biệt về căn cứ, thủ tục và thời hạn tạm giam nhằm
bảo đảm tối đa quyền của nhóm đối tượng có đặc điểm tâm lý, thể chất đặc biệt này.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định rằng: Các nguyên tắc áp dụng
BPTG chính là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp
16


luật về BPTG trong TTHS. Đây là những nguyên tắc được xây dựng xuất phát từ
quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đảm bảo cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
con người, của công dân trong TTHS.
1.2. Quy định về biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành
BLTTHS hiện hành là văn bản luật quy định về BPTG một cách hệ thống và đầy
đủ nhất về đối tượng áp dụng, căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng, hủy bỏ,
thay thế BPTG, thời hạn tạm giam. Ngoài ra, nhằm thống nhất thực hiện một số quy
định của Bộ luật này về BPTG trong đơn ngành và liên ngành các cơ quan Trung ương
đã ban hành các Thông tư, Thông tư liên tịch, Nghị quyết, Quyết định theo thẩm quyền
về các nội dung liên quan đến BPTG trên cơ sở những quy định của BLTTHS hiện
hành như: Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018
quy định về phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của
BLTTHS về khởi tố, điều tra và truy tố; Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 về phối hợp
thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi;

Nghị quyết 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng thẩm phán TANDTC;
Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ trưởng Bộ công an; Quyết định
số 15/QĐ-VKSNDTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao... Trong các
văn bản này chứa đựng những quy định đơn ngành, liên ngành về quan hệ phối hợp của
các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố cũng như những biểu mẫu
được sử dụng trong quá trình giải quyết VAHS nói chung và liên quan đến việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ BPTG nói riêng.

Có thể nói rằng, BLTTHS hiện hành và các văn bản dưới luật có liên quan
chính là cơ sở pháp lý cho các chủ thể áp dụng pháp luật về BPTG trong thực tiễn.
Theo đó, BPTG trong pháp luật TTHS hiện hành được quy định như sau:

17


1.2.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng
biện pháp tạm giam
1.2.1.1. Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định tại Điều 119 BLTTHS hiện hành, đối tượng có thể bị áp dụng
BPTG chỉ có thể là bị can, bị cáo, người có yêu cầu dẫn độ.
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự tức là những người có quyết định
khởi tố bị can về một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Bị cáo là người
đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều
bị áp dụng BPTG, mà chỉ có thể áp dụng khi có những căn cứ được quy định tại
Điều 119 BLTTHS, cụ thể như sau:
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 119 BLTTHS, BPTG có thể áp dụng với bị
can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Nếu bị can, bị cáo
thuộc những trường hợp này, người có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng BPTG
ngay mà không cần có thêm căn cứ nào khác.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 119 BLTTHS hiện hành, BPTG có thể áp

dụng với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong
các trường hợp: Đã bị áp dụng BPNC khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ
ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm
tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán
tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
- Theo quy định tại Khoản 3 Điều 119 BLTTHS hiện hành, BPTG có thể áp
dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã.

18


- Theo quy định tại Khoản 4 Điều 119 BLTTHS hiện hành, BPTG không áp
dụng đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không
tạm giam mà áp dụng BPNC khác, trừ các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài
liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù
người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những
người này; Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác
định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Quy
định tại Khoản 4 Điều 109 BLTTHS hiện hành cho thấy tính nhân đạo XHCN, tôn
trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em bởi với điều kiện sinh hoạt trong các cơ
sở giam giữ thì không thể đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai,

nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi người già yếu và người bị bệnh nặng.
Như vậy, ngoài 02 nhóm đối tượng được quy định trong BLTTHS năm 2003
là “bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng” và “bị can, bị
cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định
hình phạt tù trên hai năm” (nếu thuộc một trong những căn cứ luật định) thì
BLTTHS hiện hành bổ sung thêm 01 nhóm đối tượng nữa cũng có thể bị áp dụng
BPTG, đó là “bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù đến hai năm” nhưng phải thuộc một trong các trường hợp “nếu họ tiếp
tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”. Việc mở rộng thêm
đối tượng bị áp dụng BPTG là phù hợp với thực tiễn và chính sách hình sự của nước
ta vì trong trường hợp đối tượng phạm tội nhiều lần hoặc sau khi phạm tội bỏ trốn là
thể hiện mức cao hơn tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, cần phải được áp
dụng BPTG nếu xét thấy cần thiết để ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với các trường hợp cụ thể này.
Ngoài đối tượng là bị can, bị cáo, người bị xem xét yêu cầu dẫn độ và người
bị dẫn độ có thể bị áp dụng BPTG theo quy định tại Điều 502 BLTTHS hiện hành.
19


×