Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.86 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
__________________

ĐỖ THỊ THU HIỀN

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH.

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

ĐỖ THỊ THU HIỀN

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH.

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT



HÀ NỘI - năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới hình thức
nào trước đây. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá
được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Quảng Ninh, ngày

tháng năm 2019

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Thu Hiền


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới PGS.TS.
Nguyễn Như Phát là người hướng dẫn khoa học cho tác giả. Trong quá trình
hướng dẫn, PGS.TS. Nguyễn Như Phát bằng tinh thần, trách nhiệm, sự nhiệt
tình đã hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám

hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học
xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả
theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học
xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và
nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học.
Sau cùng, tác giả xin được cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo vệ
và kính mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các Thầy, Cô để tác giả
có điều kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được
tính hiệu quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Đỗ Thị Thu Hiền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ VÀ TRÌNH
TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP .................................... 7
1.1.Khái niệm về doanh nghiệp và đăng ký doanh nghiệp ............................... 7
1.2. Những điều kiện đăng ký doanh nghiệp .................................................. 11
1.3 Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp .................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ
TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO
PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH ................................................ 30
2.1. Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp ............. 30
2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký doanh
nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. .................................................................... 42
Chương 3: HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH
LẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TỈNH
QUẢNG NINH. ..................................................................................... 52
3.1. Nhu cầu và định hướng hoàn thiện .......................................................... 52
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện ..................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là đất nước nằm ở vị trí chiến lược trong khu vực Đông Nam
Á, là cửa ngõ quan trọng nối liền với các nước trong khối ASEAN và thế giới.
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để đầu tư kinh doanh như vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên thuận lợi, tình hình chính trị ổn định, nguồn lao động dồi
dào, môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, quy định pháp luật
đang dần được hoàn thiện. Từ những điều kiện thuận lợi đó Việt Nam đang
ngày càng thu hút nhiều nhà đầu tư kinh doanh. Trong thời gian qua, không
thể phủ nhận những hiệu quả tích cực của những doanh nghiệp đem lại đối
với nền kinh tế, đời sống, xã hội của nước ta như tạo việc làm cho người lao
động, đóng góp thuế cho ngân sách nhà nước, tăng mức thu nhập cho người
dân, xây dựng nhiều công trình vui chơi, giải trí, phúc lợi xã hội...
Vì vậy, để điều tiết nền kinh tế, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ
khác nhau. Một trong những công cụ sắc bén nhất và không thể thiếu như
không thể thay thế được là pháp luật. Do đó, Nhà nước đã liên tục tiến hành
những cải cách trong pháp luật để cải thiện môi trường kinh doanh trong
nước.
Trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh được coi là một trong
những nguyên tắc cơ bản. Không những vậy, nó còn là một trong những

quyền cơ bản của công dân, được thể hiện trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Trong đó, quyền này trước hết thể hiện ở
quyền thành lập doanh nghiệp. Vì vậy, thủ tục đăng ký thành lập doanh
nghiệp (trước đây gọi là đăng ký kinh doanh) là một nội dung, là một chế định
quan trọng trong pháp luật doanh nghiệp. Đây là thủ tục hành chính cho sự ra
1


đời của một doanh nghiệp và có vai trò pháp lý và thông tin quan trọng đối
với các chủ thể trong nền kinh tế thị trường.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của đăng ký thành lập doanh nghiệp,
Đảng và Nhà nước đã và đang đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Điều đó
được thể hiện rõ nét ở việc ban hành các luật doanh nghiệp như Luật Công ty,
Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990, Luật doanh nghiệp ngày
12/6/1990, Luật doanh nghiệp 2005 và mới nhất là Luật doanh nghiệp 2014.
Sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2014 với nhiều quy định mới tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Việt
Nam được kỳ vọng sẽ đem lại tác động tích cực trong việc đơn giản hóa thủ
tục đăng ký thành lập doanh nghiệp và rút ngắn thời gian ra nhập thị trường
của doanh nghiệp. Ở đây, cần thiết nghiên cứu cụ thể, sâu sắc các quy định về
đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2014, đặc biệt những
quy định liên quan đến “khuôn khổ pháp luật” để doanh nghiệp tự do thực
hiện quyền đăng ký thành lập doanh nghiệp của mình.
Trên thực tế, Luật Doanh nghiệp 2014 nói chung và những quy định về
thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật này nói riêng được áp dụng
trong phạm vi cả nước, trong đó có tỉnh Quảng Ninh.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khởi nghiệp, Quảng
Ninh đã đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 phải có 25.000 doanh nghiệp.
Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã có gần 18.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt
động, như vậy để hoàn thành mục tiêu, trong thời gian tới phải thành lập thêm

gần 10.000 doanh nghiệp mới. Đây được coi là nhiệm vụ vô cùng khó khăn,
do đó tỉnh Quảng Ninh đã và đang tập trung vận động thành lập, phát triển

2


doanh nghiệp và đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó có
hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, Quảng Ninh được coi là tỉnh đi đầu trong việc thực hiện
các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất để doanh
nghiệp gia nhập thị trường với thời gian nhanh nhất. Trong đó, trình tự, thủ
tục đăng ký thành lập doanh nghiệp được xem xét đầu tiên và góp phần phục
vụ doanh nghiệp trong phát triển kinh tế.
Vì vậy, với mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ
quy định mới của pháp luật doanh nghiệp về trình tự, thủ tục thành lập doanh
nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh qua đó chỉ ra những điểm tích cực, điểm
hạn chế của quy định pháp luật và kiến nghị hoàn thiện những quy định còn
chưa phù hợp nên em xin chọn đề tài luận văn: “Trình tự, thủ tục đăng ký
thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ninh”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong những năm gần đây, vấn đề pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký
doanh nghiệp đã được một số tác giả tìm hiểu, quan tâm nghiên cứu, tổng
hợp. Ở mỗi góc độ có cách thức nghiên cứu, đánh giá về Luật doanh nghiệp
2014 khác nhau. Vì vậy, tùy theo chủ quan của từng tác giả mà có cách phân
tích, nhìn nhận khác nhau, mang tính cá nhân. Đã có rất nhiều bài viết về
phân tích, đánh giá quy định pháp luật về đăng ký doanh nghiệp. Do đó, đây
là một đề tài nghiên cứu thực tiễn, góp phần xây dựng cơ sở lý luận về thực
thi về pháp luật đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Không
chỉ vậy, luận văn còn chỉ ra những điểm vướng mắc, hạn chế trong việc áp


3


dụng các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Cụ thể:
- Luận văn thạc sĩ Luật “Đăng ký doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Việt Nam – thực trạng và một vài kiến nghị”. Người thực hiện: Lê Thế Phúc.
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan Hương. Khoa Luật năm 2006. Luận
văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận của hoạt động đăng ký kinh doanh.
- Luận văn thạc sĩ Luật “Đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Người thực hiện: Đinh Thị Kiều Oanh.
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Học viện Khoa học xã hội
2018.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã nêu và giải quyết những vấn
đề pháp lý về đăng ký doanh nghiệp nói chung trên toàn quốc và ở địa
phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, tiếp cận từ
thực tiễn của Tỉnh Quảng Ninh. Do đó, đề tài nghiên cứu này hoàn toàn độc
lập và không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu đã được công bố trước đó.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xác định và làm rõ các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Việt
Nam. Bên cạnh đó đánh giá thực trạng pháp luật, kiến nghị hoàn thiện quy
định pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Việt
Nam ở một địa phương cụ thể là tỉnh Quảng Ninh.
Đối tượng nghiên cứu là quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký
thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể là Luật

4



doanh nghiệp 2014 và thực tiễn trong hoạt động đăng ký kinh doanh tại tỉnh
Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu và phân
tích những quy định về việc đăng ký đối với doanh nghiệp mới thành lập;
phân tích và đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động đăng ký thành
lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh.
Căn cứ pháp lý chủ yếu là dựa vào Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn
bản hướng dẫn luật (Nghị định 78//2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp,
Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp)
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu pháp lý liên quan đến các vấn đề, có
kết hợp so sánh, tổng hợp với thực tiễn để rút ra kết luận.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài của luận văn được nghiên cứu dựa trên những quy định của Luật
doanh nghiệp 2014 với nhiều quy định mới mang tính cải cách trong thủ tục
đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Luận văn là bản phân tích những quy định pháp luật; chỉ ra những điểm
mới, tiến bộ so với quy định pháp luật trước đây; đánh giá đầy đủ thực trạng
pháp luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Kết quả luận văn mong muốn góp phần xác định những quy phạm pháp
luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của quy định pháp luật hiện hành từ

5



thực tiễn tỉnh Quảng Ninh và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, mục lục, phần kết luận thì kết cấu của luận văn
này gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký và trình tự, thủ tục
đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành
lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn áp
dụng tại Quảng Ninh.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh.
Do thời gian nghiên cứu hạn chế, nội dung luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC
ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1.Khái niệm về doanh nghiệp và đăng ký doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đầu tư thành lập doanh nghiệp
đang là xu thế chung của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Điều này xuất phát
từ tầm quan trọng của các doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ: doanh nghiệp là
đơn vị sản xuất hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu chủ yếu của toàn xã hội.
Do vây, để hiểu được khái niệm doanh nghiệp một cách toàn diện và sâu sắc

nhất, ta phải xem xét từ góc độ kinh tế cũng như từ góc độ pháp lý.
Ở góc độ kinh tế, doanh nghiệp là một loại hình tổ chức nên mang những
đặc điểm chung như bao gồm thành viên, có một cấu trúc rõ ràng để các thành
viên thực hiện nhiệm vụ công việc của mình. Có thể nói đặc trưng riêng có
của doanh nghiệp để phân biệt doanh nghiệp với các đơn vị khác như cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội… chính là mục tiêu mà doanh nghiệp luôn hướng tới
đó là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “doanh nghiệp” được pháp luật nhìn
nhận với những đặc trưng riêng. Theo Luật Công ty năm 1990, doanh nghiệp
được định nghĩa như là “một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục
đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Theo định nghĩa này,
tất cả những đơn vị kinh doanh có hoạt động kinh doanh sẽ được công nhận là
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp theo Luật Công ty năm
1990 lại chưa thể hiện được những đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp cho
đến khi Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và mới
7


nhất là Luật Doanh nghiệp 2014 được ban hành và đưa ra một khái niệm
doanh nghiệp một cách cụ thể và đầy đủ hơn: “Doanh nghiệp là một tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh”.
1.1.2. Khái niệm đăng ký doanh nghiệp
Có thể nói rằng, sự hình thành của các doanh nghiệp là một quy luật tất
yếu khách quan của nền kinh tế. Từ ý tưởng thành lập doanh nghiệp để thực
hiện hoạt động kinh doanh, chủ thể kinh doanh cần tiến hành hoạt động đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thành lập hợp pháp doanh nghiệp.
Đăng ký doanh nghiệp (hay có thể nói là đăng ký thành lập doanh nghiệp)
chính là việc chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ để hình thành một tổ

chức kinh doanh. Người thành lập doanh nghiệp trước hết phải chuẩn bị trụ
sở, trang thiết bị phục vụ kinh doanh, đội ngũ nhân công, người quản lý…
Tại Việt Nam, khái niệm đăng ký doanh nghiệp được ghi nhận đầu tiên
trong Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 và tiếp tục được ghi nhận
trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên, khái niệm đăng ký doanh
nghiệp cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Ở góc độ quản lý nhà nước, một trong những biện pháp quản lý nhà
nước về kinh tế đó là đăng ký thành lập doanh nghiệp. Đăng ký thành lập
doanh nghiệp là một trong những hoạt động quản lý đầu tiên của nhà nước đối
với doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước có thể thực hiện các
hoạt động quản lý tiếp theo khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Thông qua
việc đăng ký thành lập doanh nghiệp, cơ quan nhà nước sẽ tiếp nhận được các

8


thông tin cần thiết về một doanh nghiệp, từ đó việc quản lý các doanh nghiệp
cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn.
Dưới góc độ kinh tế, đăng ký doanh nghiệp là hoạt động khởi tạo doanh
nghiệp của chủ đầu tư bao gồm các hoạt động đầu tiên tạo cơ sở vật chất cần
thiết để doanh nghiệp có thể tiến hành được hoạt động kinh doanh của mình
và các thủ tục pháp lý cần thiết để khai sinh hợp pháp ra doanh nghiệp đó.
Ở dưới góc độ pháp lý, đăng ký thành lập doanh nghiệp là một trong
những thủ tục pháp lý được thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp, mức độ cải cách hành chính và thái độ
của Nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh, mà thủ tục pháp lý này có tính
đơn giản hay phức tạp khác nhau. Nói cách khác, đăng ký thành lập doanh
nghiệp là thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định để thành lập hợp pháp
doanh nghiệp. Với tư cách là một chế định pháp lý, đăng ký thành lập doanh
nghiệp là tổng hợp các quy định do nhà nước ban hành, quản lý sự xuất hiện

trên thị trường của một chủ thể kinh doanh mới. Theo đó, chủ thể trực tiếp
tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy định của pháp
luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được Nhà nước công nhận và
bảo hộ bằng việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Đây là thủ tục pháp lý bắt buộc chung đối với tất cả các chủ thể khi tiến
hành hoạt động kinh doanh, là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng
nhận tư cách và khả năng kinh doanh cho chủ thể kinh doanh, đồng thời
khẳng định tư cách pháp lý và xác nhận địa vị pháp lý cho các chủ thể này.
1.1.3. Nhu cầu và mục đích của đăng ký doanh nghiệp.
Như đã nói ở trên, đăng ký thành lập doanh nghiệp là thủ tục “khai sinh”
ra doanh nghiệp. Hay nói cách khác, tư cách của doanh nghiệp chỉ được thừa
9


nhận và làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với doanh nghiệp
khi thông qua việc đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước: việc quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp là
thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động
kinh doanh nói chung và các chủ doanh nghiệp nói riêng được thể hiện qua
việc quy định việc đăng ký thành lập doanh nghiệp. Đồng thời, Nhà nước sẽ
thực hiện chức năng quản lý cơ cấu các thành phần kinh tế xã hội, số lượng,
hình thức, ngành nghề kinh doanh dựa trên địa bàn, kiểm soát các hoạt động
kinh doanh theo đường lối đã đề ra. Trên cơ sở đó Nhà nước sẽ nắm bắt được
thực trạng kinh tế của từng địa phương, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề để từ
đó có những chủ trương, chính sách, biện pháp khuyến khích hoặc điều chỉnh
phù hợp, giúp Nhà nước can thiệp một cách kịp thời và có mức độ vào nền
kinh tế, bảo đảm có được một nền kinh tế hiện đại nhưng không xã rời chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Ngoài ra, thông qua hoạt
động đăng ký thành lập doanh nghiệp, Nhà nước sẽ thu đúng và đủ thuế. Bởi
khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng là

thời điểm làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Đối với chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp: sau khi được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp được thừa nhận về
mặt pháp lý, tức doanh nghiệp đã được xác lập tư cách chủ thể. Do đó, doanh
nghiệp có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh như đã đăng ký dưới sự
bảo hộ của pháp luật. Đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng chính là cơ sở
pháp lý chắc chắn nhất để một doanh nghiệp yêu cầu cơ quan Nhà nước bảo
vệ các quyền và lợi ích cũng như tài sản hợp pháp của mình, đồng thời bảo
đảm tính pháp lý đối với các hoạt động của mình trong quá trình tiến hành
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi hiện nay phần lớn các doanh
10


nghiệp không muốn thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà nước. Nhưng
khi các chủ doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp theo yêu cầu
của Nhà nước đồng nghĩa với việc giúp cho những dự án kinh doanh mà
doanh nghiệp đã hoạch định sẽ có tính khả thi cao hơn.
Về mặt xã hội: đăng ký thành lập doanh nghiệp còn giúp chủ thể doanh
nghiệp thể hiện sự công khai hóa trước công chúng, khẳng định được việc
thành lập của họ là có thực, tránh tình trạng lừa đảo, gây tổn hại tới lợi ích của
bên thứ ba. Thông qua việc giám sát quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của chủ thể từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc phá sản của nhà nước cũng
góp phần ngăn ngừa hoạt động kinh doanh trái pháp luật, bảo vệ quyền và lợi
ích cho các chủ thể khác trong trường hợp phá sản hoặc giải thể.
Đăng ký thành lập doanh nghiệp còn có ý nghĩa kinh tế, khi bước vào
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vừa có tư cách là một thành viên trong
cơ cấu các thành phần kinh tế, các hoạt động của doanh nghiệp còn góp phần
tác động vào sự phát triển kinh tế của toàn xã hội.
Như vậy, việc đăng ký thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan
trọng không chỉ bảo đảm quyền lợi của bản thân các doanh nghiệp mà còn có

ý nghĩa đối với việc bảo đảm trật tự quản lý Nhà nước và bảo vệ lợi ích cho
các chủ thể khác trong xã hội. Chính vì vậy, đăng ký thành lập doanh nghiệp
vừa là một nhu cầu tất yếu, vừa đòi hỏi mang tính nghĩa vụ đối với một doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay.
1.2. Những điều kiện đăng ký doanh nghiệp
1.2.1. Điều kiện về chủ thể
Một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và được pháp luật
bảo vệ là quyền thành lập doanh nghiệp, Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể
11


trong xã hội đều có quyền thành lập doanh nghiệp. Theo quy định của Luật
doanh nghiệp 2014 và Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định
về đăng ký doanh nghiệp, việc thành lập, đăng ký kinh doanh và quản lý
doanh nghiệp tại Việt Nam, đây là quyền của cá nhân và tổ chức được Nhà
nước bảo hộ. Pháp luật doanh nghiệp nghiêm cấm các cơ quan đăng ký kinh
doanh và các cơ quan khác gây phiền hà cho người thành lập doanh nghiệp 1.
Luật doanh nghiệp 2005 đã có sự mở rộng chủ thể thành lập Doanh
nghiệp là tổ chức, cá nhận nước ngoài và họ có quyền thành lập và quản lý
doanh nghiệp ở Việt Nam 2; đồng thời họ cũng có quyền góp vốn, mua cổ
phần đối với các công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty Hợp danh và công ty
Cổ phần3. Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn ghi nhận sự mở rộng chủ thể thành
lập Doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ngoài ra, Luật Doanh
nghiệp 2014 đã quy định thông thoáng hơn, không có sự phân biệt, tách bạch
giữa chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài nên pháp luật hiện hành không dành một điều để quy định về trình tự,
thủ tục, điều kiện, nội dung cho việc đăng ký kinh doanh, đầu tư của nhà đầu
tư nước ngoài lần đầu tại Việt Nam. Về nguyên tắc, nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện quyền đăng ký doanh nghiệp như các chủ doanh nghiệp trong nước.
Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định 06 đối tượng

không được thành lập doanh nghiệp, đó là:
(1) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà
nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị
mình. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình là việc sử dụng thu nhập dưới

Điều 5 NĐ 78/2015/NĐ-CP, Điều 18 LDN 2014.
Khoản 1 điều 13 LDN 2005
3
Khoản 3 điều 13 LDN 2005
1
2

12


mọi hình thức có từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít
nhất một trong các mục đích sau đây: Chia dưới mọi hình thức cho một số
hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ quan, đơn vị; Bổ sung vào ngân sách
hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách
nhà nước; Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan,
đơn vị 4. Việc pháp luật quy định các chủ thể này không được tham gia thành
lập và quản lý doanh nghiệp là nhằm đảm bảo công khai, minh bạch trong huy
động, sử dụng ngân sách nhà nước. Đồng thời cũng góp phần ngăn chặn các
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước,
gây thiệt hại cho nguồn ngân sách nhà nước.
(2) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức, viên chức. Theo điều 20 Luật Cán bộ công chức năm 2008 có
quy định: “Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều
19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan
đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống

tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác
theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền”.
Tại điểm b Khoản 1 Điều 37 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005
cũng không cho phép cán bộ, công chức được “thành lập, tham gia thành lập
hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường
học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Có thể thấy, các đối tượng này đều đang đảm nhiệm công việc
công, công việc ổn định, thường xuyên và được trả lương từ ngân sách nhà
nước để đảm bảo đời sống, có nghĩa vụ phải hết lòng, tận tâm phục vụ xã hội,
4

Khoản 3 Điều 14 NĐ 102/2010/NĐ-CP

13


phục vụ nhân dân nên không thể dành thời gian thực hiện hoạt động kinh
doanh mang tính chất công việc tư. Vì thế, pháp luật không cho phép cán bộ,
công chức được thành lập doanh nghiệp là để tránh sự lạm quyền, nhập nhằng
giữa công việc chung và công việc tư, làm ảnh hưởng tới hiệu quả công việc
được giao. Đồng thời ngăn ngừa vì tư lợi cá nhân mà lạm dụng quyền hạn của
mình để làm phương hại đến lợi ích chung của xã hội, của Nhà nước.
(3) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên
chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an
nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để
quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp. Những chủ thể này có
vai trò quan trọng, được Nhà nước đầu tư giáo dục, đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ để thực hiện các nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội của quốc gia, được hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước. Do vậy,
việc tham gia thành lập doanh nghiệp có thể ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến
tư tưởng, hiệu quả công việc được giao nên pháp luật đã quy định cấm những
chủ thể này không được thành lập doanh nghiệp.
(4) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà
nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần
vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác. Đây là những người được Nhà
nước giao nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp nhà nước, những
doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Pháp luật quy định
cấm những chủ thể này nhằm tạo điều kiện để họ tập trung vào công việc
quản lý nhằm mang lại hiệu quả công việc cũng như để tránh sự tham nhũng,
quan liêu của những cán bộ lãnh đạo trong việc sử dụng nguồn vốn nhà nước.

14


(5) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân.
Nói đến tư cách chủ thể là nói đến khả năng mà chủ thể có thể tham gia vào
quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể độc lập, có khả năng tự mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham
gia.Một cá nhân có tư cách chủ thể đầy đủ, độc lập và hoàn thiện khi họ đã có
đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự
là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự 5. Năng lực hành
vi dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự 6. Năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực
tự chịu trách nhiệm hành vi dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Người chưa
thành niên, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì khả năng
thực hiện các nghĩa vụ dân sự của họ cũng sẽ bị hạn chế.
Tương tự, tổ chức không có tư cách pháp nhân, tức tổ chức không được

thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan; không có
tổ chức theo quy định; không có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác
và không tự chịu trách nhiệm bằng tài sản; không được nhân danh mình tham
gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Vì vậy, pháp luật cấm những chủ thể
này không được thành lập doanh nghiệp bởi nếu tham gia thành lập đăng ký
doanh nghiệp sẽ dẫn đến nguy cơ hoạt động của doanh nghiệp không được
đảm bảo.
(6) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình
phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo
dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ
5
6

Khoản 1 Điều 16 BLDS 2015
Điều 19 BLDS 2015

15


hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của
Tòa án; các trường hợp khác theo quy định về phá sản, phòng, chống tham
nhũng. Những cá nhân đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình
phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cái nghiện bắt buộc, cơ sở giáo
dục bắt buộc là những cá nhân đã bị tước hoặc hạn chế một số quyền, nên khi
tham gia thành lập đăng ký doanh nghiệp sẽ không có điều kiện để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của họ và khi xảy ra tranh chấp hay các khoản nợ,
những chủ thể này sẽ không thể đứng ra giải quyết được.
So với Luật Doanh nghiệp 2005 quy định trường hợp thứ 07 không
được thành lập doanh nghiệp là “các trường hợp khác theo quy định của pháp
luật về phá sản”, thì theo pháp luật doanh nghiệp hiện hành quy định “các

trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham
nhũng”.
Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định về điều kiện chủ thể
được đăng ký doanh nghiệp rõ ràng hơn, cụ thể hơn, phạm vi những chủ thể
bị cấm đăng ký thành lập doanh nghiệp mở rộng hơn, giúp nâng cao chất
lượng doanh nghiệp ngay từ khâu thành lập ban đầu, giúp các nhà đầu tư tiến
hành thành lập doanh nghiệp một các đúng pháp luật.
1.2.2. Điều kiện về khách thể.
Một là, điều kiện về đặt tên doanh nghiệp
Đặt tên doanh nghiệp là vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ
tới hoạt động kinh doanh sau này của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp là hình
ảnh thu hút khách hàng và là đặc trưng để nhận diện với các doanh nghiệp
khác. Tên doanh nghiệp còn được hiểu đó là tên gọi của Doanh nghiệp được
ghi trong Giấy phép đăng ký kinh doanh, nhằm chủ yếu để phân biệt các
16


doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Việc đặt tên doanh nghiệp phải
được thực hiện, tuân thủ theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014 và Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết vấn đề này.
Căn cứ theo quy định pháp luật, tên Tiếng Việt của doanh nghiệp bao
gồm hai thành tố 7, đó là:
(i) Tên loại hình doanh nghiệp. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
phải viết là “công ty trách nhiệm hữu hạn” hoặc “công ty TNHH”; đối với
công ty cổ phần viết là “công ty cổ phần” hoặc “công ty CP”; công ty hợp
danh viết là “công ty hợp danh” hoặc “công ty HD”; doanh nghiệp tư nhân
viết là “doanh nghiệp TN” hoặc “DNTN”.
(ii) Tên riêng của doanh nghiệp. Tên riêng của Doanh nghiệp được viết
bằng các chữ cái trong bản chữ cái tiếng Việt, các chữ F, J, Z, W, chữ số và
ký hiệu 8. Ngoài ra, chủ thể đăng ký doanh nghiệp còn có thể đặt tên doanh

nghiệp bằng tiếng nước ngoài. Tên doanh nghiệp bằng tiếng nước ngoài là tên
được dịch từ tên tiếng Việt sang một trong những tiếng nước ngoài hệ chữ Latinh. Khi dịch sang tiếng nước ngoài, tên riêng của doanh nghiệp có thể giữ
nguyên hoặc dịch theo nghĩa tương ứng sang tiếng nước ngoài. Tên viết tắt
của doanh nghiệp được viết tắt từ tên tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước
ngoài 9.
Theo quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện hành, khi đặt tên doanh
nghiệp, chủ thể đăng ký doanh nghiệp không được đặt tên doanh nghiệp trùng
hoặc gây nhầm lẫn với tên của các doanh nghiệp khác đã đăng ký tại Cơ sở dữ
liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc, trừ những
Khoản 1 Điều 18 NĐ 78/2015/NĐ-CP
Khoản 1 điều 38 LDN 2014
9
Khoản 1, khoản 3 điều 40 LDN 2014
7
8

17


doanh nghiệp đã giải thể hoặc đã có quyết định có hiệu lực của Tòa án tuyên
bố doanh nghiệp bị phá sản 10.
Ngoài những quy định về đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên
của doanh nghiệp đã đăng ký thì pháp luật doanh nghiệp còn quy định những
điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp như: tên doanh nghiệp dự kiến đăng ký
không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên
riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị
hoặc tổ chức đó; không sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử,
văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; cũng như không được
sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của tổ chức, cá nhân đã

được bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp, trừ những trường hợp
được sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đó.
Hai là, điều kiện về trụ sở doanh nghiệp.
Trụ sở doanh nghiệp là địa điểm liên lạc, giao dịch của doanh nghiệp.
Trụ sở chính của doanh nghiệp phải được đặt trên lãnh thổ Việt Nam và có
địa chỉ được xác định gồm số nhà, tên phố hoặc tên xã, phường, thị trấn,
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử 11. So với Luật doanh nghiệp
2005, thì doanh nghiệp không phải thực hiện việc thông báo mở cửa tại trụ sở
chính với cơ quan đăng ký kinh doanh và quy định về trụ sở chính của doanh
nghiệp cũng thông thoáng hơn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
10
11

Điều 39, điều 42 LDN 2014.
Điều 43 LDN 2014.

18


Việc quy định rõ ràng như vậy sẽ giúp cơ quan đăng ký kinh doanh
quản lý được doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp đăng ký thành lập
ở địa chỉ đó nhưng không hoạt động hoặc hoạt động không đúng địa chỉ đăng
ký.
Ba là, điều kiện về vốn góp
Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất, tài chính quan trọng nhất, là
công cụ để chủ doanh nghiệp triển khai các hoạt động kinh doanh cụ thể của
doanh nghiệp. Vốn có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ hoặc các tài sản khác.

Góp vốn là việc cá nhân đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở
hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn theo quy định
pháp luật có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật,
các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn
của công ty 12. Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công
ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn
điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập 13.
Bốn là, quy định về con dấu
Con dấu được hiểu là một vật dụng tạo ra những dấu hiệu để phân biệt
giữa các tổ chức với nhau hoặc giữa các cá nhân với nhau. Luật doanh nghiệp
2014 cho phép doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và
nội dung con dấu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nội dung con dấu có hai yếu
tố thông tin bắt buộc thể hiện trên con dấu đó là: tên doanh nghiệp; Mã số
doanh nghiệp và trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu

12
13

Khoản 4 điều 4 LDN 2005
Khoản 13 điều 4 LDN 2014

19


con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp 14. Sở dĩ pháp luật có quy định
này nhằm công bố công khai cho xã hội và bên thứ ba được biết về con dấu
của doanh nghiệp.
Quy định về con dấu cũng có sự khác nhau giữa Luật Doanh nghiệp và

Luật chuyên ngành mà cụ thể là Luật Công chứng 2014. Theo đó, đối với văn
phòng Công chứng được sử dụng con dấu không có hình quốc huy, văn phòng
được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định thành lập, thủ tục, hồ sơ
xin khắc dấu, việc quản lý con dấu được thực hiện theo pháp luật về con
dấu15. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp hiện nay quy định doanh nghiệp có
toàn quyền quyết định về nội dung, số lượng và hình thức con dấu. Đối chiếu
với Luật Công chứng, trường hợp văn phòng Công chứng được thành lập theo
hình thức công ty hợp danh thì rõ ràng phải chịu sự điều chỉnh của Luật
Doanh nghiệp nhưng quy định trên hoàn toàn không có sự thống nhất với
Luật Doanh nghiệp và dẫn chiếu tới Luật Doanh nghiệp.
1.2.3 Điều kiện liên quan đến giới hạn quyền tự do kinh doanh
Hiến pháp 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Để thực hiện và thể chế
hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh này, theo quy định tại khoản 1 điều 7 Luật
doanh nghiệp 2014 thì doanh nghiệp có quyền “Tự do kinh doanh trong
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm”. Các chủ thể kinh doanh hoàn
toàn có thể loại trừ các ngành, nghề pháp luật cấm để thực hiện quyền tự do
kinh doanh của mình đối với các ngành, nghề còn lại. Ngành, nghề kinh
doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được ghi và mã hóa theo
14
15

Điều 44 LDN 2014
Khoản 5 điều 22 Luật Công chứng 2014

20


×