Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.37 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ KHẮC SƠN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ KHẮC SƠN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

Hà Nội, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ

Lê Khắc Sơn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN ........................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm Quyền công tố và Thực hành Quyền công tố .................... 9
1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản ............................................................................................ 16
1.3. Những hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản ................................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 31
2.1.Tình hình tội phạm tham ô trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .................. 31
2.2. Kết quả công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh .......................................................... 37
2.3 Những hạn chế yếu kém, vướng mắc khi THQCT trong giai đoạn điều
tra các tội phạm tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân .......... 42

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI
PHẠM THAM Ô TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH ................ 49
3.1. Dự báo về tội phạm tham ô tài sản và giải pháp nâng cao hiệu quả
THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 49
3.2. Phương hướng và các giải pháp nhằm đảm bảo, nâng cao hiệu quả
THQCT tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
CQĐT

Cơ quan điều tra

THQCT Thực hành quyền công tố
KTVA

Khởi tố vụ án

KTBC


Khởi tố bị can


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà
nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhận thức được tác hại của tham nhũng, ngay từ khi mới giành
được chính quyền, Đảng ta đã xác định tham nhũng là một kẻ thù nguy hiểm
không kém gì giặc ngoại xâm nên phải kiên quyết loại bỏ. Trong từng nhiệm
kỳ Đại hội, Đảng ta đã xác định quan điểm, đề ra các chủ trương và những
giải pháp cơ bản, quan tâm chỉ đạo có tính chất chiến lược về phòng, chống
tham nhũng phù hợp từng thời kỳ cách mạng. Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ
trọng tâm là phải ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo
bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã
hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
Với vai trò chức năng là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong
những năm qua Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện đầy đủ, chất lượng
những mục tiêu mà Đảng đã chỉ rõ; đồng thời, thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần quan trọng vào kết quả công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng
thời gian qua cho thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn
nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa cao

và một trong những nguyên nhân của những tồn tại đó là do quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa hoàn thiện.

1


Trong những năm gần đây, trên địa bàn cả nước cũng như địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, tình hình tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài
sản nói riêng diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ, số
người phạm tội lẫn tính chất, mức độ phạm tội. Thực hiện chủ trương cải cách
tư pháp, trong những năm qua, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng đã được chú trọng
hơn và có những chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao chất lượng. Các
cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã khởi tố điều tra, truy tố, xét xử được
nhiều vụ án có tính chất phức tạp, được dư luận quan tâm, đảm bảo đúng thời
hạn luật định, bước đầu đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng trong tình hình mới, nhất là đối với những vụ án tham
nhũng được theo dõi, chỉ đạo của Ban nội chính Trung ương, của các Tỉnh uỷ
và Thành uỷ. Các vụ án tham nhũng được tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử đều đảm báo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh
đó, việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án tham nhũng nói
chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng còn chậm, số lượng xử lý chưa phản
ánh đúng thực trạng tội phạm tham nhũng xảy ra trên thực tế, vẫn còn tình
trạng bỏ lọt tội phạm; việc thu thập chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn; nhiều
vụ án việc xác định đường lối xử lý chưa tốt do có nhiều quan điểm khác
nhau về đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng các quy định của pháp luật; đội ngũ
cán bộ chuyên trách trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng như đội
ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng còn mỏng, nhiều cán bộ hạn chế về
năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của một số
cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống

tham nhũng.
Là cơ quan do Quốc hội thành lập, Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan
được giao chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp,
được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trọng trách phối hợp với các cơ

2


quan chức năng trong bộ máy Nhà nước trực tiếp đấu tranh phòng, chống các
loại tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng; đồng thời, tham mưu
với Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, biện pháp đấu tranh quyết liệt, mạnh
mẽ và phòng, chống hiệu quả đối với loại tội phạm này, góp phần quan trọng
vào việc thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội. Trong
những năm qua, công tác thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham
nhũng của ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều nỗ lực, đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận. Viện kiểm
sát nhân dân các cấp đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực,
phối hợp với Cơ quan điều tra, Toà án nhân dân và các cơ quan hữu quan kịp
thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử nghiêm minh nhiều vụ án
tham nhũng được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Công tác thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án tham nhũng được thực
hiện tốt; 100% các vụ án về tham nhũng được kiểm sát ngay từ khi vụ án
được phát hiện, khởi tố, bảo đảm việc phê chuẩn khởi tố bị can, áp dụng, thay
thế các biện pháp ngăn chặn, đảm bảo các trường hợp bị giam, giữ có căn cứ,
đúng hạn luật định; đảm bảo thời hạn tố tụng điều tra, giải quyết; việc truy tố,
xét xử đúng người, đúng tội; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố
tụng đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, đề ra nhiều biện pháp để thu hồi triệt để
tài sản tham nhũng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động thực hành

quyền công tố đối với các vụ án tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài
sản nói riêng còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc như: Việc tăng cường
trách nhiệm công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm; một số Kiểm sát viên chưa chủ động bám sát hoạt động điều tra để
phối hợp cùng Điều tra viên trong việc xác định kế hoạch điều tra, thu thập và

3


đánh giá chứng cứ; việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong nhiều
vụ án còn chưa thống nhất; tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn chiếm
tỷ lệ cao, nhiều vụ án trả nhiều lần dẫn đến thời hạn giải quyết bị kéo dài;
nhiều vụ án kéo dài thời hạn giải quyết do phải chờ kết luận giám định tư
pháp… Những tồn tại, hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
điều tra và hoạt động thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham ô tài
sản. Những hạn chế tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau; trong
đó nguyên nhân cơ bản là nhận thức về công tác thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân còn thiếu đầy đủ và chưa thống nhất. Lý luận về công
tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa
được nghiên cứu có hệ thống, toàn diện. Thực tiễn công tác thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong đó có các vụ án tham ô tài
sản chưa được chú trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên.
Với mục đích tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà
nước và nhân dân giao phó; từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài
sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sỹ luật học, nhằm đáp ứng
cả về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản tại Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề thực hành quyền công tố và tội phạm tham ô tài sản. Điển hình như:
- Luận án Tiến sĩ luật: “Thực trạng, nguyên nhân các biện pháp đấu
tranh phòng chống tội phạm về tham nhũng” của tác giả Trần Công Phàn-Phó
Viện trưởng VKSND tối cao, bảo vệ tại Viện nhà nước và pháp luật năm
2004.

4


- Luận văn thạc sĩ luật: “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham
nhũng” của tác giả Nguyễn Thế Anh, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật: “Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm
tham nhũng” của tác giả Trần Anh Tuấn, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
- Luận văn thạc sĩ luật: “Cơ sở lí luận, thực tiễn xây dựng và hoàn thiện
bộ máy phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Việt
Phương, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2007.
Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngành kiểm
sát và nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: “VKSND các cấp cần tập trung làm
tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra” của TS. Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 8-2012; “Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm tham nhũng và một số
giải pháp đấu tranh phòng, chống” của TS. Nguyễn Xuân Hà và Th.sỹ Hoàng
Thành Nam, đăng trên Thông tin khoa học kiểm sát tập 5 năm 2017; “Kinh
nghiệm và bài học trong giải quyết các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ

đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp” của TS. Nguyễn Huy Tiến, đăng trên Tạp trí
Kiểm sát số 06-2019;
Kết quả nghiên cứu của các đề tài, bài viết trên đã được đưa vào vận dụng
trong thực tiễn và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, dưới góc độ lý luận, chưa có nghiên cứu nào đi sâu về thực trạng của
công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án tham ô tài sản.
Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu bởi công tác đấu tranh phòng, chống
các loại tội phạm trong đó có tội phạm tham ô tài sản ngoài đặc điểm chung thì ở
từng địa phương, mỗi vụ án lại có những đặc điểm riêng như tính chất, mức độ,
phương thức, thủ đoạn phạm tội, điều kiện kinh tế, xã hội...

5


Hơn nữa, tỉnh Quảng Ninh hiện là một trong những địa bàn tội phạm
tham ô tài sản diễn biến phức tạp và hiện quá trình giải quyết các vụ án về tội
phạm tham ô tài sản tiếp tục nảy sinh những vấn đề vướng mắc mới. Vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng, chống tội
tham ô và tiếp tục nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra tài sản đối với tội phạm tham ô tài sản của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích: Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản. Đánh giá
thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản tại Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Về nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền
công tố, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và thực hành

quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Đặc điểm, căn cứ pháp lý và các giai đoạn thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động, kết quả đạt được của VKSND
tỉnh Quảng Ninh trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội
phạm tham ô tài sản. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân; trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể để khắc phục hạn chế, khó
khăn, vướng mắc, nhằm đảm bảo đảm, nâng cao chất lượng THQCT ở giai
đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản tại VKSND tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận,
pháp luật và thực tiễn về hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

6


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động THQCT trong
giai đoạn điều tra đối với các tội phạm tham ô tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong 05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018, trên cơ sở quy định
của Bộ luật Hình sự năm 1999 và năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 và năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật xã hội
chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ
nghĩa; các quan điểm, đường lối của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp thể
hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị; các chính sách, pháp luật của Nhà
nước và chỉ đạo của ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm tham ô tài sản nói riêng.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của khoa học Luật hình sự,

Luật tố tụng hình sự và cách tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu của Triết học Mác - Lênin và các khoa học chuyên ngành khác,
trong đó chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về hoạt
động của VKSND trong THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài
sản; hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản. Các nghiên cứu
của luận văn là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực tiễn, có thể làm cơ sở
cho việc nhận thức thống nhất pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khi
giải quyết các vụ án tham ô tài sản.

7


Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối tương, phạm vi
và nội dung của Quyền công tố và THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản của VKSND; phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân của hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; nêu quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra
các tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu của các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo,
danh mục những từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm có 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản.

Chương 2: Thực trạng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh
Quảng Ninh.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN

1.1. Khái niệm Quyền công tố và Thực hành Quyền công tố
1.1.1. Khái niệm Quyền công tố
“Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ có hành vi phạm
pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án”. Do vậy Công tố được hiểu là nhân danh
Nhà nước để cáo buộc, buộc tội người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm
trước Tòa án. Ở nước ta, quyền công tố và THQCT gắn với chức năng của
VKSND. Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013 và Luật tổ chức VKSND năm
1981, 2002, 2014 đều đề cập đến quyền công tố và quy định rõ: “Viện kiểm
sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp... Tuy
nhiên, khái niệm về Quyền công tố còn có các quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Các hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đều là hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát”. Quan điểm này đánh đồng quyền công tố
với kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát các hoạt động tư pháp) của
VKSND. Nhận thức như trên về quyền công tố là chưa đúng, vì chức năng
công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo
pháp luật) là hai chức năng độc lập, riêng biệt của VKSND đã được Hiến

pháp quy định. Trong quá trình thực hiện các khâu công tác kiểm sát, chức
năng công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND luôn
song hành, tác động, bổ trợ chặt chẽ với nhau.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Quyền công tố là nhân danh Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật, người thực hiện hành vi phạm pháp luật
ra Tòa án để xét xử”. Theo nhận thức này, quyền công tố xuất hiện và gắn với
Nhà nước và Pháp luật, là quyền lực mà Nhà nước giao cho VKSND thực

9


hiện chức năng, nhiệm vụ để thực thi pháp luật và các hoạt động tố tụng trong
lĩnh vực tư pháp (bao gồm lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính và các lĩnh
vực tố tụng khác. Nếu theo quan điểm này nội dung, phạm vi của quyền công
tố của VKSND quá rộng, bao gồm cả trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng
nhưc lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính.
Quan điểm thứ ba cho rằng “Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước
giao Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc buộc tội hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội”. Theo quan điểm này, quyền công tố
là quyền buộc tội của VKSND nhân danh Nhà nước đối với người thực hiện
hành vi phạm tội và được tiến hành trong lĩnh vực tố tụng hình sự. VKSND
có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm chứng minh,
quy kết hành vi phạm tội; thực hiện quyền năng truy tố người phạm tội, buộc
tội người phạm tội để đề nghị Tòa án tuyên áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội theo luật định.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba nhận thức về khái niệm quyền
công tố, vì quan điểm này đã khẳng định được quyền công tố là quyền lực của
Nhà nước, giao cho một cơ quan nhà nước là VKSND nhân danh Nhà nước để
buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự (tội phạm); đồng
thời cũng xác định quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

người phạm tội; truy tố và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này thể
hiện quan điểm của Đảng qua các thời kỳ về xây dựng thể chế Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương về cải cách nền tư pháp Việt Nam.
Khái niệm Quyền công tố: Là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm quá
trình thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ, khách quan, toàn diện để chứng minh
tội phạm, từ đó quyết định việc truy tố người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội đó
trước Tòa án.

10


Đối tượng của quyền công tố: Hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác
nhau về đối tượng quyền công tố.
Với quan điểm quyền công tố so với với chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp là đồng nhất thì đối tượng của quyền công tố là sự chấp hành
pháp luật, tuân thủ trình tự luật định của những người tham gia tố tụng, người
tiến hành tố tụng và của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, về bản
chất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật (hay còn được hiểu là kiểm sát các
hoạt động tư pháp) và quyền công tố là hoàn toàn khác nhau. Bản chất của
kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra, giám sát tính có căn cứ và
tính hợp pháp, còn bản chất của quyền công tố là trừng phạt những hành vi
phạm tội.
Với quan điểm hiểu quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh Nhà
nước để đưa các vụ việc, đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật ra trước Tòa
án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh,
thống nhất thì đối tượng của quyền công tố được coi là các hành vi vi phạm
pháp luật mà Nhà nước đã quy định. Nếu hiểu theo cách này thì đối tượng của
quyền công tố tức là các hành vi vi phạm pháp luật rất rộng, không chỉ xảy ra

trong lĩnh vực hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực như dân sự, hành
chính, kinh tế…
Với quan điểm xác định quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi vi phạm pháp
luật bị xác định là tội phạm và quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
buộc tội đối với người phạm tội, thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm
và người phạm tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, do đó Nhà nước phải đại diện xã hội

11


chứng minh tội phạm và trừng trị người phạm tội bằng các quy định do chính
Nhà nước quy định. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng đối
tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội.
Nội dung của quyền công tố: Từ việc đồng tình với quan điểm quyền công
tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm: “Nội dung của quyền công tố
là quá trình thực hiện buộc tội đối với người phạm tội (người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội) và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án ”. Trong các hoạt
động tố tụng hình sự luôn tồn tại các chức năng: buộc tội (truy cứu trách nhiệm
hình sự), gỡ tội (bào chữa), kết tội (xét xử, tuyên án). Chức năng buộc tội chính
là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người hoặc pháp nhân thực
hiện hành vi bị coi là tội phạm. Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng
buộc tội có thẩm quyền, trách nhiệm đưa ra các luận điểm, chứng cứ để quy kết,
cáo buộc tội phạm.
Phạm vi quyền công tố: Như vậy, quyền công tố là quyền lực Nhà nước,

được trao cho VKSND bằng việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Hiện
nay cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi quyền công tố:
Về phạm vi không gian: Có nhiều quan điểm cho rằng quyền công tố
không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực khác
như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính... Tuy nhiên, với quan điểm xác định
quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh Nhà nước để thực hiện việc buộc tội,
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tác giả đồng tình với quan
điểm quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công
tố): Hiện nay cũng còn nhiều quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng “Phạm vi
quyền công tố được bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra kết thúc việc điều tra tội
phạm, Viện kiểm sát thụ lý vụ án và ban hành quyết định truy tố người phạm tội

12


ra trước Tòa án và kết thúc khi Tòa án xét xử, tuyên bản án có hiệu lực pháp
luật đối với người bị buộc tội”. Nếu hiểu theo cách này thì phạm vi quyền công
tố sẽ chỉ có ở giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án; phạm vi
quyền công tố bị thu hẹp không đánh giá được hoạt động quyền công tố trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng “Phạm vi
quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi người phạm tội
chấp hành xong bản án do Tòa án tuyên”. Theo quan điểm này, quyền công tố là
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội; quyền
công tố chỉ kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án có hiệu lực pháp
luật; cách hiểu này quá rộng và không cụ thể về nội dung, đối tượng, phạm vi
của quyền công tố. Quan điểm thứ ba cho rằng “Phạm vi quyền công tố được bắt
đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án của Tòa án đã tuyên đối với
người phạm tội có hiệu lực pháp luật”. Theo quan điểm này khi hành vi phạm
tội xảy ra, các cơ quan đại diện cho Nhà nước và được Nhà nước giao thực hiện

chức năng, thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội phải tiến
hành các hoạt động tố tụng theo luật định nhằm phát hiện, thu thập tài liệu,
chứng cứ để chứng minh, xác định tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở để
buộc tội và kết tội người phạm tội. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba về
phạm vi quyền công tố bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để buộc tội,
truy cứu TNHS đối với người phạm tội nên phải bắt đầu từ khi tội phạm được
thực hiện và chỉ kết thúc khi người phạm tội bị trừng phạt bằng bản án đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân danh Nhà nước. Bộ luật tố tụng hình sự 2015
quy định Quyền công tố được bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về
tội phạm cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật; theo đó, VKSND được đại
diện cho Nhà nước thực hiện quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng như: giải
quyết nguồn tin về tội phạm (khi tội phạm được thực hiện), khởi tố và điều tra vụ
án, truy tố và xét xử vụ án hình sự.

13


1.1.2. Khái niệm Thực hành quyền công tố
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong nhận thức về THQCT
và hoạt động thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận, tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân, Hiến pháp năm 2013 và Luật
Tổ chức VKSND năm 2014 đã thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp
của Đảng, xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản
của VKSND trong đó có chức năng THQCT. Trong hệ thống các cơ quan tư
pháp, Đảng và Nhà nước ta giao cho VKSND là cơ quan duy nhất thực hiện
chức năng quyền công tố để buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm
tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức
VKSND năm 2014 và Bộ luật TTHS năm 2015 đều quy định: Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong

tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án..., nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố điều tra,
truy tố, xét xử thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Theo đó, hoạt động
THQCT luôn gắn liền với việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội;
THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội, đại diện Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm.
THQCT là quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp
luật TTHS để truy cứu TNHS người phạm tội, buộc tội và đưa người phạm tội ra
xét xử trước Tòa án. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong
giai đoạn tố tụng hình sự đại điện cho Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối
với người hoặc pháp nhân phạm tội, được thực hiện từ khi giải quyết nguồn
tin về tội phạm cũng như trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự.

14


Do đó, quyền công tố và THQCT là hai khái niệm khác nhau về cơ bản
theo nội hàm, bản chất của nó. Khi nói đến Quyền công tố phải hiểu là quyền
của Nhà nước, đại diện cho Nhà nước để thực hiện việc truy cứu TNHS, buộc
tội đối với người hoặc pháp nhân phạm tội, đó là phạm trù lý luận. Còn khi
nói đến THQCT phải hiểu đây là một phạm trù thực tiễn, đó là quá trình tiến
hành và tổ chức thực hiện quyền công tố.
Xác định chính xác phạm vi THQCT có ý nghĩa quan trọng, bởi chỉ khi
xác định đúng phạm vi của nó thì quá trình tiến hành thực hiện THQCT thì mới
đảm bảo hiệu quả. Có quan điểm cho rằng “phạm vi THQCT bắt đầu từ khi
khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng cáo kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự”. Theo Tiến sĩ Lê Hữu Thể (nguyên Phó Viện trưởng VKSND

tối cao) thì THQCT là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Tác giả cho rằng quan điểm trên có những điểm chưa hợp lý, còn thể hiện dưới
dạng khái quát, có phạm vi quá hẹp, đồng thời cũng chưa nêu được bản chất của
hoạt động thực hành quyền công tố so với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Quan điểm này chỉ đưa ra được bản chất của hoạt động THQCT là thực hiện
việc “buộc tội” của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Nếu chỉ để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội thì Cơ quan điều tra hay Toà án cũng có thể tiến hành các hoạt động tố tụng
để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy
nhiên theo quy định pháp luật TTHS hiện hành, trong quá trình giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền có
quyền tiến hành một số hoạt động xác minh, điều tra như: lấy lời khai, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và áp dụng một số biện pháp hạn chế
quyền con người, quyền công dân như: bắt, tạm giữ người trong trường hợp

15


khẩn cấp, phạm tội quả tang; gia hạn tạm giữ, thu giữ, tạm giữ các đồ vật, tài
liệu… những hoạt động này được tiến hành trước khi khởi tố vụ án và theo
Điều 165 BLTTHS thì khi THQCT trong giai đoạn điều tra VKSND có nhiệm
vụ phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT, trong đó việc
phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ của
CQĐT được VKS thực hiện khi chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can có nghĩa là
hành vi đó mới có dấu hiệu của tội phạm, cần xác minh làm rõ để có căn cứ khởi
tố hay quy định VKSND có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát toàn
bộ các hoạt động của CQĐT ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm,
chứ không phải sau khi đã khởi tố vụ án hình sự; VKS còn có quyền trực tiếp

giải quyết mọi nguồn tin về tội phạm trong trường hợp phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu
nhưng không được CQĐT khắc phục. Phạm vi THQCT cũng cần phải được
hiểu rộng hơn, tức là từ khi tội phạm xảy ra, từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố chứ không phải từ giai đoạn khởi tố
điều tra. Như vậy phạm vi THQCT bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật.
1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản
1.2.1. Đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án tham ô tài sản
- Đối tượng THQCT: THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
ô tài sản là các hoạt động đại diện cho Nhà nước tiến hành việc buộc tội đối
với người thực hiện hành vi phạm tội tham ô tài sản, bảo đảm việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có căn cứ pháp luật, bảo đảm mọi
hành vi phạm tội tham ô tài sản đều được phát hiện và khởi tố, điều tra, trừng
trị kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.

16


- Phạm vi THQCT: Phạm vi quyền công tố đồng nhất với THQCT có
nghĩa là phạm vi bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án. Quá trình giải
quyết vụ việc tham ô tài sản được tiến hành bởi các giai đoạn tố tụng độc lập
khác nhau như: giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố vụ án hình sự, điều
tra vụ án hình sự, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trong đó điều tra là giai đoạn
thứ hai được tiến hành sau khi khởi tố vụ án hình sự mà trong đó các cơ quan
có thẩm quyền điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và dưới sự kiểm sát của VKSND tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu

thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, để xác định tội phạm và người phạm tội,
làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi
thi hành nhiệm vụ (Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2012 của Bộ Chính trị). Như
vậy, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
ô tài sản được bắt đầu từ khi quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi
cơ quan điều tra có thẩm quyền ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
các bị can hoặc đình chỉ vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án tham ô tài sản
Việc xác định nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
ô tài sản có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định hoạt động nào thuộc THQCT,
hoạt động nào thuộc kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo pháp
luật). Hoạt động THQCT gắn bó mật thiết, song hành với kiểm sát hoạt động
tư pháp; hoạt động này sẽ tạo cơ sở để hoạt động kia được thực hiện và khi
thực hiện tốt hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ tác động ngược trở lại
hoạt động THQCT, giúp cho hoạt động THQCT được chính xác, đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nội dung của hoạt động THQCT là

17


việc sử dụng những quyền hạn pháp lý do pháp luật TTHS quy định để phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và tội phạm. Các hoạt
động của VKSND nhằm phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc
tội) thì sẽ thuộc nội dung THQCT. Nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự nói chung và đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng là
việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng và tiến hành các hoạt động sau:

“1. Yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. 2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ
quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
không có căn cứ và trái pháp luật.3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật này quy
định. 4. Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định của Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong
quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do. 5. Quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy
định của Bộ luật này. 6. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành
điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. 7. Trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu,
chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan

18


được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp
phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện
kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường
hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố. 8. Khởi

tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự
khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu
hiệu tội phạm. 9. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm
giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án ” (Điều 165 Bộ luật
TTHS năm 2015).
Theo quy định của pháp luật TTHS ở Việt Nam, quá trình tiến hành tố
tụng vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn độc lập khác nhau (giải
quyết nguồn tin về tội phạm, KTVAHS, điều tra vụ án hình sự, truy tố người
phạm tội, xét xử và thi hành án), ở mỗi giai đoạn đều quy định cụ thể quyền
năng của các CQTHTT kiểm soát và chế ước lẫn nhau; trong đó chức năng,
quyền hạn THQCT trong tố tụng hình sự được giao cho VKSND. Giai đoạn
điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm
tội, làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, nhân thân người phạm tội tạo điều kiện
cần thiết cho việc giải quyết vụ án; tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và
phòng ngừa tội phạm; góp phần phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho
quần chúng nhân dân. Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò như nêu trên nên
việc xác định đúng phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn này là cần
thiết.

19


1.2.3. Khái niệm tội phạm tham ô tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 đưa ra khái

niệm của tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Đối với tội tham ô, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là dấu hiệu quan
trọng nhất để xác định hành vi chiếm đoạt tài sản có phải là hành vi phạm tội
tham ô hay là hành vi phạm tội khác. Người phạm tội tham ô phải là người có
chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý đối với tài sản mà họ chiếm đoạt.
Vấn đề xác định tư cách chủ thể đối với tham ô tài sản, ngoài chức vụ mà họ có
do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc không hưởng lương thì điều quan trọng là những người này có được
giao thực hiện một công vụ, nhiệm vụ hay không? Theo BLHS năm 2015 thì
người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước
cũng là chủ thể của tội tham ô tài sản. Quy định này chỉ phù hợp với các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước là những doanh nghiệp, tổ chức cổ phần, còn
đối với doanh nghiệp tư nhân thì khó truy cứu trách nhiệm hình sự vì không ai
lại chiếm đoạt tài sản của mình cả. Khách thể của tội phạm tham ô tài sản trực
tiếp xâm phạm hai quan hệ xã hội đó là: xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và xâm phạm quan hệ sở hữu. Mặt
khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu: Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn tức là người phạm tội sử dụng quyền hạn do chức trách, nhiệm vụ,
công tác được giao như là một phương tiện phạm tội để thực hiện không đúng
chức trách của mình hoặc làm trái các quy định về chế độ quản lý tài sản thuộc

20



×